• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bao Công Làng
  3. Trang 27

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 47
  • Sau

20

Ngỡ chỉ có vậy.

Vui miệng mà đất có tên.

“Bãi ị” là gọi theo thói quen vui đùa dân dã cũng là tên được dựng lên từ đặc điểm của một vùng đất cho dù nó chỉ là một bãi hoang mang giá trị của sự bỏ đi. Nhưng nào ai đã bỏ. Cái thú “thứ nhất Quận công thứ nhì... .” đã xúi thói hư hỏng của con người làm hư hỏng một vùng đất. Đất có Thổ công sông có hà bá. Chẳng có đâu là vô tâm vô tình cả. Bãi hoang bị người làng Phẩm vấy bẩn đã nổi lên gieo rắc lại tai hoạ cho người kẻ Phẩm. Xa xưa là những chuyện đã kể và nhỡn tiền là sự ác độc của vợ chồng nhà người đàn bà buôn chuyến gần đây. Hình như có sự vận vào từ câu nói cửa miệng của người làng Phẩm khi gọi tên vùng đất này. “Vùng đất tai hoạ!”. Hình như đó là nghiệp chướng. Nỗi vận vào ấy bây giờ thành nỗi sợ. Một nỗi sợ nhiều hoang mang và đầy suy diễn. Vùng đất bị bỏ hoang ấy thành nỗi ám ảnh với cả làng.

Cũng thành chuyện khiến cả làng họp lại để bàn cách đặt tên mới cho vùng đất dữ ấy. Phải lấy tốt trị xấu. Phải cải tà quy chính nó. Người già nhất làng hỏi mọi người:

- Cái tên cũ ấy giờ ta bỏ nó đi. Bỏ cũ thì phải có mới thay vào. Mọi người thử nghĩ xem giờ ta chọn tên gì được. Mọi người nhao nhao:

- Phải là tên đẹp vào.

- Nhưng là tên gì mới được?

- Bãi Tiên Sa.

- Láo nào. Tiên đâu ở chỗ bẩn thỉu hôi hám ấy.

- Bãi Phú Quý vậy.

- Trồng cấy làm ăn gì mà mong phú quý? Không được nói linh tinh. Đã bàn là phải bàn cho cẩn thận.

- Phải chọn cho nó cái tên đẹp nhất ấy. - Nói chung chung thế bố ai biết. Đẹp thì đồng ý rồi nhưng phải đẹp về cái gì mới được chứ?

Mọi người lắng đi sau câu hỏi ấy. Mãi sau có một ông đồ khà khà vuốt râu thưa với già làng cùng mọi người:

- Xin phép thưa trên có cụ Thượng và dưới là tất cả dân làng Phẩm, rộng ra là cả vùng kẻ Phẩm này nữa...! Đồ tôi xin mạo muội có lời bàn thế này. Dạ... xin được thưa rằng, trên đời này không gì bằng Nhân Đức, tức là cái đạo đức tốt đẹp của con người ấy ạ, cho nên...

Ông đồ nói chưa hết câu mọi người đã ào ào:

- Phải lắm... phải lắm!

Dân làng Phẩm sau đó bỏ hẳn cái tên cũ uế tạp tếu táo bị ma ám và đã đặt cho nó một địa danh mới rất oách. Đó là Nhân Đức. “Bãi Nhân Đức!”. Mọi người quên dần chuyện cũ khi cái câu cửa miệng Nhân Đức thành câu gọi quen thuộc cho bãi đất ấy. Bãi đất Nhân Đức cũng dần dần sạch lên vì mọi người sợ bị dân làng mắng và cả ma ám nên không dám vào làm bẩn. Bãi Nhân Đức lại có thêm một lần nữa cái tình của nó khi các cụ trong làng Nhân Đức muốn chia cho một cháu gái có hoàn cảnh. Con bé đang trong cảnh không nhà không cửa khi ông bố đánh bạc thua lớn phải gán hết gia sản vẫn chưa đủ đành bỏ lại đứa con gái cho làng xóm trông nom rồi chạy trốn. Bây giờ đang sẵn có túp lều của cái bọn người hư đốn ở trước đó, các cụ trong làng đã bàn nhau và quyết định để cho cái con bé không cha không mẹ có tên là Diệc mới chớm thì con gái này đến ở. Có chỗ ăn ở cho dù chỉ là một túp lều nhưng tử tế, với tuổi ấy nó sẽ biết tự làm, tự nuôi mình được. Lúc ấy Diệc cũng rất cần có nơi che nắng che mưa khỏi phải lang thang ngoài quán chợ. Nó lớn rồi. Bãi Nhân Đức chẳng còn mang tên cũ nữa nên nhất cử lưỡng tiện dân làng cho Diệc ra đấy ở để đất có thêm cái tình cái nghĩa của người với nhau. Cũng là lấy cái đạo làm người giúp nhau để mà cải tạo cái tăm tiếng xấu của đất. Người ta mong biết đâu khi dành đất cho đứa cùng đường đến tá túc có khi lại thay tính đổi nết được cái nơi vốn chỉ có tiếng không hay này.

*

Mới đầu khi Diệc đến bãi Nhân Đức ngoài mảnh vườn mọc nhiều ổi hoang ra chỉ có một túp lều mốc ẩm, xơ xác. Diệc đã sang sửa lại túp lều thành cái quán bán nước vối cùng đôi lọ kẹo bột, dăm mười cái bánh tẻ bánh khoai, đôi ba nải chuối tây chuối tiêu treo lủng lẳng từ mái xuống cùng với mấy cái ghế gỗ vây quanh cái chõng tre dùng để bầy biện. Cánh đến lều uống nước, ăn quà thường là những người đi làm đồng nghỉ giải lao giữa chừng, khách bộ hành đi tắt qua làng lên chợ huyện. Quán nghèo, quà vặt cũng đủ nuôi cô bé Diệc bị bố bỏ rơi. Có đồng tiền vào ra, cái nghèo cái khổ không hành hạ nữa Diệc thấy mình đỡ côi cút đi nhiều. Diệc mỗi ngày mỗi lớn. Rồi Diệc không còn là trẻ con nữa. Cô bán nước vối của làng Phẩm dành nhiều công sức chăm bón cho bãi Nhân Đức càng ngày càng phổng phao đẹp đẽ ra. Cơ ngơi thì vậy nhưng người chủ của nó lại chẳng được vậy. Chả hiểu làm sao Diệc khi thành con gái thì cái lưng lại bị gù. Thật oái oăm làm sao cho tuổi dậy thì của cô. Vận hạn bỗng gieo thêm vào đời cô gái chưa chồng tên Diệc. Nhưng trong cái rủi Diệc lại gặp cái may.

Gần đây như có phép lạ bãi Nhân Đức bỗng nhiên có nhà cửa hẳn hoi. Mọi người trầm trồ.

Chuyện cũng vỡ ra...

Có một người nào đó ở xa vào loại nhiều dấn vốn gửi về cho Diệc mấy chục triệu qua bưu điện. Trong phần đề thư không ghi tên người gửi nhưng có viết những dòng chữ run run với một mong muốn rằng số tiền này là để giúp Diệc có thêm vốn mở mang thêm quán bán hàng, cho cô có nghề để kiếm sống lâu dài. Thư còn mong Diệc sớm có được lấy một tấm chồng làm chỗ nương tựa. Ai cũng nói đó là món tiền của lão Mè gửi về cho con gái.

Vì thua bạc không còn gì để bán, để gán lão đã phải bỏ con, bỏ làng chạy trốn biền biệt bao nhiêu năm giời. Cảnh tha phương thường thôi thúc trong con người ta tình quê hương. Chắc vì thế nên giờ lão Mè đã phải nghĩ lại và gửi tiền về cho con cũng nên. Có lẽ cũng bởi vì xấu hổ quá chưa dám về nên lão cũng chả dám xưng tên xưng tuổi cho mọi người biết nữa chăng? Chẳng ai chấp nhặt chuyện hoạn nạn này. Ai cũng chắc mẩm đó là tiền của lão Mè. Không ai bỗng dưng lại làm cái chuyện vô duyên cớ ấy. Lúc này lão có về chăng nữa cũng sẽ chẳng có ai lấy cái chuyện xưa ra mà căn vặn. Người đời hôm nay sống bạc sống bẽo với bạn bè, họ hàng người ta cũng chẳng thèm chấp nếu họ biết quay trở lại huống chi là cái chuyện thua bạc từ đời tám hoánh nào của lão gà trống nuôi con ham cơn đỏ đen hơn là trò lang chạ trai gái. Với Diệc chuyện ấy, thấy lại bố chẳng vui bằng chuyện bỗng đâu tự nhiên nó có mấy chục triệu để tiêu. Mấy năm nay mở quán nước vối cô ta có mơ cũng chẳng thể có nổi tiền triệu bạc chục như thế.

Bố mất hay còn bây giờ quan trọng gì đâu. Bỏ con đi bao nhiêu năm rồi giờ có cũng như không. Diệc hận chuyện bố bỏ nhà đi để cô phải lang thang ăn xin đến mấy năm. Đẻ con ra mà nỡ bỏ con đi biền biệt, không một câu nhắn, không một lời dặn dò liệu có còn cái nghĩa cốt nhục trong lòng. Máu chảy đến đâu ruồi nó bâu đau đến đấy kia mà. Lão Mè có sự ham mê ích kỷ nhưng thiếu tấm lòng. Làng Phẩm nhân đức hơn người sinh ra Diệc cho dù chỉ thí cho cô một bãi đất hoang vốn nhiều uế tạp. Diệc biết vậy nhưng vẫn vui vẻ nhận về mình cái phần làng muốn bỏ đi. Nhưng sẽ là tử tế nếu Diệc biết làm cho cái bãi ị này nên nhà nên cửa, nên người. Cũng sẽ là tử tế nếu số tiền bạc chục triệu này đúng là số tiền của của lão Mè gửi về cho con gái. Dân làng nghĩ vây. Diệc còn nghĩ gần hơn, gần hơn nữa về người đẻ ra mình rằng đã có lòng gửi tiền về cho con thì thể nào cũng có ngày ông ấy tìm về đoàn tụ với máu mủ ruột thịt của mình.

Thế rồi quán nước vối được nâng cấp thành quán giải khát Cây ổi còng vào loại sang và hấp dẫn của cả vùng. Làng Phẩm có một chỗ uống nước oai và oách gần như các quán ở trên thành phố.

Cô chủ quán luống tuổi chưa chồng có cái lưng khum khum như múi bưởi đã lấy thêm một cái tên khác ghép vào nghe như mới nhập từ Nam Bộ ra kèm cùng tên cũ: Tư Diệc.

Cô ta còn có một tên ghép khác nữa, Tư Diệc “cây ổi còng”.

Phải vì vậy hay là vì mấy cây ổi già mọc hoang từ trước thân hơi còng xuống trông tồi tội như thân phận Diệc mà người chủ lại muốn đặt thêm tên chữ cho quán là quán Nhân Duyên bên cạnh tên đất Nhân Đức như làng đã đặt lại cho cái “bãi ị” này. Tuy vậy dân làng Phẩm ưa hài hước, sợ hai cái chữ Nhân Duyên nó khách khí thế nào ấy so với cuộc đời của Tư Diệc nên chả ai bảo ai cứ duy nhất cái Cây ổi còng mà gọi tên cho quán. Hai chữ Nhân Duyên đã không còn được viết lên bảng nữa nhưng trong lòng quán của cô Tư Diệc lại nhóm nhen, nảy nở bao nhiêu chuyện có gắn liền với đàn ông và đàn bà. Những chuyện trai gái...

Hình như hai cái chữ Nhân Duyên vui như một câu tếu của những người thích đùa đang quả báo lại quán Cây ổi còng của Tư Diệc. Người nặng lý thì nói đó là hình phạt của Thành Hoàng đối với kẻ dám đổi cả tên đất làng đã đặt cho. Tư Diệc là con gái làng Phẩm một trăm phần trăm gốc gác lại trong cảnh bơ vơ một mình từ nhỏ nhưng mê hát cải lương nhiều hơn hát chèo nên miệng luôn luôn leo lẻo câu nhạc vàng thân phận:

Đời em cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn...

Và câu vọng cổ xuống sề dằng dặc nỗi niềm:

Thân gái như em, mẹ mất, bố bỏ đi, tiền không thiếu chỉ thừa mà vẫn một thân lênh đênh bao nhiêu bến nước, trôi nổi bao nhiêu mối tình rồi đêm đêm vẫn gối chiếc một mình...

Trở lưng gặp vách, trở dạ gặp đêm nhưng em vẫn vững một niềm tin vào ngày mai tươi sáng và mỗi sớm đón bình minh lên mang tình yêu hạnh phúc đến với muôn... người.

Nhưng mà...

Buồn ôi

Buồn ổi

Buồn ồi..

Đời em sầu khúc tàn phai

Khổ sớm đau mai

Ngày ngày tháng tháng

Bơ vơ trơ trọi

Lặn lội như con ma dại giữa cái lều hoang

Thân gái làm hoa sớm nở tối tàn khiến đời em rơi rụng...

Như là...

Như là...

Cái lá vàng rơi...

Hát thì hát vậy nhưng bây giờ cuộc đời Tư Diệc cũng chưa hẳn là thế. Tuy có hơi còng lưng một tí đấy nhưng cái thứ tật bệnh trời sinh này chẳng làm Tư Diệc mất đi một tí gì trong bố cục của một con người. Cô lại có cái miệng nói trói người và lưng vốn quyến người không dễ ai cũng có. Về mặt đàn bà Tư Diệc thậm chí còn dư thừa hơn người cùng giới nữa là đằng khác. Tỷ dụ như chuyện đến bệnh viện nạo hút thai thì Tư Diệc xoè cả đôi bàn tay ra cũng chưa đủ đếm. Người già trong làng gọi Tư Diệc là “con trăm thằng”. Bọn trẻ phong cho Tư Diệc một danh hiệu Tây Tàu kết hợp: “Quí bà đazinăng”. Đàn ông đến với Tư Diệc chẳng cần giàu sang gì nhưng khoẻ trai và chịu chơi là được. Cái quan trọng nhất ở họ là chiều được quý bà. Có tay chơi xong cái việc ấy ra đường miệng cứ oang oang rằng phải nhắm mắt làm cái cho tròn nghĩa vụ rồi xin chị còng mấy tờ đi nhậu nuôi sướng một đời trai đói khát. Tuy vậy, đến với Tư Diệc đa phần là trai thiên hạ. Họ ghé qua chốc lát rồi biến mất tăm. Cũng có trai làng Phẩm nhưng hiếm. Tư Diệc cũng chỉ cần có thế. Chị ta nghiện cái món đụng chạm này tới mức cứ thấy trai vào đến quán là mắt sáng rực lên như đèn pha ô tô vừa bật. Rồi thì chả cần rào đón gì, Tư Diệc vừa rót nước mời khách vừa đung đưa cái phần mình muốn đung đưa vào khách. Khách có người mới đầu sợ nhưng rồi nghe cái tiếng ngọt lừ như mật của Tư Diệc đổ vào tai thế là cứ đứ đừ vì cái hơi đàn bà nồng nã cho đến lúc phải đáp lại mới thôi. Người vui vẻ chốc lát thì sử dụng món võ chân, võ tay khiến Tư Diệc phởn chí cười khích khích như chuột nhắt gặp bạn. Bợm hơn có người kéo xộc ngay Tư Diệc vào chỗ kín giở võ toàn thân ra với nhau cho đến lúc đứt hơi chị ta vẫn còn thều thào tiếp thị:

- Lần sau lại đến nhá. Nước uống em khuyến mại. Còn cả bồi dưỡng tiền mất sức nữa.

Có lúc chị ta còn hài hước nói như không với cái kẻ vừa rũ khỏi mình cái mùi da thịt của con mụ cứng tuổi mà người ngợm lúc nào cũng cứ như vừa hơ qua lửa với những câu nói khiến nhiều gã chai sạn cũng phải bạt vía.

Tỷ dụ như những câu như thế này với một số đàn ông như một “ba rem” có sẵn trong đầu- Những câu mà Tư Diệc từng hả hê hoặc khúc khích cười nói ra với kẻ vừa vật vã thị giờ nằm xoài ra thở gấp.

- Lưng em còng nhưng cái ấy có còng đâu nào. Đúng hông cưng?

- P... h... a... i... .phải.

Và...

- Hi hi... ừ ừ... chiều thế đã được chưa? Lúc nào muốn nữa lại đến em sẽ chiều cho hết sảy thêm. Tư Diệc này chỉ cần tình chứ không cần tiền? No tình hơn no cơm đấy. Có tình là có hết...

- Hay. Hay...!

- Còn khối cái hay nữa kia.

- Dễ thương quá... nhỉ. Tình no chưa mà chả chi cho anh xu nào ra quán cầy tơ đây. Phục vụ em quá trâu kéo cày đầu vụ.

- Chưa chi đã kể công. Đấy mất sức đây không mất sức. Chỉ khéo tố khổ. Chỉ khéo bòn.

- Thì thôi vậy nhá.

- Chớ chớ. Chưa chi đã...

Và...

- Em vẫn ngon lành đấy chứ? Đúng không nào, nói đi.

- Vâng. Ngon nhưng chẳng lành.

- Chê hả?

- Rách cả người ra đây này, mẹ ạ.

- Thế mới thế này. Cầm lấy đi. Đủ bữa nhậu chưa nào. Em chi cho thêm cả suất bạn của anh nữa đấy. Chê à. Chê thì gút bai.

- Bao nhiêu cũng ít.

- Nỡm ạ. Vừa thiệt của lại mất tiền.

Và...

- Đồ yêu... tinh! Khiếp quá. Gái này đã sợ thì gái khác phải xách quần chạy mất đại ca ạ.

- Đùa.

- Em lạy đấy.

- Nữa nhá...

- Gãy cả lưng em rồi đây này.

- Càng đỡ còng chứ sao.

- Thôi thôi em vái thầy cả nón.

Và...

- Trăm phần trăm đúng. Không cái ý thì cái gì. Đồ trai ngỗng. Giờ mới nếm mùi đời hả. Hơ hớ... sướng quá. Nhất mình đấy. Mình được phá trinh đàn ông rồi làng xóm ơi. Con bé thế mà có giá...

- Chị bảo gì?

- Còn bảo gì nữa. Phướng quá là phướng. Phướng hơn cả lúc phương phì...

Và...

Táo tợn đến vậy là cùng. Ôi những ngôn ngữ đầy mùi xác thịt. Những câu chả có trường lớp nào dạy cả mà sao họ ăn nói trôi chảy đến vậy? Lại còn chuyện này nữa. Thằng đàn ông nào đến với Tư Diệc sau chuyện cơm no bò cưỡi là miệng họ lại oang oang lên cái câu vè, không biết do ai đặt và đặt từ bao giờ nhạo giễu những cái chuyện ấy.

Ai đặt ra không một ai biết được. Nhưng nhớ đến nó thì nhiều người đọc đến thuộc lòng. Dân gian mà. Kẻ nọ nối người kia. Lời chắp thêm lời. Câu sau gọt giũa cho câu trước...

Lưng em còng

Cái ấy có còng đâu

Xin ai ai cứ đến để cho nỗi nông sâu

Em được tỏ tường

Một là thương

Một, hai... năm, sáu nữa cũng là thương

Có bốn chân giường gãy hai cái vẫn còn ba

Của là của của nhà ta

Hơi đâu vãi thóc cho con gà hàng xóm nó xơi

Em thì miếng chả

Mình cũng miếng xôi

Dại gì dửng mỡ cho người dửng dưng

Thì rằng thương

Thì nữa cũng rằng thương

Diệc ơi Diệc hỡi anh thương túi nàng

Túi nàng là túi ba gang

Thằng nào thích túi thì sang với mình

Cái gì mà xỉnh xình xinh

Được bằng cái ấy khi mình cho ta

Ba đồng một cái lá đa

Diệc bỏ vào nhà cho chúng anh xơi

Những câu hò vè đại loại như thế này của lũ người bạc miệng Tư Diệc không phải không được nghe. Thậm chí chị ta còn thuộc nữa. Tư Diệc học thuộc để mà đắng, mà cay, mà thây kệ sự đời. Cái con người đã trơ ì đến vậy liệu còn cách nào chữa? Lắm lúc chị ta nghĩ mình như cái quán bán hàng. Ai thích, ai cần thì vào mua. Chẳng ai vào nữa thì quán hàng vẫn là quán hàng. Đã quán hàng rồi thì chỉ có đón khách, chờ khách. Kể ra là như vậy nhưng ngẫm thấu ruột gan là buồn, là khổ, là vô duyên tủi phận. Con gái cũng là con người. Nó có phải là con cá mớ rau đâu mà vầy vò, nhấc lên đặt xuống. Chao ôi là cái tên Nhân Duyên. Tự đặt ra rồi lại tự chuốc cái ác ý, ngược ngạo ấy vào cho mình. Không biết ai đã mách cho Diệc cái tên ấy nhỉ. Cái tên như gieo cây, gieo hạt nhưng khi thu về toàn những quả thối, hoa thui. Nhân duyên gì mày hả Diệc ơi. Bạc duyên bạc phận thì có. Người đàn bà có được cái ấy làm cái thu duyên thu phúc cho cả đời mình. Đâu ngờ cái của nợ ấy lại gieo tai gieo hoạ cho Diệc.

Có đàn bà nào trên thế gian này khi sinh ra lại muốn mình làm cái chuyện ấy. Người chứ có phải cái ghế cái giường đâu mà ai muốn ngồi cứ ngồi, muốn nằm cứ nằm. Vậy mà Diệc phải chấp nhận cái cảnh làm vợ khắp thiên hạ ấy. Cuộc sinh dục nào cũng hào hển, khoái cảm nhưng đấy là cái trời cho mỗi con vật được hưởng trong đó có con người. Bản năng là vậy nhưng có người nào chỉ muốn làm con. Diệc đã có nhiều bữa no nê xác thịt nhưng đói khát nhân tình. Cho nên vui đấy cũng buồn đấy. Còn nỗi đau lúc nào cũng như muối ướp ngấm khắp thịt da. Ai đặt cho nó cái tên Nhân Duyên mà trớ trêu đến vậy. Hay đây là sự vô tình của tạo hoá sinh ra để hành hạ cười cợt cô. Nghĩ mà chẳng làm được gì khác nào kẻ cùng đường. Cùng đường rồi thì chép miệng cho qua nhưng nỗi dứt day thì vẫn luôn đeo đẳng như một cái dằm ngầm trong thân phận Tư Diệc. Người ta sinh ra phải có, phải được hưởng cái điều mà đến con gà con vịt cũng được hưởng. Con vật còn vậy mà với cái gọi là con người nhiều khi người ta phải lăn lộn và trả bằng giá đắt đến cả kiếp đời. May mà Diệc có của, có tiền. Chị ta đã mua được cái chị ta cần. Có điều lạ là mong muốn có con đến cháy ruột cháy gan nhưng lần nào có thai, lần nào bị nghén Tư Diệc cũng tìm cách phá nó đi. Người thương cảm khuyên Diệc nên giữ lại cho ấm cửa ấm nhà, sau này còn có đứa nó thuốc thang, nâng giấc, Diệc cứ lắc đầu quầy quậy.

Chị ta nói trong nước mắt. Khóc lẫn nói nhưng giọng người đàn bà ấy cứ mỗi lúc như mỗi to lên và ráo hoảnh:

- Đẻ ra con hoang thì đẻ ra để làm gì. Làm người thì phải đẻ ra người chứ sao lại đẻ ra con hoang. Tôi không muốn bị làng gọt đầu bôi vôi.

- Sao không kế hoạch đi? Để vậy tội chết.

- Hơ hớ. Chơi có bảo hiểm thì chơi làm gì.

- Thế không sợ bị quả báo à? Không sợ người đời người ta cho là nhẫn tâm sao? Giọt máu của mình kia mà, nó có tội tình gì?

- Nó đã nên người đâu mà sợ. Chẳng ai phạt nổi con này đâu. Có đứa còn lấy bào thai trẻ con ngâm rượu uống kia kìa. Đây không thèm nhìn mặt cái đứa con hoang có mẹ mà không có bố nhá. Đây không muốn mang tiếng cả đời nhá. Nuôi thế thì nuôi để làm gì. Nuôi cho nó phí l... đi à?

- Bậy nào?

- Bậy cái gì. Chẳng phải từ cái ấy mà ra cả sao. Sĩ diện. Thằng nào con nào mà chả sấp mặt vào cái ấy của nhau. Thế không xem trên phim sao?

- Lăng nhăng quá. Khuyên thật không nghe thì thôi.

- Đây bao giờ có chồng hẳn hoi thì đẻ. Đẻ hàng tá cho các người xem. Còn bây giờ thì... xin các người đừng giết tôi không gươm nữa. Càng nói càng buốt ruột. Môi người mỏng như “banh-xơ-lam” ấy.

Giọng Tư Diệc bỗng bùi ngùi và chùng hẳn xuống. Nước mắt người đàn bà độc thân chảy ra như đặc sánh cùng tiếng nói:

- Kẻ nào sinh ở trên đời này mà chả cần có bố, có mẹ. Không thằng nào chịu công khai làm bố nó thì gái này cứ chơi cho đã đã. Chẳng con thì chớ. Đã con cái là phải đàng hoàng. Mai sau già nếu còn cô quả thì xin vào quét lá đề trong chùa làng xin ăn mày lộc Phật.

Vậy là cứ quan niệm ấy Tư Diệc sống. Tự nhiên như cây hoang, cỏ dại. Bất chấp ai gọi mình là gì. Bất chấp làng Phẩm coi Tư Diệc là đứa hư hỏng, bỏ đi không thèm chấp cái con đã lì như đá cuội ấy. Nhưng Tư Diệc có lì khối ra đấy. Cô nàng lúc nào cũng cứ như củ khoai tây luộc. Trai làng Phẩm kiêng cữ thì đã có trai thiên hạ. Đâu chả là đàn ông. Có thằng nào muốn làm quan mà bị hoạn đâu. Có người lấy điều thân quen nói nọ nói kia rồi phân tích lên phân tích xuống nhưng đều bị Tư Diệc tru mỏ đai lại:

- Các người có còng như tôi đâu mà các người biết. Được ăn miếng cá ngon phải thương đến con mèo đói chứ. Mà nào tôi có ra đường ra ngõ làm chuyện đứa trên đứa dưới đâu mà các người phải sợ. Luật pháp nào cấm được người chưa chồng đi yêu thương tìm hiểu nào? Hay là có ai xót tôi thì về làm chồng tôi vậy. Cứ có thằng đàn ông trong nhà chính thức gái này xin chính chuyên ngay. Ai vào đi tôi xin nuôi cơm cả đời. Thề có mặt trời trên đầu đấy. Nếu gái này nói sai thì nó xin chết ngay tắp lự. Nếu cần làm cả văn tự Tư Diệc này cũng ký.

Nhưng đã có gã đàn ông nào dám. Lời khuyên nhủ bị cái sự “chổi cùn rế rách” kia làm cho đuối lý nên nhiều người theo nhau lặng tiếng dần.

*

Cái quán Nhân Duyên của cô Tư Diệc “Cây ổi còng” vẫn ngày đêm ra vào tấp nập nhiều loại người.

Chức trách làng Phẩm có kêu ca dị nghị đấy nhưng trước mắt hình như vẫn chưa thể làm gì.

Bây giờ ai dám cấm trai gái ngồi với nhau. Cả chuyện họ ôm hôn nhau công khai ngay cạnh gốc cây ổi, chướng mắt đấy nhưng chỉ biết chặc lưỡi quay đi. Còn cái buồng đơn chiếc của bà chủ quán chả mấy khi là vắng tiếng rúc rích nhưng cũng chỉ là nghe để mà biết. Nào ai dám ngang nhiên xô cửa vào. Mà có vào chăng nữa thì làm gì được khi người ta đang là gái chưa chồng. Cái truyền thống tốt đẹp đang bị cái lối sống buông tuồng hiện tại xâm thực làm cho biến dạng. Biết là sâu đang ăn ruộng rau đấy mà chưa có thuốc đặc trị. Than ôi ngày mỗi mới, cái hôm nay khác cái hôm qua, cái bây giờ có thể sẽ lạc hậu khi ngày mai về. Đương nhiên là vậy! Nhưng không hẳn cái sự đương nhiên ấy đã đúng hoàn toàn khi mà bên cạnh cái phần người lý trí còn có cái phần người bản năng nữa. Con người hôm nay đang làm khác cái của người hôm trước thường làm. Không hẳn là sai cả nhưng không phải cái gì cũng đúng cho dù đó là quyền tự do của mỗi người được sống và được mưu cầu. Kiểu diễn ra ở quán nhà Tư Diệc kia là trái khoáy với nếp chung xưa nay của làng Phẩm. Nhiều người biết vậy nhưng không phải là tất cả ai cũng nghĩ vậy và nói vậy.

Có người trực tính nóng nảy nói toang toang một cách bất lực:

- Bãi ị lại hoàn bãi ị. Thối quá rồi mà chưa hót được.

Có người lo lắng ai oán:

- Trời quả báo làng Phẩm này đến bao giờ nữa. Cho đất cho nơi ăn tử tế vậy mà sao nỡ nảy nòi ra cái con tai quái đến vậy. Cứ để nó lỗng tuồng thế này thì làng Phẩm này con trai con gái hỏng hết mất thôi.

Nhiều người tiêu cực chỉ biết thở dài kêu trời.

- Dào ồi. Kệ. Thời buổi tự do dân chủ này ai dám cấm ai?

- Càng thế càng dễ nhìn, càng dễ cai quản. Cứ tắt đèn dấm dúi như ngày xưa ấy thì ai biết ma ăn cỗ. Kễnh bụng ra đấy rồi mới lo đi mài dao với tôi vôi. Rồi thì hè nhau ra mà gọt, mà bôi...

- Giời ạ. Nói thế thì khác gì nói với cái đầu gối của mình?

Sao họ lại kêu Trời? Phải kêu người mới đúng chứ.

Trời đâu có làm nên khuyết điểm này hỡi các bậc công dân? Ông Công Mái biết Tư Diệc là cái gai đạo đức nhức buốt của làng Phẩm mình đấy nhưng chưa biết cách nào mà nhổ nó ra khỏi thân thể làng được. Đấy là nói về mặt tình. Còn lý thì cũng đã có những chuẩn bị. Công an xã đã mấy lần định vào cuộc nhưng vẫn phải ém quân lại vì chưa tìm được ra cái cớ xác đáng để quy nó vào luật lệ. Chuyện làng chuyện xóm nhiều khi chất dân sự lấn át chất hình sự. Có khi chất hình sự còn nể nang chất dân sự nữa. Cũng có cái ở làng quê cho là bất bình thường thì ở ngoài phố người ta lại cho nó là chả có cái gì đáng phải bàn. Khó nhất là sự chấp chới, giáp ranh, nửa mùa của cái chốn có thể gọi là nửa quê nửa tỉnh này. Hay nói như một số vị hay chữ rằng “Phẩm mình đang phố hoá” hay “nông thôn đang muốn tiến kịp thành thị”. Theo cố vấn Công Mái thì đối với những loại công việc như thế này ở quán Tư Diệc phải cẩn thận và tế nhị. Với làng có thể nó không hợp mắt nhưng với luật nó lại chẳng sai. Có một lần, một công an viên đến nẹt Tư Diệc rằng không được bán cà phê “Ba trong một” để cho thanh niên dành thời gian cho đi cày đi bừa. Cái thứ “Ba trong một” bán ở đây chỉ tổ tốn tiền lại là nơi khơi mào cho thanh niên tụ tập làm mất trật tự trị an làng xóm. Người Công an viên này đòi cấm. Nếu cấm không được anh ta doạ sẽ cưỡng chế. Biết tin này ông Công Mái đã can ngăn ngay:

- Không được giận mà mất khôn bây giờ. Cá nhân giận đã là sai. Đai diện tập thể mà lại giận theo kiểu này càng sai nữa. Với dân hơi tí là cấm rồi cưỡng chế đâu phải là cái sách hay. Lạt muốn buộc được chặt phải mềm.

Ông Công Mái cũng từng trao đổi với Ban chỉ huy Công an xã:

- Các chú không được dùng pháp luật ra để doạ người ta khi người ta chưa thật sự có tội. Đây là sự quá đà của người có hoàn cảnh. Trường hợp Tư Diệc chỉ là cái hạt bụi rơi vào mắt thôi phải dùng nước sạch mà lấy nó ra. Còn cách lấy nó ra như thế nào nếu bây giờ vẫn chưa có thì sẽ tìm cho ra có mới thôi. Ta chẳng thể bó tay... Nghị vốn là lính quân báo nay làm Trưởng Công an xã nghe theo lời khuyên của ông Công Mái. Anh nói với anh em:

- Tôi thuận theo lời khuyên của cố vấn. Bây giờ làm vội e lợi bất cập hại. Chị ta làm vậy là trái luật làng đấy nhưng đâu phải chỉ riêng làng mình, xã mình mới có chuyện này.

Có ý kiến của một công an viên:

- Tôi chỉ sợ ta hữu khuynh. Cứ để Tư Diệc tự do sống theo sở thích của mình như thế này không khéo có ngày cái quán ấy thành ổ chứa hết. Con gái đã đi làm điếm rồi có hoàn lương lại cũng chẳng thể là gái lành.

Nghị nói ngay:

- Nói như ông thế là cực đoan. Cụ Công Mái chỉ khuyên bình tĩnh. Ta có nói là không làm đâu mà cho là hữu khuynh.

Có ý kiến khác cụ thể hơn:

- Làng Phẩm mình vốn xưa nay cũng có chuyện nọ chuyện kia thật đấy nhưng được tiếng chung là văn hiến. Lại có cả chữ vàng nhà vua tự ngày xửa ngày xưa ban cho nữa. Mỹ Tục Khả Phong. Mỹ Tục Khả Phong mà vậy ư? Bây giờ xã hội mở cửa đấy. Nhưng cứ mở toang kiểu thế này thì có ngày cái bát ăn cơm cũng chẳng còn. Cái gì cùng từ từ. Cái gì cũng phải xem xét đã. Ta cứ để mãi vậy có khi nó làm nát cái làng Phẩm này mất...

- Ai làm nát?

Ông Công Mái hỏi lại ngay. Người nói cũng thẳng băng vạch tên chỉ mặt:

- Cái quán Cây ổi còng của của con mẹ Tư Diệc ấy. Còn ai vào đây nữa. Suốt ngày dập dìu rặt những đàn ông, đàn bà. Còn gì ngoài cái chuyện ong bướm ấy. Mà đã đàn ông đàn bà tụ lại với nhau không hội họp, không kính thưa kính gửi thì chỉ có chuyện ấy chứ còn chuyện gì khác vào đây được?

Ông Công Mái cười khì:

- Chuyện ấy là chuyện gì. Người ta đã con cái gì đâu mà gọi là con mẹ ấy. Nhà Tư Diệc ai cũng biết là hư đấy. Khuyên nhủ cũng đã nhiều vậy mà chứng nào vẫn tật ấy. Khốn nỗi là ta mới chỉ nghe kể lại thôi chứ bắt quả tang thì chưa.

Cũng cho trinh sát nghiệp dư đi rồi. Nhưng trinh sát lại là người làng nên cứ vào đến đầu đường là họ đã biết nhận ra từ cái bước chân đến giọng thuốc lào húng hắng ho nữa. Mà đã biết trước thì thiếu gì cách tránh. Tư Diệc lại là loại người đáo để, có hiểu biết chút ít về pháp luật. Cái gì chị ta cũng vanh vách. Phải biết người biết ta thì xuất quân mới có hiệu quả. Bây giờ có phải thời chỉ nói suông đâu. Cả doạ suông cũng không được. Muốn được cái tình thì trước hết phải có cái lý. Hai điều này chỉ có làm mới thấy được. Cố vấn Công Mái đã nói vậy thì Công an xã ém quân là phải. Cả mấy người bực bội cũng phải chịu lý đúng của cái ông làm Công an đã lên đến lon Đại tá. Tư Diệc có biết chuyện này từ ai đó nói ra. Công an xã đã gõ kẻng báo động rồi đấy. Tư Diệc tự nhắc nhở mình. Bên ngoài chị ta có kín đáo hơn nhưng bên trong vẫn cứ nhơn nhơn với cách sống ấy của mình. Hình như chị ta đã nghiện. Bên cạnh sự tợn tạo của kẻ khát tình chị ta lại có cái tinh ranh của kẻ ăn vụng biết chùi mép. Mọi việc chỉ là trong đồn thổi. Pháp luật chả ai lại dại gì xử tội người ta bằng các tin đồn. Thuế má Tư Diệc đóng đầy đủ. Lại đầy đủ cả việc hoa hồng hoa đỏ cho những người có liên quan nữa nên cũng qua mặt được khối việc. Nghĩa vụ với thôn với làng Tư Diệc không thiếu một đồng. Nhiều lúc chị ta còn tự nguyện dâng tiền công đức lên chùa lên đình. Cái này thì chẳng ai dám chê. Chê là có tội với thánh thần. Tư Diệc xấu cái gì thì xấu nhưng việc này là thành tâm. Các bậc thiêng chưa bao giờ từ chối lòng tốt nhưng người cũng chưa bao giờ xui con người làm những việc tồi tệ, ám muội. Liệu trong việc này Tư Diệc có được cứu rỗi? Tư Diệc rất rộng rãi trong chuyện chi tiền và biết vung tiền. Chị ta chả giấu giếm gì việc đóng góp nên thường bô bô việc đó trước mọi người. Cũng tiện thể khoe khoang những thứ mình đã làm nữa. Chị ta bảo chị ta có như thế đấy nhưng còn hơn khối đứa nói nhiều làm ít hoặc không làm mà chỉ nói. Quả Tư Diệc có huênh hoang trong chuyện đóng góp này nọ nhưng đúng là như thế. Lần nào cũng vậy, khi hiến cái nọ, công đức cái kia bao giờ Tư Diệc cũng lên giọng theo cách nói của người có công. Sòng phẳng và thô kệch của loại người mà chữ nghĩa ít hơn mẹo sống vặt. Chị ta thường nói:

- Của có đáng là bao đâu ạ, thưa các vị. Mình kiếm được, lại một thân một bóng chả đem công đức bớt đi cho có phước còn giữ làm gì. Để lâu có khi vàng nó cũng mọt huống chi là mấy đồng tiền giấy. Đứa nào lắm vàng, lắm bạc lại không phải của mình làm ra có giữ lâu rồi cũng có lúc trời đất đòi đi cả. Khi ấy thì chỉ có xuống địa ngục mà gào mà thét. Còn tôi ư? Tiền mồ hôi nước mắt của thân này cả đấy. Nhưng giữ trong nhà lâu để cho cái lũ đĩ đực tham ô gái có hạng nó dỗ ngon dỗ ngọt, nó moi hết à? Tiền cho trai mới là tiền mất trộm. Tiền công đức cho nơi nọ nơi kia, cho dù khi ít khi nhiều nhưng thành tâm mới là tiền lãi ròng.

Trò chơi công đức ấy là của đứa trăm thằng vậy mà khối kẻ nhẹ dạ vẫn cho là được, là có tấm lòng. Phẩm hạnh của nó có vấn đề đấy nhưng sự hảo tâm vị tha là chấp nhận được. Cũng không hiếm người thẳng tính cho đó trò chơi từ thiện của một con điếm phù thuỷ muốn tự đánh bóng mình, muốn làm sang cho mình bằng những đồng tiền kiếm được không một chút sạch sẽ. Phải chăng đây là sự nặng lời của dư luận trước những trò rối cạn loè loẹt của kẻ háo danh ít học. Đời người ta cũng phải biết lắng nghe những lời sau mình. Điều này liệu Tư Diệc có có?