• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bao Công Làng
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 47
  • Sau

4

Nhà ông Công Mái.

Tên chồng là Công, vợ là Mái nên dân làng Phẩm ghép họ lại thành một tên để gọi chung cho cả ông lẫn bà.

Cái tục này nhiều nơi có. Cặp phu thê nào được gọi vậy coi như là hạnh phúc với đầy đủ nghĩa đầm ấm mang tính gia đình trọn vẹn của nó.

Ngôi của ông bà Công Mái là ngôi nhà cổ, cột gỗ, mái ngói ta, tường đá ong bao quanh trông mộc mạc, bền chắc. Nhà có sân có vườn rộng rãi.

Cơ ngơi này là do cha mẹ để cho, con cháu có tu tỉnh lại. Thực chất là giữ gìn hương hỏa tổ tiên.

Cứ như ông Công Mái bây giờ may ra có gian nhà cấp bốn tập thể nhà nước chia cho. Ông tự trách mình vụng tính nên giờ chẳng ngất nghểu được nhà tầng như ai làm vất vả đến vợ đến con.

Bà Công Mái thì tìm cách an ủi chồng rằng lăn lộn ngần ấy năm trời nay súng mai đạn may còn được cái thân toàn vẹn về với vợ với con là phúc lớn nhất rồi.

Thâm tâm ông Công Mái thì thấy ngượng nhưng lại tự hào và tự nhủ khả năng mình chỉ có vậy nên phải chịu vậy.

Làm đến Đại tá Công an, hút thuốc lào như ranh nhưng động đến một điếu ba số ho mất mấy ngày thì làm sao có thể gọi là tân tiến hơn được. Ra đi từ luống cày lúc về lại ở bên cót lúa.

Ngôi nhà xưa tiễn ông đi giờ lại nhận ông trở về nguyên vẹn và thân thiết như chưa một lần xa cách.

Nó vẫn được như vậy bởi đã có người thay ông, gánh vác hộ ông khi ông đi vắng. Người ấy là bà Công Mái, dâu con của gia đình, cô vợ đảm của người đi lo việc nước.

Nói có vẻ to tát nhưng ngẫm kỹ lại là như thế. Nếu không có bà ấy ông cũng thực sự không có được như bây giờ.

Đến nhà ông Công Mái ngay từ ngoài cổng nhìn vào đã thấy mát.

Sân vườn um tùm hoa và lá.

Những chậu cây cảnh thanh thoát, sạch sẽ.

Một đôi khóm ngâu xanh sẫm, hoa màu lòng đỏ trứng hình hạt kê nhỏ khi nở thường rộ lên khắp mặt lá. Nhìn ngâu và hoa ngâu dẫu chẳng ngào ngạt vị hương vẫn thấy ra được cái thanh thản dung dị của cây để nuôi dưỡng tâm người.

Đây là loại cây hay mọc ở vườn chùa và vườn đình mà ông Công Mái rất ưa.

Cây họ xương rồng có tên rất đẹp là Bát Tiên, kham khổ đến gân guốc thân cành nhưng lá lúc nào cũng mềm mướt còn hoa thì luôn nở như không có mùa.

Loại cây nhiều gai nhọn này là thứ vợ chồng ông Công Mái thích nhất. Bà khen nó kiệm nước tưới nhưng không kiệm màu. Ông thích vì nó không chê cằn khô, tuy đanh đá dáng vóc nhưng hoa nở thì lại hiền như cái nơ cài tóc của trẻ nhỏ.

Cây mang tính khí của người không muốn sống hèn cho dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt.

Bên cạnh cây Bát Tiên này còn có một loại mà ông Công Mái quý nữa là cây Mai tứ quý.

Ông xin cây từ Bắc Giang về lúc nó còn chập chững chỉ cao hơn gang tay người là cùng. Rồi vợ chồng ông trông, trông mãi đến năm sáu năm sau cây mới bói hoa nhưng là hoa chùm rất đẹp. Tiếp đó lần sau hoa nở chi chít trên cành và năm nào cũng được vài lần như thế.

Nhìn cây biết sinh sôi mà cảm như mình đang lộc.

Lòng nhà, ba gian hai trái.

Bàn thờ Tổ tiên sơn son thếp vàng có ảnh ông bà, cha mẹ ông Công Mái cung kính đặt ở gian giữa như phong tục lâu nay.

Bàn thờ gian bên phải có ảnh Bác Hồ và hai tấm bằng ghi công hai người em liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh cùng di ảnh của hai người, một nữ, một nam.

Hai người đều là em ruột của ông Công Mái. Người nữ là cô em út có tên là Hoa. Người em trai kế có tên là Quả. Chuyện về hai người dân làng Phẩm còn nhớ và ông Công Mái hay kể lại nhân dịp những ngày có việc trọng.

Bà Hoa hy sinh lúc mang nước chè xanh lên trận địa pháo bắn tàu bay cho pháo thủ uống. Người ta kể lại cho ông nghe khi bà đang hát và múa cho những người uống nước nghe thì rẹt một cái tiếng nổ long trời.

Trận địa mù mịt khói bụi và đất. Cả khẩu đội pháo cùng người nữ dân quân xinh gái hát chèo hay nhất làng Phẩm không một ai sống sót. Thịt da họ lẫn vào nhau.

Chỗ trận địa pháo ấy đã được xây thành ngôi mộ chung của những người hy sinh. Tên của họ được làng khắc vào bia đá đặt chỗ bàn thờ gạch ngay đầu mộ. Làng cũng làm một tấm bia như thế nữa đặt trong chùa để quanh năm các vong linh được ấm áp hương khói.

Ngày họ hy sinh được coi là ngày giỗ trận.

Khi ông Công Mái ở chiến trường về mang theo mảnh lụa nâu tặng cô em út may áo thì mộ em đã rêu phong và xanh um cỏ rồi. Lúc ấy ông chỉ biết ngồi ôm nấm mộ chung khóc em gái mình và các đồng đội của em sau bao năm anh cả xa nhà biền biệt đi chiến đấu.

Mảnh lụa ấy được ông Công Mái tặng lại sư cụ làm áo lễ trước ngày cùng vợ đưa hương hồn hai em lên chùa theo nếp tâm linh đẹp của làng.

Ông Quả người em kế của ông Công Mái lại hy sinh ở Trường Sơn. Ông Quả đi bộ đội sau ông Công Mái một năm. Ông hy sinh ngay trên tăng võng. Đấy là những ngày tháng khốc liệt sau Mậu Thân 1968.

Khi đồng đội tìm ra ông Quả trên tăng võng chỉ còn xương và chiếc lược làm bằng thân máy bay có khắc tên ông và tên người yêu cùng dòng chữ, đúng ra là hai câu thơ:

Ra đi xin giữ lời thề

Đánh tan hết giặc lại về với em

Ông Quả không về được với người yêu như lời hứa. Đau hơn là đến bây giờ ông Công Mái vẫn chưa tìm thấy mộ em trai mình. Nghe nói những đồng đội chôn cất cho ông Quả sau đó cũng hy sinh hết.

Chiến tranh không loại trừ những mất mát nào.

Ông Công Mái đã phải xin lại phòng truyền thống của binh đoàn chiếc lược kỷ niệm của ông Quả. Ông đã gói chiếc lược xương máu ấy trong mảnh vải đỏ rồi đặt lên bàn thờ ngay cạnh ảnh thờ ông Quả. Chiếc lược là phần tượng trưng cho xương máu của người đã khuất.

Ngày ở chiến trường ông Công Mái đã nằm mơ thấy ông Quả được vào đại học như nguyện vọng của mình trước lúc xa bố mẹ đi chiến đấu. Ông Quả chưa học hết cấp 3 đã xung phong cầm súng lên đường. Ngày chiến thắng ông Công Mái trở về được cơ quan cho đi học đại học ông đã ôm tấm ảnh ông Quả vào lòng mà khóc mãi.

Ông Quả mất ngày nào gia đình chưa rõ nên lấy ngày ông xa quê đi vào Nam chiến đấu làm ngày giỗ.

Vợ chồng ông Công Mái lo phần thờ phụng cho cả đại gia đình sau ngày bố mẹ qua đời. Ngày giỗ nào của ai trong nhà cũng là ngày lễ trọng của gia đình ông. Những ngày ấy dù bận đến mấy ông cũng bắt Phượng con gái duy nhất của hai vợ chồng ở nhà, trước hết là giúp bố mẹ làm cỗ, quan trọng hơn là nhập tâm những công việc hiếu để quen dần sau này còn thay bố mẹ làm.

Sau chỗ bàn làm việc ở gian bên trái của ông Công Mái còn có một bàn thờ đặc biệt nữa. Đó là bàn thờ đức Bao Công có tranh vẽ ngài đàng hoàng.

Bức tranh vẽ khá lạ lùng. Mặt thì hệt đức Bao Công nhưng trên đầu ngài lại đội chiếc mũ cối có gắn ngôi sao vàng năm cánh. Bức họa này do ông Công Mái tự làm, có truyền thần gương mặt theo mẫu của tranh Tàu, sáng tạo thêm cái mũ cối đội đầu.

*

Chuyện để có bức tranh đức ngài Bao Công đội mũ cối này cũng nhiều cái vui vui và khó quên...

Hôm ấy là hôm ba mươi ta. Ông Công Mái chọn ngày cuối tháng để đi làm việc quan trọng.

Ông dậy từ lúc gà gáy rồi lục tục mũ áo và bảo với vợ:

- Bà ở nhà nhá. Tôi đi có tí việc.

- Việc gì mà chưa bảnh mắt ra ông đã rời khỏi nhà rồi. Phải ăn sáng ăn siếc cho nó đàng hoàng đã chứ?

- Không phải lo. Đường sá thiếu gì chỗ ăn. Bà không phải dậy.

Nói vậy nhưng bà vẫn phải dậy theo ông. Bực nhất là cứ đùng đùng đòi đi ngay không thèm uống cả ấm nước bà pha. Bực nữa là hỏi đi làm việc gì cũng không thèm nói. Lại còn tủm tỉm cười nhìn vợ nữa.

Bây giờ thì bà sốt ruột. Lâu quá là lâu ông vẫn chưa về.

Ông đi đâu, ở đâu từ sớm tinh mơ đến giờ? Nắng đã đổ đến gần tròn bóng người trên sân vẫn biệt tăm.

Bà Công Mái chờ nữa.

Bà sốt ruột đi đi lại lại bên mâm cơm đã nguội, ngóng chồng. Mắt bà đăm đăm ngó ra cổng. Bà sắp mâm từ lúc mười một giờ quá một tí nay qua ngọ nhiều rồi mà ông ấy đang tận đẩu tận đâu. Phượng, con gái ông bà có việc lên tỉnh từ nửa buổi nên chả biết nhờ ai đi tìm cho được.

Giá biết ông Công Mái đi đâu bà có thể quay điện hỏi thăm đằng này chồng bà chỉ biết đi mà không biết dặn.

Ông Công Mái tính tình vậy. Có từ lâu rồi. Bà vợ có ca thán với chị em hàng xóm thì người ta bảo lấy chồng Công an thì phải chịu thôi. Họ là người của bí mật mình sao mà tra hỏi được.

Bà Công Mái đem chuyện này nói với chồng thì ông ấy bảo, cái thân tôi đây có gì là bí mật với bà nữa đâu mà bà phải vặn vẹo. Ông ấy đã pha trò tuế toá nói vậy bà chỉ còn biết cười trừ.

Ngẫm ra, từ ngày ông ấy chuyển từ bộ đội qua Công an thì cái phần xởi lởi quả có ít đi thật. Miệng ông nhiều lúc cứ như miệng chai có nút bịt kín. Lắm lúc lại còn ra vào tư lự, lử đử như ông Từ vào đình ấy.

Đồng hồ đã chỉ một giờ chiều.

Cổng nhà vẫn im ỉm...

Bà Công Mái thở dài lấy lồng bàn đậy mâm cơm lại rồi đi ra chỗ để điện thoại.

Bà nhấc máy vừa hỏi, vừa nghe, vừa trả lời:

- A lô... Trụ sở Công an xã ạ? Chú Nghị đấy phải không? Chị đây...! Chị Công Mái đây chú Nghị ạ. Không có nhà. Đi từ sáng sớm tinh mơ kia, sốt ruột quá phải quay điện ra hỏi chú. Cũng không có qua đấy à? Ông ấy đi đâu từ sáng đến giờ mới được chứ? Chú giúp chị nhá. Nếu thấy chú điện cho chị ngay để chị đỡ sốt ruột. Thôi chị dừng máy đây...

Bà Công Mái bần thần nói một mình mà như đang nói với cái máy điện thoại:

- Lạ thật. Sáng cứ lừ lừ. Hỏi đi đâu thì nói việc quan trọng. Hỏi việc gì thì bảo việc của tôi chứ đâu việc của bà mà bà hỏi. Mọi khi ông ấy còn nói đôi câu. Sớm nay cứ như đi công việc gì quan trọng lắm lắm. Hay là ông ấy giở chứng. Mà cái con Phượng này nữa. Lúc cần đến nó thì nó lại không thèm ở nhà.

Có tiếng động ngoài cổng...

Cánh cổng mở tung. Ông Công Mái vai đeo túi hể hả đi vào. Mặt bà Công Mái tự nhiên rạng ra rồi vội vàng cau lại:

- Ông không biết thương người ở nhà à?

- Xin lỗi. Xin lỗi...! Vội quá... vội đến không kịp uống nước đây này.

- Tôi không có hỏi cái chuyện ấy.

- Thì mẹ em cho Công Mái này xin hớp nước đã nào. Khát quá.

Bà Công Mái vừa rót nước cho chồng vừa lẳng lặng nói:

- Điện đóm đầy đường, đầy ngõ. Bận gì thì bận cũng nên a lô cho người ta một câu. Đằng này phấp pha phấp phổng cứ như cái ngày chiến tranh ấy.

Ông Công Mái cười trừ:

- Gì đến nỗi ấy. Mà tôi đã xin lỗi mẹ em từ cổng rồi. Vội quá quên khuấy mất chuyện gọi điện. Cứ nghĩ về sớm đâu ngờ. May mà không dám nể người ta mà ở lại ăn cơm đấy...

- Người ta là ai?

- Đồng đội cũ ấy mà...

- Ông thì đâu chẳng có đồng đội.

- Đây là đồng đội đặc biệt. Người mà tôi rất cần lúc này. Cậu ấy ở bộ đội cũng đã về hưu như tôi bây giờ. Cái tay đóng vai Bao Công trong vở tuồng Bao Công xử án Quách Hoè ấy mà mẹ mày biết không?

- Ô hay... bạn ông ở tận đâu đâu tôi nào biết.

- Đúng thật. Lão ở cách nhà mình hai mươi cây số. Không có chuyện này có khi mình chẳng có dịp đến. Gặp nhau mãi hồi trước Sáu Tám Mậu Thân cơ mà. Mình được xem hắn đóng vai Bao Công một lần hồi còn đang đóng quân ở Hà Tây. Chỉ một lần thôi mà không sao quên được...

- Ô hay ông lẩm nhẩm cái gì đấy. Có định dùng bữa không hay là để chiều tối dùng một thể.

- Có có. Nhưng trước khi ăn tôi khoe mẹ em cái này đã. Phải đi đi lại lại gần bốn chục cây số xe ôm mới kiếm được đấy.

Ông Công Mái lấy từ túi xắc ra một tập giấy. Từ tập giấy ông tìm và lấy ra một tờ tranh đưa cho vợ:

- Bà xem ai đây nào?

Bà Công Mái cầm tờ tranh ngắm nghía:

- Ông mặt đen trên ti- vi đây mà...

- Xụyt xụyt... ăn với nói. Đây là Đức ngài Bao Công, ông Thần Công lý của mọi người đấy.

- Ông xem ngài trên ti-vi mãi không chán à lại còn lặn lộn mấy chục cây số mang ngài về đây để làm gì.

- Thôi đừng nói linh tinh nữa. Tôi rước ngài về là có việc của tôi. May mà còn có người đồng đội cũ đóng vai Bao Công mê tranh Bao Công mới kiếm ngay được chân dung của ngài đấy. Nhà hắn còn mấy bức nữa kia. Tôi chỉ xin lão một ngài thôi...

- Rõ là... có mỗi cái tranh mà để vợ trông đến đỏ mắt. Nếu cần mai kia bảo con Phượng nó kiếm cho không được à?

- Nói như bà...! Thôi dọn cơm tôi ăn để tôi còn vào việc đây.

- Việc gì nữa?

- Bí mật.

- Bí mật? Bí mật gì cái lão về hưu ấy mà cứ nói trêu người ta mãi. Sao không đi nữa đi cho nó no thêm một thể.

- Hì... hì... tôi đói hoa cả mắt rồi đây này. Muốn biết bí mật ở chỗ nào lát ăn cơm xong mẹ con Phượng xem tôi làm thì rõ. Nhằm mãi nhắm mãi mới được ngày cái này đấy. Mà đúng là cát nhật thật. Nghĩ cái gì ra cái ấy, mong cái gì được cái ấy. Giờ chỉ còn công đoạn thiêng liêng cuối cùng nữa thôi.

- Còn cái công đoạn cô cấp dưỡng suốt đời dọn bữa cho nữa chứ.

- Bà chỉ có đúng trở lên. Thực vực đạo mà.

Bữa cơm ăn vội. Hớp nước cũng uống vội.

Ông Công Mái bò người ra cái mặt phản gỗ rộng. Chỗ ấy có trải một tờ giấy trắng to. Ông cung kính đặt bức tranh Bao Công trước mặt.

Ông nhìn...

Ông ngắm...

Ông nheo mắt rồi mắm môi vẽ.

Trông dáng vẽ của ông già ngoài sáu mươi mà vụng về, hồn nhiên như đứa trẻ lần đầu mới tập. Có khác chăng là cái nhăn trán, cái ưỡn người xem tranh.

Bà Công Mái đứng cạnh xem chồng vẽ:

- Trông cứ như ông Công Mái.

- Linh tinh nào. Ngài mắng cho đấy.

- Ngài biết tôi là ai mà ngài mắng. Với lại, trên giấy ý mà. Buồn cười...! Có giống ngài tí nào đâu. Y như lão Công Mái. Chả tin lúc nào con Phượng về ông hỏi nó mà xem?

- Thôi để yên cho tôi làm. Đùa mãi! Hôm nay là ngày tốt. Mai đã mùng một đầu tháng rồi. Bà nhanh nhanh ù ra chợ kiếm cho tôi nải quả thật ngon, gói hoa thật tươi để chuẩn bị cho tôi thắp hương làm lễ hô thần nhập tranh đây.

- Ông định thờ ngài ở đâu?

- Thế mẹ em không thấy cái bàn thờ tôi mới làm kia à?

- Ra thế...! Tôi cứ tưởng. Mà phải sửa lại cái mắt, cái vành trăng trên trán ngài nữa cho giống khi đặt vào bàn thờ mới thiêng.

- Tôi có là hoạ sĩ đâu mà giống với chả không?

- Thờ người mà không giống người thì thờ ai?

- Có thế thật. Mẹ em nhìn kỹ cho tôi nhá. Đây... đã giống cái vầng trăng khuyết trên trán ngài chưa nào?

- Cong một tí nữa. Nữa... nữa...! Được rồi.

- Còn đôi mắt này. Ngài nheo thế đã được chưa?

- Chưa. Chỗ này... chỗ này... bố con Phượng cho xếch lên một tí nữa.

- Này thì xếch...! Thế... thế...! Được không?

- Tí nữa. Nữa. Rồi rồi. Thôi. Đã nói thôi kia mà. Quá rồi...

- Ghê thật.

- Chịu khó tí.

- Nào thì chịu khó tí...

- Phải gió cái lão này. Thôi. Được rồi!

- Có vậy chứ! Bà ra chợ ngay đi.

Ông Công Mái dừng tay vẽ hếch mặt nhìn vợ rồi vươn vai khoan khoái. Thấy lưng chồng ướt mồ hôi, bà Công Mái điều chỉnh lại tốc độ quạt điện cho hợp rồi đi ra tủ lạnh pha cho chồng cốc nước mát:

- Mai tôi đi chợ sớm cho hoa nó tươi. Giờ phục vụ hoạ sĩ đã.

Bà Công Mái mang cốc nước mát đến đặt cạnh chồng:

- Ông uống đi cho có cảm hứng. Tôi thấy đã giông giống ngài rồi đấy. Có góp ý của nhân dân có khác. Giờ thì nhấp thử nước của nhân dân mời xem đã ngọt miệng chưa? Nếu còn nhạt để nhân dân cho thêm đường.

- Rồi rồi. Nhạt cũng ngọt. Râu tôm với ruột bầu mà. Tôi xin. Hề hề... Sao đầy thế này uống làm sao hết.

- Đang khát mà.

- Mẹ em tâm lí quá.

Lúc bức tranh hoàn thành bà Công Mái đi đi lại lại, hết ngắm nghía tranh, ngắm nghía chồng rồi nói trêu:

- Có mũ cối rồi sao nhà không vẽ thêm cho ngài khẩu AK đeo trước ngực nữa cho nó ra dáng anh bộ đội cùng mình leo Trường Sơn đánh giặc.

Ông Công Mái thật thà:

- Đúng nhỉ. Có thế mà tôi không nghĩ ra.

- Nỡm ạ. Vẽ thế đã đủ người ta cho mình là ấm đầu rồi. Tàu không ra Tàu ta chẳng ra ta. Xưa nay lẫn lộn. Ông thử hỏi mọi người xem. Có nên thêm hay là nên bớt cái gì? Trông cứ như là đức ngài Bao Công mới đi nghĩa vụ sau đợt tuyển quân đầu năm nay của làng Phẩm mình ấy...

- Bà chỉ được cái giỏi báng bổ. Bao Công bây giờ đã là tính danh của những việc làm ngay thẳng, công bằng rồi bà hiểu không? Ông ấy đã thuộc về đạo đức làm quan của phương Đông, của thế giới đâu phải là của riêng Trung Hoa.

Bà Công Mái khúc khích cười:

- Nói đùa... trông cứ như bố đĩ Công Mái ngày ở thao trường về tạm biệt vợ con để đi B ấy. Cái mũ cối này có khác gì cái mũ cối mới phát ngày ấy của ông. Cứ mỗi lần nhìn ông đi ngoài nắng về mặt mũi chưa phai hết màu sốt rét rừng năm xưa con Phượng nó lại khích khích vào lưng mẹ nói Bao Công nhà mình vừa mới đi đánh án về đấy. Tôi thì... nhìn ông đội cái mũ cối vào đến cổng nhà cứ nghĩ là anh bộ đội phục viên chuẩn bị chuyển ngành chứ chả phải ông Đại tá Công an về hưu.

- Gì mà chả được. Bộ đội mình đã trải. Công an mình cũng đã từng qua. Gì mà chả đúng. Mẹ em thật nhiễu chuyện. Mình là mình không hay hơn à. Đóng vai người nọ người kia để nạt ai?

- Thế còn ngài Bao Công đội mũ cối này?

- Khổ quá. Hỏi mãi. Cái này là tượng trưng. Tôi là Bao Công. Mọi người là Bao Công. Ngay cả u con Phượng cũng là Bao Công. Nhà nhà mà làm được Bao Công cả thì thế giới Đại Đồng...

Bà Công Mái lắc đầu:

- Còn lâu nhá. Trong cổ tích cũng chưa chắc có.

“Ghê quá. Câu nói sao mà đáo để. Cái cô bạn học ngày xưa của mình sao mà lý sự đến thế khi về làm bà Công Mái”. Ông chồng nghĩ về vợ và nói:

- Đấy là tôi ước ao như thế. Các cụ mình ngày xưa chả mấy ai ước ao được làm con vua cháu chúa làm gì mà chỉ mong được gặp Bụt, gặp Tiên. Thế giới Đại Đồng là ước mơ có từ lúc ấy kia bà xã ạ.

Bà Công Mái bâng quơ đọc một câu ca dao:

Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa...

Ông Công Mái cười ha ha:

- Nhất rồi. Đời mình chỉ mong có thế.

- Vậy mà...

Bà Công Mái nói lấp lửng rồi nhìn chồng, nhìn tranh.

Cái nhìn trẻ trung so với tuổi.

Nguời vợ ấy hình như không thấy già khi ở bên chồng. Thỉnh thoảng bà còn trêu đùa ông nữa.

Những cặp vợ chồng yêu thương gắn bó nhau thường không có tuổi tác.

Lúc nào họ cũng như là mới về ở với nhau.

Ông Công Mái biết vợ ghẹo yêu mình nên lẳng lặng không nói gì thêm nữa. Vợ chồng ông mà tranh luận với nhau điều gì có khi cả buổi sáng cũng không hết.

Lúc này là ông Công Mái có phần phân vân về cái mũ cối đội trên đầu Đức ngài Bao Công.

Liệu làm thế này có phải là kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia không?

Riêng ông thì ông thấy chả có gì là sai khi mình muốn kết hợp cái tốt cũ trong vẻ đẹp bây giờ. Tuy vậy cứ nghe tiếng cười của vợ là ông lại ngài ngại.

Bà ấy cứ như là giám khảo của chồng.

Nhiều lúc chẳng dám bực vì thâm tâm ông Công Mái biết là vợ mình có lý.