MATTHIEU: Điều gì thật sự quan trọng trong cuộc sống? Điều gì mà trong thâm tâm ta xác định là cốt lõi? Chắc hẳn phải có, bên trong chúng ta, một điều gì đó thúc đẩy ta, một đường hướng cần thiết và đem lại một ý nghĩa cho từng bước chân của ta. Sống không phải là đành lòng trôi dạt theo những sự gặp gỡ và hoàn cảnh, làm được chăng hay chớ, cho qua ngày. Tôi không nói rằng sáng ra vừa mở mắt đã phải quyết định là ta sẽ thay đổi thế giới, nhưng tôi thấy dường như điều cơ bản là phải nhìn thấy một sự liên tục nào đó, một tiến triển, trong điều mà chúng ta mong đạt được trên hết mọi thứ trong đời. Một số người không thích “xây dựng bản thân suốt đời”. Thế nhưng, tháng nối tháng, năm tiếp năm, ta tự xây dựng, không phải để thỏa mãn bản ngã, mà để trở thành một người tốt đẹp hơn, vị tha hơn và sáng suốt hơn. Ta không thể bất thần quyết định sẽ phụng sự người khác 100%. Cần có thời gian mới đạt được khả năng biến lý tưởng này thành hiện thực.
CÁI THÚC ĐẨY CHÚNG TÔI
ALEXANDRE: Ngoài những khát vọng lành mạnh thôi thúc chúng ta đi tới, luôn tiến lên, còn cả vô vàn tham vọng ích kỷ làm chúng ta đảo điên và đau khổ. Spinoza, trong cuốn Đạo đức học, đã phân biệt rõ ràng những mong muốn chính đáng (những điều sinh ra từ trong sâu thẳm và từ căn tính ta) với những mong muốn không chính đáng mà chúng ta đưa từ bên ngoài vào. Quảng cáo, thứ khơi dậy cả ngàn ham muốn, là một ví dụ tuyệt vời. Phân biệt trong ta cái nào thuộc về ham muốn chính đáng, cái nào không là một bài tập có sức giải phóng ghê gớm. Nếu tôi nhìn vào những trông đợi dệt nên đời tôi, tôi sẽ đánh bật được nhu cầu dữ dội phải đi vào khuôn khổ, phải làm hết sức mình, đến mức kiệt sức, để bắt chước người khác. Nhờ có khổ tu, những tu tập, tôi bắt đầu phân biệt được những ảnh hưởng, những tất định luận đè nặng lên mình. Việc quan sát mỗi dục vọng lướt qua tâm trí và xem nó bắt nguồn từ đâu gần giống một trò chơi. Ta có thể tìm thấy tự do trong bài tập này, rồi thì mỗi giây phút tồn tại đều có thể trở thành dịp để giải phóng ta, vì ta sinh ra không phải đã tự do, mà ta phải trở nên tự do.
CHRISTOPHE: Câu hỏi về những nguyện vọng sâu xa nhất của tôi, ngay lúc này, làm tôi có chút lúng túng. Trong một thời gian dài, tôi gần như có cảm giác mình đang đi trên một lộ trình sống còn, cố đi đến thứ làm mình đỡ khổ, đồng thời không làm đau người khác. Đây là một quy tắc theo trực giác chi phối cách sống của tôi thì đúng hơn là một nguyện vọng hay lý tưởng có ý thức. Do vậy, việc tôi thành thầy thuốc cũng khá hợp lý vì thực ra, khi làm vơi nỗi khổ của người khác, tôi đạt được một kiểu khuôn khổ xã hội tương ứng với thứ mà tôi muốn đi đến một cách vô thức. Dần dần, tôi bắt đầu biết phân biệt hơn. Từ lâu tôi đã luôn tìm kiếm sự an toàn. Tôi muốn gia đình mình không bị thiếu thốn vật chất, một nỗi lo có lẽ thừa hưởng từ cha mẹ tôi, những người xuất thân từ tầng lớp nghèo. Tôi muốn che chở cho người thân, và đương nhiên là cả chính tôi. Nhưng đây không phải là những nguyện vọng cao cả, và rõ ràng nghề y đã giúp tôi đi xa hơn. Giờ đây, tôi thấy rất khó nói rằng nguyện vọng sâu xa của tôi thật sự chỉ là giúp người khác đỡ khổ. Tôi không biết điều đó là từ trong sâu thẳm mình hay từ bên ngoài… Và tôi cũng không muốn làm ra vẻ là một vị thánh!
ALEXANDRE: Trong con người có một khả năng kỳ lạ là tự dối lòng và tự huyễn hoặc. Phải cực kỳ trung thực thì mới dám thừa nhận rằng những mong muốn của mình không phải bao giờ cũng trong sáng, và thỉnh thoảng, khi lấy cớ cứu người khác, chúng ta tìm kiếm trước hết sự công nhận, một phương tiện để băng bó vết thương của ta. Có bao nhiêu là ảnh hưởng đúc khuôn hành động và cách sống của ta, ngay cả cách ta nhìn thế giới. Nếu xem lại hành trình của mình, tôi sẽ phát hiện ra rất nhiều khoảnh khắc mà tuy tôi tin mình hoàn toàn tự do nhưng thực ra tôi chỉ đang tự dối lòng mà thôi. Khi nhìn kỹ hơn một chút việc mình hứng thú với đời sống tâm linh, tôi phát hiện ra, trên hết, tôi có một nỗi sợ ghê gớm là phải chịu đau khổ. Thật ra, ban đầu, tôi giống kẻ đắm tàu tìm phao cứu sinh. Dần dần, động cơ chủ yếu tập trung vào mình này lớn thêm, và tôi bắt đầu mở lòng với người khác.
MATTHIEU: Ngày còn ở Viện Pasteur, tôi có một anh bạn đồng nghiệp tên là Ben Shapiro. Tôi ngồi chung bàn làm việc với anh ta, và thỉnh thoảng chúng tôi bàn sự đời. Chúng tôi không biết mình thật sự muốn làm gì trong đời, nhưng chúng tôi biết cái chúng tôi không muốn: một kiếp sống nhàn nhạt không ý nghĩa cũng không ích lợi, không gợi lên trong chúng tôi niềm vui hay nhiệt huyết nào mỗi ngày.
Hiển nhiên, mục tiêu đầu tiên của tất cả mọi người là sống. Có những lúc, hay những nơi trên thế giới, mà sống thậm chí còn là ưu tiên số một, vì phải đối mặt chiến tranh, nạn đói, bệnh dịch, tai ương. Nhưng khi ta không cảm thấy bị đe dọa trước mắt, dù rằng sự vô thường cứ đuổi theo sát gót và ta không bao giờ biết ngày mai sẽ ra sao, ta phải tự nhủ rằng ta sẽ không chỉ “giết thời gian” và phung phí đời mình. Ta cần lên kế hoạch cho một sự phát triển, một dạng thành tựu. Riêng tôi thì tôi luôn tự hỏi: “Hạnh phúc là gì? Gom góp lạc thú? Tìm thấy niềm mãn nguyện sâu xa hơn? Hiểu tâm mình vận hành ra sao? Hay tập tử tế hơn với người khác?” Với tôi, những điều đó tựu trung lại là đặt cho mình câu hỏi: Cái gì quan trọng nhất trong đời mình? Tôi cũng sẽ nói, như Alexandre: Đâu là những mong muốn từ sâu thẳm trong mình, và đâu là những mong muốn từ bên ngoài mà đến, áp đặt hay lừa lọc gợi ý, như những thứ lấp lánh của xã hội tiêu thụ? Tôi nhớ có hôm một người bạn Tây Tạng, tại Quảng trường Thời đại ở New York, giữa những bảng hiệu sáng lóa cứ thường trực lôi kéo mắt nhìn, nói với tôi rằng: “Chúng đang cố cướp lấy tâm trí tôi!”
Đến một lúc nào đó, thoát khỏi mọi ảnh hưởng bên ngoài, ta phải tự hỏi: Điều gì thật sự đáng giá? Điều gì khiến mình nghĩ rằng mình đã không để phí thời gian? Ta có thể đều đặn đặt cho mình câu hỏi này và, hai mươi năm sau, nhìn lại, ta cũng nên có cảm giác như người nông dân đã dốc hết sức trồng cấy cánh đồng của mình. Dẫu không phải lúc nào mọi chuyện cũng diễn ra như ta mong đợi, ta vẫn phải có khả năng nghĩ rằng: “Mình không hối tiếc, vì mình đã làm mọi thứ mình làm được, trong khả năng của mình.”
CHRISTOPHE: Khi Patrick Modiano nhận giải Nobel, trong bài diễn từ nhận giải, ông ấy đã nói đại ý là: “Khi đọc các bài viết liên quan đến mình, tôi rất ngạc nhiên với việc người ngoài thấy một sự mạch lạc trong tác phẩm của tôi, trong khi đó, với tư cách tác giả, tôi thấy mình như một người lái xe chạy trong đêm và không thấy gì xa hơn luồng đèn pha xe mình. Mục tiêu chỉ là vẫn đi trên đường, không chạy quá tốc độ quy định, không chẹt chết lũ nai băng qua…” Tôi thấy chức năng của mình cũng có chút gì tương tự như vậy: làm mọi điều tốt đẹp và càng ít điều xấu càng tốt với người khác cũng như với chính mình. Ngoài ra thì tôi thấy khi đến một số ngã tư nào đó, tôi đã chọn xem nên đi đâu, theo cách có cân nhắc. không chỉ là tình cờ mà tôi rẽ trái hay rẽ phải. Nhưng nó cũng không liên quan gì đến một cái nhìn từ trước hay một đồ án sống cầu kỳ và có cấu trúc.
CON ĐƯỜNG VÀ ĐÍCH ĐẾN
MATTHIEU: Tôi nhớ là đã gặp, ở Canada, một nhóm thanh niên vừa ra trường. Suốt sáu tháng họ đã gặp các chuyên gia tư vấn nghề nghiệp và điền các bản câu hỏi, người ta chỉ cho họ đi hướng này hướng kia. Nhưng làm sao mà định hướng đời mình bằng những bản câu hỏi và nghe theo lời khuyên của những người hầu như không biết gì về ta? Tôi nói với họ: “Tại sao các anh chị không ngồi xuống bên bờ hồ một lát, chỉ một mình hay với ai đó mà anh chị rất yêu quý? Đừng điền các bản câu hỏi nữa, hãy đóng máy tính lại, tự hỏi cái mà anh chị thật lòng muốn làm trong đời, và để cho câu trả lời tự lộ ra từ trong sâu thẳm con người mình.”
Hành trình lâu dài hay những gian truân của nó không phải là một trở ngại. Khi ta du hành trên Himalaya, mọi chuyện không phải lúc nào cũng dễ dàng. Khi thì thời tiết tốt, khi thì thời tiết xấu. Cảnh vật có thể đẹp tuyệt trần, nhưng ta cũng có thể phải dừng chân vì một hẻm núi hay lội bì bõm trong một rừng già sình lầy giữa lòng thung lũng nhiệt đới. Thế nhưng, mỗi bước sẽ đưa ta đến gần nơi ta muốn đến hơn, và điều đó khích lệ ta. Nhân đây, định nghĩa về nhẫn nhục, một trong sáu “đại hạnh” của đạo Phật, hay paramita, mà cậu nghiên cứu ở Hàn Quốc, Alexandre ạ, là “hoan hỉ khi đem lại lợi lạc”. “Lợi lạc” ở đây không phải là một việc tốt đơn giản, mà là cái gì đó truyền cảm hứng cho ta sâu sắc, nó là niềm hoan hỉ dưới dạng nỗ lực. Dẫu hành trình đôi khi cam go, niềm hăng hái vẫn còn nếu ta tiến tới nơi mà ta thật lòng muốn đến. Trái lại, nếu ta đi lạc và thấy mình không còn vạch mốc, ta sẽ nản chí. Thêm vào cái mệt mỏi còn có nỗi lo và cảm giác bất lực. Ta không còn muốn bước nữa mà chỉ muốn ngồi xuống, lả đi và tuyệt vọng. Bởi thế cho nên phương hướng ta đặt ra cho mình trong đời đóng một vai trò rất quan trọng.
Các nhà tâm lý học về hạnh phúc, như Daniel Gilbert, nói rằng tự nỗ lực đã đem lại sự mãn nguyện, đến được đích rồi thì ta sẽ khá thất vọng. Khi nói chuyện với anh ta, tôi mạo muội nói: “Chẳng hạn nếu tôi muốn một chiếc Maserati, tôi sẽ rất hào hứng, và nếu nghĩ kỹ thì tôi thấy mình cũng ‘hạnh phúc’ trong khi phải lao tâm khổ tứ đủ cách để kiếm tiền. Nhưng tậu được chiếc xe rồi thì tôi sẽ sợ người ta va quẹt hay lấy trộm và vậy là, cuối cùng, chuyện này không đem lại cho tôi niềm hạnh phúc tôi mong đợi.” Nói vậy có nghĩa là, chừng nào còn lẫn lộn về điều thật sự đem lại hạnh phúc thì ta sẽ thấy thất vọng khi đạt được mục tiêu. Nhưng nếu mục tiêu cũng đáng bỏ công, chẳng hạn nếu tôi muốn trau dồi sự sáng suốt và lòng nhân ái, cả con đường lẫn đích đến đều sẽ khiến tôi hài lòng. Rắc rối là ở chỗ chúng ta thường dối mình khi chạy theo những mục tiêu hão huyền, như giàu có, tiếng tăm, vẻ đẹp bên ngoài – bao nhiêu ảo ảnh không thật sự giúp gì cho sự phát triển của ta.
ALEXANDRE: Liên tục đi tới, không bị trói buộc vào một mục tiêu, rất khó. Tôi phải luôn tự hỏi cuộc sống kêu gọi tôi tới cái gì, ngay lúc này đây. Khi tôi băng qua những vùng nhiễu động, câu hỏi này khuyên tôi có hành động, mà không thúc hối tôi. Nó dẫn dắt tôi tới cái cụ thể khi tôi lạc trong sương mù trí óc. Trong Phúc Âm, Jesus nói rằng “con người không có chỗ mà gối đầu”. Tương tự như vậy, trong tu hành Phật giáo, người tu không được trụ ở đâu cả. Ngay khi có chấp trước là khổ xuất hiện. Theo một nghĩa nào đó, những chế nhạo và thử thách có thể giải phóng ta khi chúng đến đuổi ta ra và ngăn ta ở lại trong một cảm xúc hay một hình ảnh. Trên tàu điện ngầm, thiên hạ cười rúc rích khi tôi đi ngang qua, tôi tận dụng cơ hội đó để nhắc mình rằng tôi không chỉ là cái bề ngoài, rằng sâu thẳm con người tôi thì nằm ngoài mọi cái nhìn.
Tôi thích cái ý thiên chức hơn là cái ý đích đến, nó nhắc tôi rằng không phải tôi là người quyết định cuối cùng. Ta hãy gọi đó là ý muốn của Chúa Trời hay tiếng gọi của cuộc đời hay cả ngàn cách khác, và ta chỉ cần ghi nhận rằng cái tôi nhỏ bé không phải là thuyền trưởng. Có một thực tại sâu xa hơn nhiều đang cầm lái. Điều này, trái lại, không cản trở việc dấn thân hay hành động. Ta không rơi vào thuyết định mệnh cũng không xua đuổi đích đến, ta luôn tiến lên. Giáo huấn của Thiền tông về điểm này rất rõ ràng: hãy làm mọi chuyện thật hoàn hảo và thản nhiên với kết quả.
MATTHIEU: Đích đến mà tôi nói là cái khơi nguồn cho tôi, nó không phải cái ám ảnh tôi và tôi không dồn mọi tham luyến vào đó. Gọi nó là một đường hướng hay một nguyện vọng thì thỏa đáng hơn, và nó không chịu những giới hạn. Trong đạo Phật, ta dè chừng mọi chấp trước, kể cả chấp trước một mục đích cao cả, vì sự chấp trước này tạo ra hiệu quả trái với cái ta tìm kiếm. Ta có thể khao khát được giải thoát khỏi những nguyên nhân gây khổ, khỏi ích kỷ, vô minh, đố kỵ, ngã mạn, nhưng dụng đích không phải là tính điểm, mà là xác định xem ta muốn hướng tới cái gì, và nó có đáng hay chăng.
ALEXANDRE: Tôi rất thích sự phân định giữa cái tôi xã hội, nghĩa là tập hợp những vai trò mà ta đóng hằng ngày, và cái tận cùng, cái sâu kín của ta, thứ vượt ra ngoài mọi nhãn hiệu và không thể định nghĩa. Toàn bộ sự tu hành suy cho cùng là để vào ngụ trong đó, thay vì chết rục trong cái tôi phiến diện cứ thay đổi và chịu khổ. Sự phân biệt này an ủi tôi rất nhiều. Nó khai thông một con đường đặc biệt, xóa sạch những nhãn dán, và có thể bắt đầu bằng những câu hỏi rất đơn giản: Thật ra thì mình là ai? Những chọn lựa nền tảng trong đời mình là gì? Những ảnh hưởng nào đã tạo nên mình cho đến hôm nay? Tôi thấy ngạc nhiên về cách chúng ta bù đắp cho những thiếu sót của mình, chúng ta bắt chước người khác để xây dựng bản thân. Trong cuốn Đạo đức học, Spinoza khuyên chúng ta hãy nhận ra mọi nguyên nhân thúc đẩy chúng ta hành động hay phản ứng. Tự do sinh ra từ việc nhận thức được điều này trong từng khoảnh khắc.
MATTHIEU: Vấn đề hoài nghi cũng quan trọng. Vài năm trước, tôi dịch cuốn tự truyện bằng tiếng Tây Tạng của Shabkar, một hành giả sống cách đây cũng hơn hai thế kỷ. Tình cờ là trong thời gian đó người ta cũng đang xuất bản tiểu sử của nữ thánh Térèse thành Lisieux. Tờ Le Monde đã đăng một bài về hai tác phẩm này. Đại để thì họ nói rằng cuộc đời của Shabkar không thú vị lắm vì con đường của đại hành giả Tây Tạng này vô cùng quen thuộc. Ngài đi từ vô minh đến giác ngộ như thể ngài dạo chơi trong rừng. Hẳn là ngài cũng phải chịu đựng những thử thách thể xác, nhưng không có những “đêm đen của tâm hồn”, những hoài nghi vò xé, trong khi đó ở thánh Térèse thành Lisieux, có những lúc ngài một lòng tin tưởng, thế rồi, lúc sau lại chỉ là khoảng hư vô, Chúa Trời dường như đã biến đâu mất.
Khi xem xét sự khác biệt giữa hai hành trình, tôi thấy dường như là, đối với các tín đồ Cơ Đốc, mối tương thông với Chúa Trời quan trọng hơn hết thảy, vì họ từ bỏ mọi mối bận tâm trần tục. Cho nên tất cả đều phụ thuộc vào sự hiệp thông mãnh liệt giữa họ với Chúa Trời, cũng như sự tồn tại của Chúa Trời. Thế nhưng sự tồn tại này là một bí ẩn, muôn đời không thể tiếp cận. Ý niệm bí ẩn này thật tuyệt vời. Như thể có một ngọn núi hùng vĩ đời đời ẩn sau những đám mây nhưng truyền cảm hứng cho toàn bộ sự tồn tại chúng ta. Có những lúc ta tin tưởng sâu sắc rằng nó ở đó, ta tương thông với nó, rồi lại có những lúc lòng ta đầy hồ nghi. Do vậy mà có những cảm giác nhiệt thành, lớn lao, thần bí, theo sau lại là những đêm đen mịt mùng.
Trong đạo Phật, giác ngộ là một mục đích được định nghĩa rõ ràng, nó nằm trước mặt tôi, có chút giống như đỉnh Everest đối với kẻ muốn leo lên. Tôi không băn khoăn về sự tồn tại của thứ hùng vĩ trước mắt tôi, mà tôi tự hỏi mình có đủ sức để lên đến đỉnh hay chăng, và tôi ra bãi biển không tốt hơn sao. Nhưng khi nghĩ kỹ thì tôi thấy rõ rằng mình khát khao leo lên ngọn núi này vì tôi biết rằng thật sự cần thoát khỏi vô minh, hận thù, đố kỵ, ngã mạn, tham lam, vậy là tôi không đắn đo nữa. Tu tập theo đạo Phật tất nhiên không được miễn những chướng ngại. Ta có thể lạc khi thiền, tưởng lầm là mình đã đạt đến những trạng thái chứng ngộ cao siêu, trở nên thối chí, rơi vào cái nhị nguyên hy vọng và sợ hãi. Nhưng rõ ràng những trở ngại này không nguy kịch bằng sự luân phiên giữa đức tin và ngờ vực như mẹ Teresa đã tả trong Tự truyện.
ALEXANDRE: Tôi đến Hàn Quốc còn là để tìm hiểu sâu hơn nữa cuộc đối thoại giữa các tôn giáo. Con đường không hề thư thả, dẫu rằng nó khuyên tôi có thái độ vô chấp và không tuyệt đối hóa. Nhiều lúc, các Phật tử nhẹ nhàng răn dạy tôi: “Sao anh lại tin có một Chúa Trời có nhân cách? Cái ý niệm Đấng Sáng Tạo này thật đúng là nhảm nhí.” Và khi tôi quay sang một vài tín đồ Cơ Đốc thì tình hình cũng không khá hơn, họ trách tôi là đi tìm ở nơi khác: “Sao anh lại theo Thiền tông khi mà trong Phúc Âm đã nói Jesus là con đường, là lẽ thật, là sự sống?” Nhưng may sao, có cả ngàn ví dụ về sự giao hảo. Gần đây tôi đến một thánh lễ có một nhà sư Thiền tông tham dự. Và tôi thấy thầy, như một đứa trẻ, lắng nghe lời mục sư với sự sẵn lòng vô cùng. Khi thầy đọc thánh vịnh, tôi nhận ra rằng chính trong thực hành mà chúng ta hòa hợp. Thật phi thường khi một nhà sư đã truyền cho tôi, chỉ bằng sự hiện diện, cái mong muốn mạnh mẽ được chuyên tâm hơn nữa cho một đời cầu nguyện. Thật ra, thầy tránh xa các lý thuyết, suy biện: thầy sống giữa tâm của đời sống nội tâm. Không phủ nhận những khác biệt về tầm vóc tồn tại giữa đạo Phật và đạo Cơ Đốc, tôi thấy vui vì có những cây cầu nhỏ và kinh nghiệm ta có thể sẻ chia. Không có gì tệ hại hơn là chiến tranh giữa các tôn giáo, mà suy cho cùng là kết quả của tính giáo điều và rất ít tính đạo.
Theo dòng cuộc đối thoại này, tôi nhận thấy ý niệm ân sủng, nghĩa là một tặng vật, một sự phù hộ cho không, là điều cốt lõi trong đức tin Cơ Đốc. Và chính điều này làm tôi ngoảnh mặt một chút những khi tôi không ổn. Để phó mặc, tin tưởng trong khi quanh ta mọi thứ đều lung lay thì cần có sự táo bạo ghê gớm vượt quá sức tôi giữa lúc đau đớn giày vò. Khi đàm đạo với Matthieu, tôi dần dần hiểu rằng đạo Phật đem lại một con đường, một phương pháp để đạt tới giác ngộ, để leo lên ngọn Everest cực lạc. Và những ai muốn theo dấu chân Đức Phật được khuyến khích cầm lấy gậy hành hương, chuyển tâm, thực hành Bát Chánh Đạo để khởi sự cuộc leo núi này. Nói chung, như Matthieu đã nói, ngọn Everest ở đó và chúng ta chỉ việc leo lên thôi, dẫu rằng lộ trình vô vàn gian truân.
Khi đọc Phúc Âm, tôi tìm thấy một sự khổ tu sáng rạng dẫn đến việc xem nhẹ bản thân và phó thác hoàn toàn cho thiên ý. Nói chung, để lên đến đỉnh Everest, vấn đề là phải phó thác cho Chúa Trời, trông cậy ở ngài hơn là ở sức mình. Tôi vẫn đùa với Matthieu là trong Cơ Đốc giáo, ta chỉ cần đi thang máy tâm linh lên hợp nhất với Chúa Trời. Nhưng cần có can đảm ghê gớm để tin tưởng, để bước vào thang máy và từ bỏ toàn bộ sự duy ý chí.
Điều quan trọng là tiến bước trên đường, không tuyệt đối hóa nó mà cũng không chê bai những con đường khác. Khi tiếp xúc với các tôn giáo khác, ta dễ sa vào chuyện so sánh. Về phần mình, tôi sống nhờ đạo Phật mà tôi tin là khuyến khích tôi ngày càng trở nên Cơ Đốc hơn, gần gũi với Chúa Ki Tô hơn và thực hành Phúc Âm mỗi ngày. Trí huệ của Đức Phật còn giúp gột sạch những thành kiến, những hình ảnh tôi phóng chiếu lên Chúa Trời. Thầy Eckhart cũng nói đến sự khổ tu này khi cầu nguyện với Chúa Trời: “Hỡi Chúa Trời, xin hãy giải thoát cho con khỏi Chúa Trời.” Biết bao lần tôi đã biến tôn giáo thành thứ công cụ để tìm thấy ở đó một kiểu an ủi, một chỗ dựa, hơn là một nguồn thúc đẩy hay một động lực. Khi nghe chuyện Chúa Jesus đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền, tôi hiểu rằng có nguy cơ rất lớn là ta sẽ biến tôn giáo thành công cụ, biến nó thành chỗ mặc cả mà ta mua bình yên bằng đồ cúng tế.
Nếu Đức Phật dỗ dành tôi thì Chúa Ki Tô an ủi tôi bằng lòng nhân của ngài. Với tôi, việc tin ở Chúa Trời và theo bước Ki Tô bao hàm trước hết một đức tin, một nghệ thuật sống, một kỷ luật nội tâm, một sự khổ tu. Nhưng buộc phải ghi nhận rằng ngày nay Chúa Jesus không được coi trọng bằng Đức Phật. Có hôm, khi tôi chia sẻ một câu của đức Đạt-lai Lạt-ma trên Facebook, tôi nhận được cả núi Like, nhưng khi tôi đăng một video giáo hoàng Francis từ trên xe bước xuống để ôm hôn một người tàn tật bên đường, post của tôi hầu như không được ai để ý. Tôi chỉ nhận được các bình luận nhắc đến lịch sử nhức nhối của giáo hội: những cuộc thập tự chinh, tòa dị giáo, vô số trường hợp ấu dâm. Tôi nghĩ rằng cuộc đối thoại giữa các tôn giáo đòi hỏi một điều kiện tiên quyết: phải sa thải mọi ý đồ biện giải, thực sự quan tâm nhiều hơn đến người khác và ra khỏi cái logic “tôi đúng vậy thì anh sai”.
Đức Phật nuôi dưỡng tôi trong đời sống hằng ngày, cũng như Chúa Ki Tô. Vậy thì tại sao tôi phải chọn lựa? Cũng giống như tôi có hai đứa con, hai người bạn, hay hai người cha, và người ta yêu cầu tôi từ người hay người kia. Chúng ta cần tránh thuyết tương đối của kẻ thực hiện chuyến du lịch tâm linh và nấu một kiểu lẩu nào đó với tất thảy mọi tôn giáo. Nói ngắn gọn thì tôi vui mừng vì các Phật tử giúp tôi đến gần Chúa Ki Tô. Đấy là một niềm hy vọng tuyệt vời khi mà xu hướng tự nhiên khiến ta cứ chú tâm vào những nhãn dán.
MATTHIEU: Chúng ta đã đề cập đến thiên hướng, mong muốn, phương hướng, sự thích đáng. Vấn đề là, như tôi đã nói, biết những thứ này có một ý nghĩa nào đó với mỗi người hay không. Chẳng hạn, nếu người ta đề nghị tôi một việc làm mà tôi tuyệt không hứng thú, điều này vẫn có ý nghĩa nếu tôi cần nó để nuôi con. Sự giàu sang, quyền lực và tiếng tăm là nguồn cảm hứng với những người này nhưng lại không có gì lý thú đối với những người khác. Diogenes đã nói với Alexander Đại đế rằng: “Tôi vĩ đại hơn ngài, thưa ngài, vì tôi coi khinh nhiều thứ hơn những gì ngài chinh phục được.” Trong ý phương hướng, sự tương đẳng, còn có cái ý tìm thấy một ý nghĩa cho từng khoảnh khắc trôi qua, từng nỗ lực ta có. Thiếu ý nghĩa, đời tôi có nguy cơ trôi đi như một cuốn phim nhàm chán. Như Pierre Rabhi đã nói, đầu tiên ta ngồi trong hộp đến trường, rồi ta đến hộp đêm giải trí, rồi ta được một cái hộp tuyển dụng để gây dựng sự nghiệp, và cuối cùng là ta nằm trong một cái hộp, một cỗ quan tài.
Đối với người quán tưởng, ý nghĩa không phải là làm sinh lãi tài khoản trong nhà băng, mà là, sau nhiều năm nỗ lực tinh tấn, có thể giải thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực như tham, sân, si hay loạn động, những xung đột nội tâm, tán loạn.
ALEXANDRE: Theo anh thì thế nào là một người quán tưởng?
MATTHIEU: Người quán tưởng, ít nhất trong nghĩa Phật giáo, là người hiểu rằng tâm mình có thể là người bạn thân nhất, nhưng cũng có thể là kẻ thù nguy hiểm nhất, và do vậy anh ta cần chuyển hóa nó bằng thiền định. Anh ta quán tưởng bản chất nền tảng của tâm, và thực hành này có mục đích là làm thay đổi nhận thức của anh ta về người khác, về chính anh ta và thế giới. Và khi anh thay đổi nhận thức của mình về thế giới, theo một cách nào đó, anh cũng thay đổi thế giới.
Thường thường, người ta bằng lòng khi tìm thấy những giải pháp nho nhỏ cho từng ngày, trong khi người quán tưởng mà tôi nói tìm cách thay đổi toàn triệt cách anh ta cảm nghiệm thế giới. Anh ta học cách để không sa vào bẫy của những thứ hành hạ và nô dịch anh ta, mà thoát khỏi nó. Anh ta đỡ yếu thế hơn, do vậy mà rảnh tay hơn nữa cho kẻ khác.
Anh ta còn tập làm quen với thành phần nền tảng của tâm, ý thức đầu tiên, luôn có mặt đằng sau biến động của ý, và ngay cả khi ý nghĩ vắng mặt, ý thức đó vẫn sáng rõ trong ngần không bao giờ biến tính bởi những cái mà tâm trí dựng nên.
ĐIỀU TRUYỀN CẢM HỨNG CHO CHÚNG TÔI
MATTHIEU: Trên đường, ta có thể tìm sự giúp đỡ từ một thiện hữu, một vị thầy, một người hiểu và làm chủ được tâm hơn ta. Dù ta làm nghề gì thì ta vẫn luôn cần có người dẫn dắt để học hỏi và tiến bộ. Người dìu dắt này, nhất là về tâm linh, cần phải có mọi phẩm tính cần thiết. Cái nguy là, khi ta trong trạng thái hoang mang hay không vững vàng, ta sẽ đi tin tưởng một tên lang băm. Vị thầy chân chính không mong được gì cũng không sợ mất gì. Thầy có mọi thứ để cho và chia sẻ. Thầy chẳng màng có thêm dăm ba môn đệ, thầy không cầu vinh quang, quyền lực hay giàu sang. Thầy chỉ mong mỏi giúp người khác giải thoát. Chính thầy cũng cần là tấm gương sống về sự giải thoát này. Trong trường hợp của riêng tôi, sau khi gặp vị thầy đầu tiên, Kangyur Rinpoche, tôi đi từ hoang mang và không mục đích đến một cái nhìn sáng tỏ và đầy khích lệ về điều mình có thể hoàn thành trong đời này.
ALEXANDRE: Để tiến tới giải thoát, ta cần tự hỏi ai là tấm gương cho mình, tham chiếu của ta là gì. Có phải tay vận động viên vẻ vang cứ thích đạt thêm thành tích? Chủ doanh nghiệp hám tiền? Diễn viên đầy tiếng tăm? Hay là người hàng xóm khiêm cung tận tụy với người khác? Nói ngắn gọn là, tôi nhìn về ai để học cách sống? Những đức tính, phẩm chất mà tôi muốn học theo để tiến bước là gì? Với tôi, những người làm tôi xúc động và giúp tôi trưởng thành là những người mà, ngày ngày, tỏa ra lòng tốt và không bao giờ để cái khổ làm mình cay đắng, những người anh hùng thầm lặng trong đời sống hằng ngày: sáng thức dậy, độ lượng, chịu đựng thử thách mà không đánh mất niềm vui.
MATTHIEU: Tôi nhớ có một khảo sát người ta thực hiện ở Mỹ mà trong đó họ hỏi: “Giữa Đạt-lai Lạt-ma và Tom Cruise, anh chị thấy ngưỡng mộ ai hơn?” 80% trả lời: “Đạt-lai Lạt- ma.” Câu hỏi tiếp theo: “Vậy nếu được chọn thì anh chị muốn trở thành người nào?” Lần này, đa số đáp: “Tom Cruise.” Tôi thắc mắc nguyên do là ở đâu. Rõ ràng họ nghĩ rằng, khi đã có ngoại hình, tiếng tăm và sự giàu có của Tom Cruise rồi thì họ có thể tự có được những phẩm chất nhân đạo của Đạt-lai Lạt-ma, họ thấy như vậy thì dễ hơn là ngược lại. Sự thật thì điều này không dễ dàng hơn. Chuyển tâm là công việc của cả đời người. Ngày nọ, một nhà báo Chile hỏi ngài Đạt-lai Lạt- ma: “Có ba mươi ngàn người đến nghe ngài trong sân vận động này, vì sao lại đông như vậy?” Ngài đáp: “Tôi không biết, hãy hỏi họ!” Ngẫm nghĩ một lát, ngài nói thêm: “Có lẽ là vì, từ sáu mươi năm nay, sáng nào tôi cũng thiền bốn tiếng đồng hồ về lòng từ bi.”
CHRISTOPHE: Từ lâu tôi đã thấy khó chịu với những mẫu mực. Tôi lớn lên với một nỗi ngờ vực về người lớn. Tôi thấy rõ sự mong manh của họ đến mức mà có lẽ tôi dần có một kiểu thận trọng, thậm chí là ác cảm với ý nghĩ người khác có thể làm thầy. Tôi thấy thoải mái hơn nhiều khi xem tất cả mọi người đều là mẫu mực, nhưng theo kiểu tạm thời. Thật ra, tôi xúc động sâu xa nhờ những bài học từ bệnh nhân, từ con tôi, hay người xa lạ. Tôi cũng chưa bao giờ tìm thầy. Mối quan hệ phụ thuộc này luôn làm tôi sợ. Một người thầy tạm thời thì có thể là một người thân kể tôi nghe một câu chuyện và làm tôi thán phục về trí thông minh hay sức mạnh của họ. Gần đây, một người bạn tâm sự với tôi chuyện anh ta ở bên người vợ sắp chết. Chị bị ung thư, và thể trạng của chị càng ngày càng suy yếu. Anh ta kể tôi nghe anh rửa ráy cho vợ, xoa bóp hai bàn chân cho vợ, và anh còn duy trì, thậm chí làm phong phú thêm, quan hệ yêu đương của hai người. Nghe anh ta kể, tôi thấy như mình đang đứng trước một cái gì đó thật đáng nể, một tấm gương về phẩm cách, tận tụy, và vị tha. Những điều này làm tôi suy nghĩ nhiều, và khi tôi tình cờ gặp ai đó có cách xử sự gương mẫu, tôi luôn đặt ra cho mình hai câu hỏi: “Mình có làm được điều đó không?” và “Mình có thể làm gì ngay lập tức để đến gần được điều đó?”
Đôi lúc các cô con gái của tôi cũng là thầy. Cô thứ hai chẳng hạn, là một đứa hăng hái, vui vẻ, trong khi đó thì tôi, một cách tự động – nếu không cố gắng, là người trầm uất và chuyên “lý sự cùn” để biện minh cho thế giới quan của mình. Trước kia, tôi thấy rằng những người nhiệt tình thường tự đưa mình vào thế nguy hiểm vì họ sẽ chuốc lấy sự thất vọng. Hoặc họ làm tôi khó chịu (tôi thấy họ không hiểu thực chất của đời sống), hoặc họ làm tôi thấy lo (tôi sợ giùm cho họ). Từ lâu tôi đã sợ cho con gái tôi, sợ nhiệt tâm của nó, sợ khuynh hướng vui vẻ dù cho có chuyện gì của nó, sợ nó sẽ bị tổn thương hay thất vọng, không gượng dậy được. Thế rồi, cách đây vài năm, nhờ tự kiểm nghiệm lại bản thân, tôi hiểu rằng con bé mới là người có lý! Hai năm nay rồi, nó đang học lớp dự bị, chịu vất vả, mỗi ngày dậy lúc 6 rưỡi sáng, đi tàu điện một giờ buổi sáng và một giờ buổi chiều. Và ngày nào tôi cũng dậy theo để chuẩn bị nước cam, cà phê, bánh sandwich cho nó, tôi nghĩ rằng quan trọng là tôi có mặt. Hầu như lúc nào con bé cũng tươi cười vui vẻ, ngay cả trong mùa đông, trời lạnh, vào ban đêm, hay trong thời gian có bài kiểm tra, bài thi. Có những buổi sáng nó hỏi thăm tôi, và một vài lần, tôi không được khỏe nhưng tôi không muốn cho nó thấy, nên tôi đáp: “À, tốt, tốt.” Con bé trách tôi: “Cái ‘tốt’ này nghe không thuyết phục lắm đâu ạ!” Dần dần, tôi thuộc bài. Và tôi đã có thể tự nhủ: “Chuyện gì đi nữa thì sáng ra mình cũng có mọi lý do để vui vẻ; mình thức dậy, mình sống trong chế độ dân chủ, mình sẽ sống một ngày trên Trái đất này, mọi người thương yêu mình và dẫu mình có những điều lo nghĩ nhưng tối nay mình vẫn sẽ tươi vui như thường!” Vậy là mỗi sáng, tôi học được một bài học đáng nể và nhẹ nhàng. Tôi đang đứng trước một người thầy (hay một người cô!) về niềm vui, sự nhiệt tình và tin tưởng ở cuộc sống, và tôi rất biết ơn con bé về điều đó!
ALEXANDRE: Việc làm theo lời dạy của một người thầy không hề ngăn tôi dè chừng như bệnh dịch những đạo sư mà tôi xem như tột đỉnh của sự tha hóa nếu họ không giải thoát cho ta khỏi tâm lý của ta, và nếu bản thân họ không sống trong một sự buông bỏ tận cùng. Khi tin tưởng giao cho người chưa qua tu tập chìa khóa số phận của mình thì sẽ có những tác hại kéo theo. Làm sao để tránh sa vào sự sùng bái và thôi tìm kiếm một ông bố tuyệt vời chiều chuộng ta? Thiên chức của sư phụ, hay người thầy, chính là thức tỉnh cho ta thấy tự do của mình, truy đuổi không khoan nhượng mọi mưu chước của bản ngã và đồng thời, chứng tỏ một tình thương vô điều kiện. Tuy nhiên, điều đó không thường thấy. Tôi may mắn được gặp một tu sĩ Thiên Chúa giáo cũng đồng thời là thiền sư. Vừa gặp nhau thì tôi đã hiểu rằng thầy sẽ là thầy tôi. Điều làm tôi cảm động là chưa lúc nào thầy đòi cái danh xưng thầy. Trái lại, thầy không ngừng trả tôi về với tự do của mình. Cho đến hôm nay, dọc đường tôi chưa từng gặp một lòng tốt như vậy, một sự khôn ngoan và đức tin ở Chúa Trời như vậy.
Một vị thầy đích thực thì không còn bản ngã. Không có mong muốn chiều lòng nào, không có ý muốn thao túng nào làm vẩn đục được lòng từ bi vô biên của thầy. Thầy thể hiện một sự nhất quán tuyệt đối. Điều tôi phát hiện ra nhờ người sư phụ là khả năng luôn tự huyễn không thể tin nổi của tôi. Chỉ một người dìu dắt sáng suốt và nhân từ vô biên mới có thể kéo ta ra khỏi những ảo tưởng, thứ làm ta xa rời những gì thật sự tốt cho ta. Thật khó giữ một khoảng cách tối thiểu khi mà, từ sáng đến tối, chúng ta vật lộn trong một mớ bòng bong cảm xúc!
CHRISTOPHE: Alexandre này, khi cậu kể về cuộc sống hằng ngày với thiền sư của mình, tôi “phục lăn” vì tôi không đời nào dám nói với bệnh nhân hay người thân được một phần mười những điều thầy nói với cậu. Về phần mình, tôi có một nỗi sợ đến ám ảnh là thêm khổ cho người khác. Theo tôi nghĩ, hết chín trên mười lần thì sự dè dặt này tốt, tôi tránh được việc làm khổ quá nhiều, nhưng thỉnh thoảng, nỗi sợ phải thành thật đưa ra ý kiến này trói buộc tôi. Tôi không dám nhìn thẳng vào mặt người đó mà nói rằng như vậy là đủ rồi, họ không nên ngoan cố trong những sai lầm như vậy nữa. Và cũng như cậu, tôi rất ngưỡng mộ những người có thể nhắc ta rằng có những thực tại, rằng không phải chuyện gì cũng có thể, không phải cái gì cũng được phép, rằng ta không thể cứ làm theo ý mình mãi.
MATTHIEU: Cái anh nói về thầy của Alexandre làm tôi nhớ ngày tôi sống bên Khyentse Rinpoche, người thầy thứ hai của tôi. Dù tôi khó mà hình dung được một người từ tâm hơn, nhưng đôi lúc thầy cũng cực kỳ nghiêm khắc với tôi. Tuy nhiên, suy cho cùng, nếu không thì sao thầy có thể dọn sạch những khuyết điểm và bản ngã của tôi?
ALEXANDRE: Cần phân biệt rõ hai thứ. Thiên chức của đạo sư là cứu chúng ta ra khỏi nhà tù bản ngã đồng thời giúp chúng ta đến gần giác ngộ hay hợp nhất với Chúa Trời; nhiệm vụ của bác sĩ trị liệu là giúp chúng ta đi qua thử thách, tìm được công cụ để kham nổi những khổ nạn lớn. Nếu một thầy thuốc tâm thần muốn đóng vai đạo sư và thực hành những cú sốc điện mà ta thấy trong Thiền tông, anh ta có thể đưa một bệnh nhân ra thẳng nghĩa địa.
MATTHIEU: Thái độ này của Khyentse Rinpoche không phải theo kiểu cứng nhắc. Thật ra, hầu như những ai biết thầy đều nói rằng họ chưa bao giờ thấy ai dễ mến hơn thầy, rằng thầy chưa bao giờ cao giọng hơn người khác. Điều đó không ngăn thầy tỏ ra không thương tiếc với những khuyết điểm của chúng tôi khi thầy thấy đã đến lúc làm vậy và khi thầy biết người nghe thầy nói gần gũi với thầy đủ để hiểu rằng thầy chỉ muốn điều tốt cho họ.
ALEXANDRE: Điều gì làm anh cảm động nhất trong 13 năm sống với thầy?
MATTHIEU: Trước hết, trong suốt những năm đó, không lúc nào tôi chứng kiến một lời hay một cử chỉ chỉ trích người khác. Cuối cùng, tôi phải tin rằng thầy chưa bao giờ có dù chỉ một chút ác ý, rằng thầy chỉ có một mong muốn duy nhất là dìu dắt người khác đi tới tự tại. Trong cuộc sống hằng ngày, tôi cũng chưa bao giờ chứng kiến một tâm trạng thất thường. Thầy luôn hành động và đối xử với người khác bình đẳng và tùy duyên. Thầy chứng tỏ một sự nhất quán hoàn toàn giữa bên trong và bên ngoài. Thỉnh thoảng thầy tỏ ra nghiêm khắc kinh khủng, nhưng điều đó không liên quan gì đến tâm trạng không vui. Biết bao lần tôi đã nhận ra rằng đó chỉ là để giúp người khác bỏ được những khuyết điểm. Dần dà, điều đó gợi trong tôi một lòng tin tưởng hoàn toàn.
ALEXANDRE: Sao lại một lòng tin tưởng hoàn toàn?
MATTHIEU: Trong mối tương giao bình thường giữa con người với con người, tôi buộc phải thỏa hiệp với phần bóng tối và ánh sáng trong mỗi người. Tôi biết rằng tôi có thể tin tưởng những người này, nhưng ít hơn với những người khác. Một thợ thủ công khéo léo, một kỳ thủ hay một tay dương cầm tài năng có thể cho tôi những lời khuyên chí lý trong chuyên môn của họ, nhưng tôi không mong chờ họ chỉ cho tôi làm sao để trở thành người tốt hơn. Tôi biết rằng, ngoài những phẩm chất mà tôi nhờ đến họ, họ cũng có thể có đủ kiểu khuyết điểm.
Trong trường hợp vị thầy này, kinh nghiệm cho thấy rằng tôi có thể hoàn toàn tin tưởng ở thầy. 13 năm tôi thường trực ở bên thầy lại càng khẳng định điều đó. Không lúc nào tôi nhận thấy thầy có chỗ sơ hở. Vả chăng lòng tin này cũng là không thể thiếu đối với tôi. Để nhờ thầy giúp tôi thoát khỏi những nguyên nhân khổ, tôi cần tin tưởng hoàn toàn ở thầy. Tôi không thể cho phép mình nghi ngờ những lời khuyên của thầy trong từng giai đoạn.