Con tàu đằm sâu xuống mặt nước, kéo theo sau hai chiếc sà lan chở đầy than. Một hồi còi ngàn ngạt vang ra xa rồi tan loãng vào đôi bờ sông vắng, nhòa lối.
Từ lúc con tàu rời bến ở cẩm Phả, Luân đã cảm thấy có điều gì không lành. Cả buổi chiều, khi con tàu chạy men bờ biển, anh cứ nhắc người lái tàu và hai anh bạn thủy thủ: “Phải cẩn thận”. Nhưng cẩn thận cái gì thì anh không thể nói được. Phải chăng, cái điều gì ấy là lúc này đây. Lúc mà con tàu và hai sà lan đầy than đã vào sâu trong cửa sông, ngược dòng, hai bên bờ toàn những bãi bồi, trồng hoa màu chạy ngút ngát mãi tới chân đê như một gờ nhỏ đường chân trời. Tối mỗi lúc một sẫm. Xòe bàn tay ra trước mặt chỉ thấy nhanh nhánh sáng. Gió xoa nhẹ mặt nước. Thật vắng lặng! Không một ánh lửa, một tiếng động của làng xóm ven sông. Nhóm thủy thủ tàu kéo của anh đã nhiều lần qua đoạn sông này, nhưng vào lúc sáng trời. Thiếu gì những vụ đoạt tàu, cướp hàng đã xảy ra ở những khúc sông vắng vào đêm!
- Này! Đốt đèn lên đi - Luân nói to với hai người bạn đang ngồi trong cái lều sơ sài đầu sà lan.
- Sao? Sợ à? - Có tiếng người đáp trả, tiếp theo một chuỗi cười như chọc tức.
Luân tiến đến gần lều. Anh cúi khom xuống nhoài người ngồi vào chiếu thì cũng vừa lúc ánh đèn măng sông nhó lên.
- Dù sao trong đêm thấy ánh đèn cũng yên tâm hơn. Ngày xưa còn ở lính, cả đêm lầm lũi hành quân qua một vùng đất rộng không một ánh lửa, nhiều lúc mình có cảm giác như bị bỏ rơi trên mặt đất. Mình sợ cảm giác ấy lắm.
Vẫn tiếng cười vừa rồi của anh bạn:
- Chứ không phải cậu sợ bọn cướp? Vùng này gần cửa sông, bãi bồi, bãi nổi nhiều, cây cối lúp xúp là nơi tẩu tán hàng và ẩn nấp tốt cho bọn cướp đấy. Cậu biết chuyện tàu TK-8 của tay Thìn rồi chứ?
- Nhớ, bọn cướp lấy vợi cả một sà lan chở phân đạm.
- Còn lái tàu và thủy thủ chỉ biết đứng khoanh tay nhìn.
- Chúng tha vứt xuống sông là may đấy. Đã là thủy thủ của tuyến đường thủy này, không một thủy thủ nào không bị chúng cho đi viễn du với hà bá một lần.
- Chúng không ăn thịt mình là được. - Luân thủng thẳng trả lời.
- Nhưng chúng ăn thịt lẫn nhau đấy - Mắt anh bạn ánh lên trong ánh đèn măng sông - Tớ đã tận mắt thấy chúng ăn chia sau một phi vụ. Lúc ấy tớ bị trói giật cánh khuỷu và nhìn thấy tên đầu đảng rõ như tớ nhìn thấy cậu đây này. Chỉ bằng một động tác gọn và nhanh như chớp mắt, một đốt ngón tay của thằng đồng bọn đã lìa khỏi ngón.
- Vì sao vậy?
- Vì thằng ấy muốn ăn chia đều mà thằng đầu đảng lại không muốn.
Luân để tay lên vai anh bạn, cười:
- Nếu chúng xử sự với nhau như vậy thì làm sao cậu còn sống để kể cho tớ nghe được. Mình không tin đồng nghiệp với nhau chúng lại ác đến vậy.
- Thế đã thấm gì! Chúng còn đào cát chôn sống một thằng trên bãi, chỉ thò mỗi cái đầu lên phơi nắng để trừng phạt đấy. Thì cậu lạ gì, đồng nghiệp trong cùng cơ quan còn vu cáo, thư nặc danh, sát phạt nhau vào mỗi kỳ lên lương hay bình bầu, đại hội. Cũng là con người, là quyền lợi cả thôi. Còn nếu như cậu không tin thì thế nào cậu cũng sẽ một lần được gặp chúng... Đấy cậu cứ thử...
Anh bạn chưa nói hết câu, bỗng như tắc lại.
Miệng anh há ra ú ớ, mắt trợn tròn như người vừa bị trúng gió. Tay anh đưa lên chết lặng chỉ về phía bờ sông. Luân giật mình vì cảm giác vừa nhắc đến quỷ thì quỷ sứ hiện hình. Trên mặt sông những chiếc thuyền nhỏ như trồi lên từ trong lòng nước, nhất loạt lao đến. Những chiếc thuyền mỗi lúc một to dần và có thể nhìn thấy trên mỗi thuyền hai người lực lưỡng trùng trục, người đầu thuyền người cuối thuyền thoăn thoắt chém mái chèo xuống mặt nước. Những chiếc thuyền vun vút áp đến, những móc sắt nhọn sắc được tung lên như một trò ném dây, bầm bập móc chặt vào mạn sà lan. Rồi nhất loạt những bóng đen ấy lao lên tay xẻng, tay cuốc hất, cào than từ sà lan xuống những chiếc thuyền rỗng đang bám chặt bên mạn như những con đỉa không thể dứt ra nổi. Họ làm công việc đó một cách lầm lì và bằng những động tác dứt khoát khiến Luân nổi gai ốc.
Anh bạn thủy thủ nắm vai Luân, đôi cánh tay run lên, giọng díu lại vì sợ hãi:
- Đừng động gì đến họ. Chúng ta không làm gì nổi đâu... Họ mà nổi cáu thì chỉ một xẻng là chúng ta đi đời...
Luân nhìn sang sà lan bên, một anh thủy thủ khác lại đang tả xung hữu đột. Anh cầm một thanh sắt ngắn, cứ mỗi khi các móc từ những chiếc thuyền cắm chặt vào sà lan anh lại đập bay đi, làm những chiếc thuyền con mất điểm tựa tụt trở lại, xoay ngang trên mặt nước. Nhưng cũng chỉ trong chốc lát những chiếc thuyền lại nhao lên, vun vút trong móc sắt.
Anh bạn thủy thủ đứng cạnh Luân biến đâu mất. Chắc sợ, anh ta chui vào chỗ nào. Luân cầm chiếc đèn bão giơ lên quá đầu báo hiệu cho lái tàu biết có động để tăng tốc. Chiếc tàu kéo bỗng cựa mình, máy rùng rùng nổ, rồi một hồi còi ngàn ngạt cứ rền rĩ kêu lên giống như con vật bị trọng thương cầu cứu Luân xông vào đám cướp đang lì lợm, hùng hục xúc từng xẻng than đầy ắp hất xuống thuyền. Nhưng những bắp chân rắn chắc như cột lim thục sâu xuống đống than không nhúc nhích. Anh níu tay bọn cướp giữ lại, thì cũng chỉ một cái gồng nhẹ anh đã ngã soài trên sàn. Phía sà lan bên kia anh bạn thủy thù đẩy vài tên cướp rơi xuống sông. Không một tiếng kêu, chỉ có tiếng nước bắn tung tóe, và trên mặt nước sau sà lan, mấy cái đầu nhô lên thụt xuống cố tránh dòng nước xoáy. Bọn cướp cười khùng khục trong cổ họng, một thằng nói chỉ đủ cho nhau nghe:
- Khỏi phải vớt! Khắc chúng tìm được đường về.
Luân lồm cồm bò trên đống than, cảm thấy bất lực trước đám cướp đói khát, lì lợm này. Không hy vọng gì chúng rời bỏ sà lan khi mà những con thuyền trống rỗng bám hai bên chưa đầy than. Chúng từ đâu ra? Đói khát hay vì mất mùa! Hay cướp để kiếm sống đã thành nghề! Nếu như ban ngày gặp chúng ở hầm lò, phu khuân vác trên các bến sông thì chúng cũng chỉ như tất cả những người lương thiện khác, khó mà nhận ra dấu vết gì của kẻ bất lương.
Quan sát, thấy ở cuối sà lan có một tên nhỏ hơn cả. Luân lao đến. Bị bất ngờ, chiếc xẻng trong tay tên cướp văng ra. Hai người ôm nhau vật lộn, than lạo xạo, dính bê bết đầy mặt, đầy người. Cuối cùng anh đã đẩy được hắn xuống sông. Anh đang nghĩ tới chuyện xông vào một tên nào đó nữa, thì có một tiếng ra lệnh khô khốc:
- Chờ gì nữa mà không cho nó đi thăm Hà Bá.
Tiếng nói vừa dứt, một cái xẻng cứ như từ dưới sông trồi lên lao thẳng vào giữa háng anh và chỉ bằng một động tác đòn bẩy nhanh gọn cả người anh bị hất ngược lên cắm đầu xuống sông cứ y như vận động viên nhảy cầu vậy. Xoáy nước hút anh xuống sâu, trôi đi một đoạn dài, khi anh nhô được lên khỏi mặt nước thì tiếng cười của bọn cướp chỉ văng vẳng như từ một nơi nào rất xa, còn chiếc sà lan và con tàu kéo cũng chỉ là một màng đen thẫm, nặng nề lù lù trôi ngược sông. Cự ly giữa anh và con tàu cứ xa dần. Nước nguồn đầu mùa mát lạnh, cái nóng trong người anh vơi dần. Quá mệt mỏi, rã rời anh chỉ còn biết nằm ngửa trên mặt nước cho dòng chảy đưa đi.
Khi đứng được trên cát, anh tưởng rằng mình đã giạt vào một đoạn bờ nào đó. Anh tìm mãi nhưng không thấy bờ, chỉ thấy phù sa cứ dày mãi và nước lúc nào cũng xăm xắp ngang ngực. Đột nhiên, trên mặt nước nhòa nhòa sáng anh đã nhận ra những lùm lá tròn tròn và tiếng nước rí rách rất nhỏ vuốt qua những cành cây. Anh đã giạt vào một bãi nổi đầy cây sú vẹt ven sông. Nhằm hướng bờ, anh cứ lội cắt ngang dòng nước xuyên qua bãi sú vẹt. Anh phải lên bờ kiếm chỗ nghỉ qua đêm rồi đến sáng tìm đường về tàu.
Chỉ có tiếng động do chính anh gây ra trên mặt nước. Khúc sông vắng lặng đến rợn người.
Chợt có tiếng mái chèo khua trên mặt nước. Anh vội dìm mình xuống vít mấy cành sú rậm rạp che kín đầu, đôi mắt mở căng nhìn ra phía sông. Tiếng mái chèo khua nước mỗi lúc một to, rồi hình thù con thuyền nặng nề cứ lấn dần vào bãi. Từ mặt nước nhìn hất lên, anh thấy hai người đàn ông cởi trần, mỗi người ngồi một đầu thuyền thủng thẳng gạt từng mái chèo đưa thuyền tiến dần vào bãi, luồn lách qua những búi cây loi nhoi trên mặt nước. Anh gần như nín thở, chết lặng vì con thuyền chậm chạp trườn qua mặt anh chỉ trong tầm tay với. Thuyền đầy ắp than, lún xuống, mạn thuyền mấp mé mặt nước. Anh có cảm giác, chỉ cần anh đứng dậy xô mạnh thì lập tức thuyền sẽ chìm nghỉm.
Người ngồi trên mũi thuyền chọc mái chèo xuống sông đo nông sâu, chợt quay lại nói bằng giọng khàn khàn của người đứng tuổi:
- Lội được rồi đấy! Xuống đẩy đi.
Chỉ chờ có thế, người ngồi sau thuyền đã lội nhào xuống nước, giọng anh ta cất lên trẻ trung:
- Bác không phải xuống đâu. Mình em đẩy cũng được.
Nhưng người đàn ông đứng tuổi đã nhào xuống nước; và cứ thế người kéo, người đẩy đưa con thuyền lách qua những bụi cây. Luân cũng trườn người theo như một con rắn nước.
Người đàn ông đứng tuổi nói với lại, giọng rền rĩ:
- Dù là của ăn cắp nhưng nó cũng là mồ hôi nước mắt của mọi người cả đấy. Qua tay bao nhiêu người mới có tí than đến đây đấy. Xưa tôi cũng đã từng là phu mỏ mà, tôi biết.
Không có tiếng đáp trả, vẫn tiếng của người ấy:
- Chú phải nhớ, sáng mai có tiền mua lấy vài hộp sữa, cân đường cho thằng bé. Nó đã dứt cơn sốt chưa?
Bây giờ, người phía sau mới lên tiếng:
- Dạ, lúc chiều em vào xóm tìm bác, cháu vẫn nằm li bì, người nóng như hòn than.
- Nếu thế, mai phải cho đi viện đi. Còn cô ấy nữa, đang lúc nuôi con mà đói là không có sữa cho con bú đâu. Chú cũng phải mua lấy đôi, ba yến gạo để cô ấy ăn dần. Chứ lúc nào cũng dăm ba cái ngô với mấy củ khoai lang luộc là người rộc đi đấy.
Một tiếng “vâng” yếu ớt bị át đi vì tiếng lội nước bì bõm. Vẫn tiếng nói của người đàn ông phía trước nói với lại:
- Số tiền bán than đợt này được bao nhiêu chú cứ cầm cả lấy mà tiêu.
Người đàn ông đang đẩy thuyền phía sau như giãy nảy lên:
- Sao lại thế! Em không làm thế đâu.
- Chú cần tiền hơn tôi. Vợ ốm, con đau, không giúp nhau lúc này thì lúc nào? Thôi, việc đó coi như xong.
Cũng lúc ấy thuyền đã ra khỏi bãi sú vẹt, hai người vừa bơi vừa đẩy thuyền qua một đoạn sông hẹp. Anh nấp sau một bụi cây nhìn theo, cho tới lúc con thuyền mất hẳn vào đêm tối. Chỉ lát sau anh lên được bờ sông. Người ướt rượt, nhớp nháp. Bãi sông vắng lặng, giơ tay quờ xung quanh, toàn cây ngô lấp xấp lổn ngang vai. Thoảng trong gió mùi lá non, mùi bắp đang lên sữa, ngan ngát cả một vùng.
Không có dấu hiệu gì của làng xóm. Chỉ có tiếng dế rền rĩ, hoang vắng. Anh cứ rẽ lá ngô, dọc theo luống mà đi. Phải đi mãi qua mặt đê thì mới vào tới làng xóm may ra tìm được chỗ nghỉ qua đêm. Qua cuộc vật lộn và đằm mình trong nước anh thấy bụng kêu lóc róc, cồn cào. Chân anh nhiều bước cứ trẹo đi, người xiêu vẹo lá ngô nham nhám cứa vào cổ vào mặt. Người anh nhớp nhúa, ngứa ngáy đến khó chịu.
Đi như thế được bao lâu? Chợt anh sững lại. Hình như có tiếng hát. Không phải tiếng hát mà tiếng ru con. Anh thấy khắp mặt da rợn lên. Làm sao lại có tiếng ru trên bãi bồi hoang vắng này vào giữa đêm? Lần theo tiếng ru anh đi. Qua vài vạt ngô, tiếng ru cứ rõ dần. Đến một mô đất anh đứng vọt lên thì ngay trước mặt có ánh lửa. Không còn nghi ngờ gì nữa trên bãi bồi này có người ở. Một lùm tối thẫm có ánh lửa leo lét thỉnh thoảng lại chao đi vì gió. Anh đi gần như chạy lại và nhận ra đấy là một ngôi nhà tạm được dựng hầu hết bằng những phên lá mía, đứng chơ vơ giữa bãi. Ngay cánh cửa ra vào cũng là lá mía được ken lại bằng những sợi tre, dựng lên chắn gió.
Anh định lên tiếng gọi thì tiếng ru của một người phụ nữ từ trong nhà đã vẳng ra nghe xa vắng, buồn rười rượi:
À à ơi...
Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba con cùng béo vặt lông con nào?
Vặt lông cái vạc cho tao
Hành răm nước mắm bò vào mà thuôn.
À à ơi...
Tiếng ru cứ đều đều lan rộng rồi rơi ra mênh mông.
Qua khoảng trống tấm phên ở cửa, anh thấy trong nhà thật sơ sài, một chiếc giường rẻ quạt, một cái chõng kê ở góc cạnh cửa ra vào, một cái bàn con đóng bằng gỗ thùng trên cái đèn hoa kỳ. Giữa nhà treo cái nồi tre, trong ánh đèn dầu anh cũng vẫn nhận ra được khuôn mặt của một phụ nũ còn trẻ, nước da nhợt nhạt đang ngồi bên nôi ru con. Có tiếng con gì đó chạy loạt soạt trong đám cỏ khô, đôi mắt to đen, ngơ ngác như lo lắng, như chờ đợi.
Đợi tiếng ru dứt hẳn, anh vỗ nhẹ vào tấm phên cửa. Nghe tiếng động, người phụ nữ đứng bật dậy, chạy vội ra nhấc tấm phên sang bên. Khi nhận ra người lạ, chị lùi lại sợ hãi, da mặt càng nhợt nhạt hơn. Anh không dám tiến thêm một bước, vội vã nói một cách ôn tồn:
- Xin chị đừng sợ. Tôi là người đánh cá, không may bị nước nguồn mới về làm ụp thuyền nên tìm đến đây nhờ chị qua đêm.
Nhìn bộ quần áo ướt rượt của anh, chị tin ngay. Nét mặt chị đã giãn ra, nhẹ nhàng:
- Thế anh có mang được thuyền vào bờ không? - Chị hỏi.
- Không chị ạ. Tôi đánh vật với nó mãi ở cửa sông, nhưng nước chảy xiết quá. Nếu tôi còn cứ giữ lấy nó thì đến giờ cả tôi cũng đã cùng nó trôi ra biển rồi. Không chừng lại đến tận đảo Hải Nam ấy.
Anh mủm mỉm cười nhìn chị và thấy mình cũng đã láu cá bịa ra được câu chuyện đắm đò.
Chị thoáng cười vì câu nói đùa của anh, gặng hỏi:
- Có phải hàng ngày anh vẫn đi chiếc thuyền thúng đánh cá rồi gõ mái chèo vào mạn nghe ầm ĩ lên phải không?
- Vâng .. vâng... đúng tôi đấy. Nhưng làm sao mà chị biết được?
- Thì tôi ở đây. Ngày nào tôi chẳng ra sông giặt giũ, lấy nước... À, mà trông anh như đang rét phải không? Anh chờ tôi một tí nhé.
Chị trở nên hoạt bát, chạy vào cái ngách bên cạnh, rồi đưa cho anh bộ quần áo đã gấp cẩn thận.
- Anh thay đi. Bộ quần áo của chồng em đấy. Chắc là anh mặc vừa.
Anh cầm bộ quần áo và nhìn chị biết ơn.
Anh chạy ra ngoài chốc lát rồi lại xuất hiện ở cửa, tay lúng túng với bộ quần áo ướt. Thấy vậy, chị vội vã đẩy cái nôi cho đung đưa, đến cầm bộ quần áo ướt trên tay anh.
- Để em giũ qua rồi em phơi cho. Gió sông, chỉ sáng là khô thôi. Giờ anh đi nghỉ đi. Anh nằm tạm trên chõng mà ngủ.
Những lời nói ân cần của chị, anh thấy thư thái mà tĩnh tâm trở lại. Trong lúc anh ra ngoài thay quần áo, chị đã lấy chiếc chăn chiên và cái gối để sẵn trên chõng. Đắp chiếc chăn chiên ngang người, ngả lưng vào vách, anh nhắm mắt và thấy những sự viêc xảy ra vừa qua trên sông như không có thật. Kể cả việc anh đang ở đây, trong gian lều bên bãi vắng như trong mơ. Anh đã rơi vào một cảnh sống khác, mong manh hơn, buồn nản hơn nhưng chẳng có gì xa lạ với cuộc sống của những người như anh.
- Trước anh ấy cũng là bộ đội phải không chị?
Anh hỏi khi chị đang gõ những mảnh giấy và bốn, năm tờ bạc năm nghìn của anh bị ướt phơi gió trên mặt bàn.
- Vâng. Bộ quần áo anh đang mặc là của nhà em từ ngày còn ở bộ đội.
- Chắc giờ anh ấy đã chuyển ngành?
- Chuyện ấy từ mấy năm trước cơ.
- Còn bây giờ thì không?
Chị thoáng nhìn anh do dự, rồi thở dài:
- Cũng toàn chuyện rủi ro anh ạ. Nhà em chuyển ngành ra làm thợ hàn. Nhưng ngày ấy em ốm quá, nhà em trong lúc bí bức đã lấy của xí nghiệp bó que hàn đi bán, không may bị bảo vệ giữ. Thế rồi nhân chuyện giảm biên chế, nhà em về luôn. Giờ thì gặp việc gì nhà em làm việc ấy.
- Hôm nay anh ấy đi làm xa hả chị?
- Không. Nhà em nhận làm thuê rồi đi đi về về thất thường lắm - Chị trả lời một cách lo lắng.
Chỉ thế thôi, anh đã hiểu và cũng không muốn hỏi thêm về gia đình chị. Không khí trong gian nhà chợt lắng đi.
- Còn em trước kia cũng làm ở bến phà đấy chứ - Bỗng chị lên tiếng, muốn bộc bạch, trút vơi nỗi khổ của mình - Nhưng từ khi làm được cầu qua sông thì cũng chẳng ai cần bến phà nữa. Công nhân mỗi đứa mỗi ngả. Về ở bến sông này, sinh cháu xong em ốm suốt. Chẳng đỡ đần gì được cho nhà em cả.
- Hình như cháu ốm phải không chị?
- Vâng, lúc người cháu nóng hầm hập, lại lạnh. Em chẳng hiểu ra làm sao nữa.
Trong ánh đèn, anh thấy mắt chị như có ngấn nước. Anh ngả người xuống chõng, mắt nhắm lại, buồn thiu. Còn chị thì cứ ngồi lặng bên nôi, nửa như thức trông con, nửa như chờ đợi. Trong giấc ngủ chập chờn anh nghe thấy tiếng trẻ khóc u ơ rồi tiếng ru thật đằm thắm:
À à ơi...
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau
Chiều chiều ra đứng cổng sau
Nhìn về quê mẹ ruột đau chín chiều.
À à ơi...
Không biết anh ngủ được bao lâu thì có tiếng chân người thậm thịch rồi tiếng thì thào ở cửa làm anh tỉnh giấc. Giữa nhà, ngọn đèn hoa kỳ vẫn tỏa sáng và cái nôi khẽ đung đưa. Bên ngoài tiếng chân người lại xa dần, tiếng người phụ nữ nói với theo cố ghìm lại nhưng anh nghe rất rõ:
- Có tiền anh nhớ mua cho con mấy quả cam với hộp sữa nhớ.
Không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng chân dừng chốc lát rồi lại rộ lên mất dần vào đất bãi.
Mới mờ sáng, anh tỉnh dậy. Giữa nhà ngọn đèn hoa kỳ vẫn cháy nhưng ánh sáng loãng dần. Người phụ nữ chắc mệt, ngả đầu lên bàn ngủ từ bao giờ. Trong giấc ngủ nét mặt chị vẫn có gì như thảng thốt. Anh ra dây phơi lấy bộ quần áo của mình. Thay xong, anh gấp bộ quần áo đã mượn đêm qua cẩn thận để đầu chõng. Sợ chị tỉnh giấc, anh nhẹ nhàng lấy những giấy tờ của mình mà đêm qua chị đã dăng trên mặt bàn. Còn mấy tờ bạc năm nghìn anh để lại. Và, anh bỏ đi rất nhanh, như chạy trốn.