• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bao Công Làng
  3. Trang 25

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 47
  • Sau

18

Quán cà phê ấy được đặt tên là Cây ổi còng.

Một mốt lấy tên theo kiểu vừa dân dã lại vừa mang đặc điểm mới phát triển của nơi mở quán.

Cây ổi còng là một quán giải khát ở vùng quê đang hoá phố.

Nó không thật đàng hoàng như nơi thành thị nhưng cũng chẳng đến nỗi lụp sụp trong vẻ sơ sài, cũ kĩ của nơi từng bày cái chõng tre bán nước vối.

Chỗ ấy từng có cái lều rạ mốc thếch, lủng lẳng treo đôi nải chuối héo, vài cái bánh tẻ, bánh chưng, đôi ba củ khoai củ sắn luộc bên mấy dóng mía bầu chặt sẵn cùng vo ve những chú ruồi đồng màu bay qua bay lại đến nhiêu khê.

Nay thì cái nơi phồn thực quê mùa ấy đã thay dạng đổi hình. Nó đã được gây dựng lại theo mốt mới sau nhiều lần đổi chủ.

Đất này xửa xưa có tên nôm na là “bãi ị”. Gọi vậy vì nó là bãi đất hoang ven làng cỏ dại mọc lung tung vô lối. Nơi này quen việc rẽ lối rồi nấp mặt trong cỏ của những người muốn trút khỏi mình bầu bức bách. Nó mang tên là vì thế. Mãi sau này đất ấy mới có lều và bây giờ là quán. Lều vô danh. Vui miệng thì gọi là lều nước. Không vui miệng thì gọi nó là chỗ dừng chân cho người đi làm đồng, làm áng về qua nghỉ chân và giải quyết nỗi buồn. Khi người ta lấy tên quán là Cây ổi còng cũng vì muốn nó có tính truyền thống đậm đà. Bởi trước đó tức là sau thời kỳ cỏ dại và ị bậy cũng có lúc chim chóc ở đâu đó bay qua rồi đậu lại và nhiều cây ổi tự nhiên mọc lên. Dân làng bảo chim ăn quả rồi nhả hạt. Có người lại nói chim từ đâu đến đây cũng ị bậy như người và những hạt ổi khó tiêu từ chúng thải ra đã mọc thành cây. Đất từ có cây ổi dại mọc hoang nơi dìa làng Phẩm được mọi người để ý. Dần dần chỗ đất để phí phạm ấy đã có người tìm đến ở. Họ không hẳn là dân làng Phẩm. Mới đầu là người ở tận đẩu tận đâu ấy. Dân làng không nhớ bởi nó xửa xưa lắm. Nghe nói đến ở được ít lâu phát cỏ trồng cây họ lại bồng bế nhau đi vì vây quanh họ vẫn khăn khẳn đâu đó mùi phân người. Dân làng Phẩm vẫn quen thói đến đây ị. Còn những cây ổi mọc hoang mãi lớn vổng lên mà vẫn chưa chịu cho quả. Nó là loại cây điếc ung điếc lòi, ra vẻ uốn éo đấy mà vẫn trơ khấc ra như khúc xương khô không một chút da thịt làm duyên. Cái mà người ta mong nhất là quả chín thì nó lại chẳng hề có lấy một mùa thì tìm đâu ra lộc sống.

Đất lại thay chủ.

Vẫn người thiên hạ. Họ là một gia đình. Người cao tuổi nhất làng đồng ý cho vợ chồng nhà ấy ở với mong muốn có hơi người cho đất ấm lành lên. Đôi kẻ cư ngụ ấy xăng xái gây dựng cuộc sống. Họ xin tre lạt của dân làng làm nhà. Gọi là nhà cho oai nhưng thực chất chỉ là một túp lều.

Đúng vậy! Chỉ là một túp lều. Chỗ chui rúc của một đôi vợ chồng khó người mạn bể dắt díu nhau lên đây làm nghề kiếm cá ở sông, ở ngòi vốn có sẵn ở quanh vùng kẻ Phẩm. Chồng sức vóc nhưng tính cù lần thuộc loại ăn to vác nặng. Vợ quần áo như mẹ mốc nhưng được cái dáng mỏng mày hay hạt. Chồng chuyên tối ngày chài lưới cho vợ buổi buổi thúng mẹt mang cá ra chợ bán. Cùng lúc có một anh dở nho dở quốc ngữ nghe nói từ miền trong ra dạy lũ trẻ trong làng Phẩm học cả chữ ta lẫn chữ Tây. Anh đồ nghèo tìm ở nhờ trái bếp nhà một ông câm. Anh đồ nấu ăn riêng. Gia sản của anh ta chỉ có hai cái niêu đất. Một cái nấu cơm còn một cái để kho nấu hoặc rang thức ăn. Cơm lưng bát chiếu nửa manh như vậy mà khi ra đường gặp dân làng nhất là những phụ huynh có con học chữ anh đồ thường đằng hắng nói:

- Đất ta có lộc nhưng chưa chịu phát. Tôi ra đây là để gieo mầm. Cũng may mà hai bên có duyên số gặp nhau. Kẻ từng cắp tráp vào kinh đô ứng thí với dân lấy chữ Phẩm đặt cho làng mình nếu không giàu sang về đường quan chức thì cứ lấy lá lót tay mà đuổi tôi đi.

Dân làng Phẩm nghe anh đồ nói vậy cũng biết vậy. Để xem cái loại ăn xó, mó niêu ấy làm được gì?

Anh đồ này cũng thuộc loại giỏi săn đón chị em nên đã tán được cô bán cá vợ anh thuyền chài sau mấy lần ra mua tép về kho mặn ăn dần. Mỗi lần ra chợ anh đồ nhìn cá thì ít mà nhìn cô bán cá thì nhiều. Cô bán cá mới đầu chỉ biết nhìn cá sau đó chả hiểu sao cứ mải miết nhìn người. Đôi cái miệng của họ chả biết từ lúc nào cứ tươi hơn hớn như tôm tép nhảy. Anh đồ lả lớt:

- Mình xinh vậy ngồi mãi với cá thế nó phí đi.

Cô bán cá thật thà:

- Vợ anh thuyền chài không ngồi với cá thì ngồi với gì hả thầy. Thầy lấy gì đi em để rẻ cho.

Anh đồ vẫn cái giọng cũ:

- Chưa lấy vội. Để ngắm đã. Tôi nói thật đấy. Đây đâu phải là chỗ của mình. Chỗ của mình ngồi là chiếu hoa cạp điều kia.

Cô bán cá khanh khách cười:

- Lèo ôi, em không dám mộng.

Và...

- Đồ anh tin như thế mà.

- Em chân lấm tay bùn thế này thầy đừng đùa em nữa mà phải tội.

- Tôi nói sai tôi trả thêm em cả mũ áo đây này.

- Thầy cứ trêu em...

- Rổ cá này, nhan sắc ấy một trời một vực. Phí quá. Phí quá. Em mà có dịp vào kinh đô như tôi khối kẻ nhìn thấy phải chau mày cúi mặt. Các mệnh phụ phu nhân cứ gọi là theo sau xin xách dép cho em. Thôi, nghe anh, quên cái chỗ cá này đi.

- Bơ gạo đĩa dầu nhà em đấy.

- Đáng gì cái chuyện lặt vặt ấy. Mình ý à... ngàn vàng chưa chắc đã mua nổi. Đồ này nhìn người bán cá mà thấy chệnh lòng.

- Lèo ồi...

Cô bán cá nhắc lại câu “lèo ồi” một cách thích thú. Mắt cô nhìn anh đồ càng ngày càng có vẻ đăm đắm hơn. Và rồi...

Cô bán cá trẻ xinh lấy phải anh chàng sông nước chỉ biết hùng hục như cá trê sục bùn ấy đã phải lòng anh Đồ Tôm như dân làng Phẩm gọi giấu. Hai người mê nhau đến nỗi ai đó của làng Phẩm đã đặt thành ca dao cho mọi người đọc và bọn trẻ hát. Bài ca dao này hay bị bọn trẻ con đồng thanh lên mỗi lần thấy anh đồ nọ ngồi xổm chọn mua từng con tép của cô hàng cá.

Có anh đồ tôm lẻo mồm

Hỏi cô bán tép có buồn hay không

Diếc đầm thả nước ao nông

Chỉ thương anh chuối nằm không một mình

Chém cha cái lưới vô tình

Để cho con Tép nó rình con Tôm...

Anh chàng đánh cá nghe việc vụng trộm của vợ, bực lắm. Chuyện mỗi ngày một mau như sàng rồi như giần. Anh chàng định cho cô ả một trận nhưng không nỡ vì mới chỉ nghe chuyện mà chưa được mắt nhìn. Một hôm nghe người đi làm đồng mách, anh chàng bất ngờ bỏ lưới về giữa chừng với cái giỏ thắt trên lưng có một ít tôm tép và mấy con cá diếc vừa bắt được. Kẻ ghen tuông mò từ bờ chuôm, lách qua mấy bụi hoang lẩn vào núp sau túp lều. Qua kẽ liếp anh ta thấy vợ mình đang bị tay đồ cợt nhả dồn vào góc lều. Đôi tay anh đồ mân mê cái gấu váy của cô hàng cá miệng nhễu ra như kẻ nghiện của chua thấy khế:

- Thương quá kia. Nhớ quá kia. Cứ như con cá diếc nướng treo trước miệng mèo ấy bố ai mà chịu được...

- Chồng em nó sắp về đấy.

- Con lâu nhá. Giờ đang ngụp mò ngoài chuôm kia kìa...

- Nhưng...

- Nhưng... nhưng cái này này...

Đôi tay gầy của gã đồ tốc hẳn váy cô bán cá lên rồi úp cái mặt xương xương vào cái chỗ mà gã muốn rồi hổn hển nói một câu khiến cô hàng cá đang sắp lịm đi trong hơi kẻ khác giới cũng phải giật người lên bật cười.

Câu nói của anh đồ thế này:

- U oà... ú ú oà oà... Con cá diếc xinh xẻo của anh.

Mặt anh đồ, tay anh đồ theo đó mà liến láu cùng. Người đàn bà bán cá rúm lại, đang muốn khụyu xuống thì từ ngoài anh chồng thuyền chài lao vào. Bất ngờ, anh đồ bị ai túm lấy kéo giật lại, ngã ngửa trên nền đất. Anh thuyền chài ngồi chồm chỗm trên bụng anh đồ mặt hằm hằm.

Chẳng nói chẳng rằng anh chàng thuyền chài lấy từng con cá diếc từ trong giỏ ra còn lem nhem bùn đất nhét vào mồm anh đồ.

Miệng anh chồng ghen vừa nhổ nước miếng vừa dữ dằn nói:

- Này diếc này. Mày ăn đi. Con này. Con nữa. Ông có những lưng giỏ cá diếc kia. Hôm nay thì ông cho mày ăn no diếc mới thôi.

Hả hê vì việc nhét cá vào miệng anh đồ anh chồng thuyền chài quay sang vợ thét lên đôi tiếng to:

- Con kia...

Người vợ từ nãy đến giờ chỉ biết quỳ trên nền đất van xin chồng. Giờ nghe chồng gọi, giọng chị ta líu lại:

- Dạ... dạ...

- Mày mang cái con diếc của mày đến úp thêm vào mặt nó cho ông. Đi chợ mặc cả từng con tép một mà lại đòi quyến rũ vợ ông à. Phen này là ông cho kho cả hai đứa vào một nồi..

Đồ tôm, đồ tép bị anh thuyền chài trói vào thân cây ổi ở góc vườn. Cô vợ thì bị chồng lấy cái mo nang to ngoài búi tre úp vào mặt. Chị ta cũng bị trói vào cây ổi lưng quay vào lưng anh đồ.

Chuyện đến tai làng.

Cụ già nhất làng ra tận nơi, cởi trói cho từng người rồi bảo anh thuyền chài:

- Có vợ mà không giữ nổi vợ thì kiếm được bao nhiêu cá cũng chỉ bằng thừa. Cốc mò cò xơi.

Với cô bán cá lẳng lơ cụ bảo:

- Bán cá mà bán luôn cả cái ấy nữa thì ở luôn ngoài chợ cho thiên hạ người ta mua chứ mang về lều làm gì.

Còn anh đồ chỉ biết lấy cái áo bị xé rách ôm lấy mặt mà nghe người già bảo bằng một giọng dịu dàng mát mẻ:

- Trẻ con làng Phẩm giờ biết gọi thầy là gì.

- Bẩm cụ...

Cụ già nghiêm mặt chỉ thẳng ngón tay trỏ vào mặt cả ba người mà thét to:

- Cút. Đồ tôm, đồ tép, đồ hèn...

Tiếng thét của cụ già to đến nỗi người hiền lành đứng xem xung quanh cũng phải giật mình theo... Mấy người đó bị làng đuổi đi. Cái lều vẫn còn nhưng không ai ở nên lại về cảnh vườn hoang, nhà trống. Bãi đất lại thành nơi cho người ta tiện chạy vào làm cái chuyện tháo khỏi ruột mình những thứ cặn thối như cũ. Một thời gian sau có vợ chồng anh thợ cối đến trú rạm ở cái lều đã dột nát xin làng cho bán vài thứ đá đã được đục đẽo sẵn hoặc còn thô chưa kịp hoàn chỉnh. Hàng của họ to là cối giã gạo, nhỏ là cối giã cua. Có cả cối xay bột làm bánh nữa nên mới đầu cũng có người ra, người vào mua hàng, đặt hàng nghe chừng rôm rả, chân chỉ, tử tế. Nhưng sau hàng cứ ế ẩm dần.

Cái đồ đá dùng có đến vài mươi đời cũng chưa chắc đã hỏng. Vợ chồng anh thợ cối đã đẽo bốn con chó đá biếu làng chôn ở bốn cổng chính, có chữ “Hạ Mã” bằng chữ Nho đục lõm hẳn hoi gọi là lễ tạ ơn lòng tốt của làng sau đó sang tay cho cô hàng chuyến lấy tiền độ nhật đưa vợ đi nơi khác kiếm việc.

Chuyện vợ chồng anh thợ cối tử tế làm chó đá tặng làng sau đó cũng có thơ truyền tụng:

Làm anh thợ cối có nghĩa có tình

Hơn cái thằng đồ nghênh ngang bút mực

Miệng nói thánh hiền mà tay lục súc

Làng Phẩm đâu dung cái thói lăng loàn.