Ông Đinh Hùng Dũng là con dân của làng Phẩm - kẻ Phẩm.
Ông đang ngồi uống nước cùng với một số bậc cao niên khác cùng xóm. Họ không phải người dửng dưng nhưng có vẻ bình tĩnh hơn trước vụ việc nên ngồi trong quán nước bà cụ Tũm chuyện trò to nhỏ và cùng nghe ông Đinh Hùng Dũng bàn thế sự đông tây kim cổ. Cả sự góp tiếng góp lời của họ nữa.
Hôm nay có nhiều phần rôm rả hơn là những chuyện có liên quan đến gia đình bà Tống Thệp.
Thường mọi khi ông Hùng Dũng hay đọc cho mọi người nghe những sáng tác mới của mình.
Hôm nay chỉ thấy ông gật gù.
Thỉnh thoảng ông lại nhìn mọi người hỏi câu nọ câu kia rồi cùng họ đối đáp cho đến cùng kỳ lý mới thôi.
Mọi người ở đây đều là dân làng Phẩm cả nhưng đủ các thành phần. Cán bộ về hưu có. Bộ đội xuất ngũ nhiều. Người cày ruộng có học không thiếu. Cả những vị về mất sức lĩnh cục lương to tướng trước khi rời nhiệm sở. Cũng có người trẻ đang tuổi ăn,tuổi làm, tuổi học nữa...
Họ bây giờ đều là dân ngồi phệt. Họ tự hào cho mình là những thảo dân yêu nước và yêu làng Phẩm như nhau.
Đây là sự tụ lại của mười phương thiên hạ trong một phương làng.
Cho nên chả cái gì mà các thảo dân này không biết, chả cái gì mà các thảo dân này không dám bàn.
Một ông tóc bạc khơi mào:
- Các vị có thấy Trời có mắt không?
Một người khác không trả lời mà bàn ngay:
- Tôi thấy nhân dân mình cũng có mắt như Trời. Dân vi bản mà. Có khi còn tinh hơn Trời nữa. Trời ở xa. Dân ở gần mà.
Một ông vẻ nhút nhát nhăn mặt:
- Hỗn nào. Ông không sợ Trời của, Trời phạt cho à?
Ông kia cười to:
- Trời càng thương hơn thì có. Các cụ mình chả thường nói Vua là con Trời, dưới Vua là có Quan, Quan là cha mẹ dân nên Trời là ông bà cụ kị của dân. Ông bà cụ kị không thương con cháu thì thương ai? Mà con cháu thường trẻ trung hơn nên tinh ý hơn là cái chắc. Nghiệm mình ra tôi cũng thấy thế. Con hơn cha nhà có phúc mà. Mấy thằng mấy con nhà tôi đứa nào cũng đáo để hơn bố mẹ.
Một ông khác nói chen ngang như là không hợp chủ đề lắm:
- Lại lôi gia đình vào rồi. Chưa đã thời gian để khoe à? Già với trẻ. Nhức hết cả đầu. Chả ai như một số lão ở cơ quan cũ của tôi ăn hết cả lộc con, lộc cháu, biến báo năm sinh tháng đẻ khai gian tuổi cứ như chả bao giờ có tuổi già. Có vị còn không kịp lĩnh sổ đã có tin buồn rồi. Măm nhiều quá nên tắc tử vì bội thực mà. Còn lứa con lứa cháu đến lúc chúng nó được ít của rơi của vãi thì lại vào tuổi tổ chức cơ quan cho về hưu mẹ nó rồi. Già đấy. Trẻ đấy. Các vị nghĩ xem thế có trớ trêu không?
- Ôi chuyện thiên hạ con cà con kê...
- Ô hay chuyện của tôi...
- Đang chuyện về cái nhà kia kia mà. Ông lạc đề bỏ mẹ. Hôm nay có khác gì đấu địa chủ ngày trước không?
Mọi người lặng chốc lát như để lấy lại hơi nóng của câu chuyện thời sự chính đang diễn ra.
Một người bắn phát súng đầu tiên bằng câu hỏi liền đó là trả lời luôn:
- Nhưng nhà này đâu đã lên lão. Còn lâu nhá...
- Đó là nói chung vậy. Còn nói riêng ý à...!
Mọi người hướng về phía nhà Tống Thệp lắc đầu như thể hiện sự khinh bạc xen lẫn bất lực của mình.
Ông Đinh Hùng Dũng rung rung cằm:
- Đúng vậy. Cứ nhìn nhà Tống Thệp suy ra sẽ thấy. Khởi đầu họ cũng chân lấm tay bùn như mình. Mới ra làm cán bộ được mươi mười lăm năm mà so với mình đã một trời một vực. Thử hỏi cái một trời một vực ấy ở đâu ra. Nhìn vào đồng lương nhà nước trả cho có khi không có được bữa cơm no như người nông dân. Có anh ngày xưa đi làm cơ quan thứ bảy còn về xin gạo vợ sáng thứ hai cho lên xe đạp đèo đi. Tôi đây này là một ví dụ sinh động. Cả ông, ông... ông nữa...! Tàm tạm đủ ăn đã là mừng rồi lấy đâu mà dư dật.
Vậy mà...
Ông Hùng Dũng khoát tay nói tiếp:
- Cả cái làng Phẩm này có nhà ai như nhà cái lão Tống Thệp ấy không? Nhà thật cao, cửa thật rộng. Ao trước, vườn sau. Vườn đất của một nhà mà như bao nhiêu nhà gom lại. Động đến đâu cũng chỉ thấy tiền là tiền. Vậy tiền ấy từ đâu ra, của ấy từ đâu ra. Họ xuất thân cũng bùn đất như mình, cũng cổ cày vai bừa như mình. Lại không đi đánh giặc nhiều như mình, thương tật như mình. Chưa một lần đổ máu nhá. Mồ hôi thì có đấy nhưng tôi xin cam đoan với các vị là không nhiều bằng một thằng bé con đi nhặt lá khô đâu chứ chưa nói gì đến ông đi cấy, bà đi cày.
“Lạ.
Lạ lắm.
Ngỡ như chả có gì mà lại có tất cả.
Ngỡ như có tất cả mà lại chẳng có gì.
Ma quái chưa?
Phù thủy chưa?
Lạ!”
Ông Đinh Hùng Dũng cứ chậm rãi như thế, từng câu, từng đoạn như đọc thơ ở hội trường. Câu chữ được ông nhấn lên nhấn xuống. Cả những đoạn lặng. Người nói, người nghe như cùng nhấm nháp một thứ nước đắng mặc dù cái bát họ đang xoay xoay trong lòng tay là bát nước chè hãm xanh thơm, ngọt đậm món đồ uống dân dã nổi tiếng làng Phẩm của quán bà cụ Tũm.
Ông Đinh Hùng Dũng bỗng nhiên ôm chặt bát nước trong tay như muốn bóp vụn nó ra rồi ngước mắt nhìn mọi người như muốn hỏi rồi lại tự trả lời.
Ông nói tiếp suy nghĩ của mình. Ông như muốn dằn từng câu xuống mặt cái bàn gỗ để lâu đã cáu bẩn của quán hàng:
- Hết Thương nghiệp lại sang Tài chính. Lãnh đạo lương thực a. Tham gia cơ quan quản lý nhà đất ư. Hình như còn làm chủ dự án này, dự án nọ. Cha này chả chỗ nào không táp vô, chả chỗ nào không có mặt. Tuần chay nào cũng thấy lão có nước mắt. Cái đầu lão nhẵn thín, cái gối lão trơn tuột. Người lão dẻo quẹo nên chui vào đâu cũng lọt, leo chỗ nào cũng qua. Giờ này thì... hãy chờ đấy mà ăn đòn. Đèn xanh sắp bật rồi các vị ạ. Phép nước kỷ cương đang được chắp cánh.
Ông Hùng Dũng nắm chặt tay dứ dứ:
- Hãy đợi đấy. Chẳng ai buông tha cho cái loại suốt ngày chỉ biết đục khoét ấy đâu. Bọn này không giơ tay hô đả đảo thì giơ tay đả đảo bọn nào hở những ông bà thuộc loài động vật có xương sống cứng cổ này?
Ông Đinh Hùng Dũng nhìn khắp mọi người.
- Bác hỏi ai ạ?
Có người nói lại.
- Tất cả mọi người ở đây.
Ông Hùng Dũng nhìn ra ngoài, nơi mọi người đang xúm đông xúm đỏ ở phía nhà bà Tống Thệp, bâng quơ nói:
- Nhìn họ kia kìa.
- Sao ạ?
- Rồi khác biết.
Bà cụ Tũm hàng nước từ nãy chỉ nghe giờ thêm câu:
- Người ta đi cứ như đi xem đấu địa chủ ngày tôi còn con gái ấy.
- Thế ngày ấy cụ có phải hô đả đảo không?
- Có chứ. Không biết hô đả đảo thì làm sao nói là biết đi đấu địa chủ được. Đi từ sáng sớm tinh mơ kia. Cốt cán đi trước bần cố nông theo sau. Các ông ấy giơ tay chúng tôi giơ theo. Thằng địa chủ, con địa chủ sợ cứ rúm ró hết cả người lại.
Một người hơi trẻ chặc chặc lưỡi:
- Ghê quá cụ nhỉ. Cháu nghe bảo long trời lở đất nữa kia. Mà nghe nói hồi ấy cụ định lấy một anh đội rồi đi thoát ly phải không?
Bà cụ Tũm cười phơ phớ:
- Lấy cái phải gió, thoát ly cái phải gió. Cũng có chuyện. Anh ấy cũng định bắt rễ nhưng rễ không thành. Cũng là tại tôi. Mình là con bé cố nông học mới qua lớp i tờ được đội bắt rễ là vinh dự lắm nhưng sau mới biết mình chỉ là cái rễ phụ, rễ bé. Người ta vợ con đuề huề rồi. Thế là lủi, thế là trốn. Khổ... cứ như chuột trốn mèo ấy. Còn anh đội sau đó thì cứ săn đuổi mãi, nằn nì mãi. May mà có ông ở trên về lên tiếng doạ khai trừ, doạ kỷ luật anh đội ấy mới thôi.
- Ngày ấy rễ đã sâu lắm chưa hử cụ?
Biết là bị hỏi trêu nhưng bà cụ Tũm vẫn thành thực nói:
- Sâu cái phải gió. Nếu thế thì... thầy bu tôi đã gọt đầu cho trôi sông từ lâu rồi. Mình muốn có chồng nên phải giữ cái giá của mình chứ.
- Vậy mà bây giờ nghe cứ như chuyện ngày xưa ấy cụ nhỉ?
- Xưa cái con khỉ. Đời tôi đấy thôi. Chỉ khác cái là ngày ấy tôi còn con gái chưa chồng. Bây giờ thì sắp có cháu gọi bằng cụ rồi.
Nhiều tiếng cười rộ lên.
- Vậy mà vẫn để cho người ta xẻo mất gần nửa sào đất để cho biệt thự của họ nó vuông vức lại.
- Dào ồi. Kể gì cái chuyện bắt nạt con mẹ mù chữ làm gì. Họ đưa đủ giấy tờ ra để nói là đúng thế nọ sai thế kia rồi doạ mình đấy là đất sản xuất không phải đất thổ cư thế là mình thua. Vậy mà chỉ dăm bảy tháng sau đã thành đất của nhà ông Tống Thệp rồi. Cứ như bây giờ í à...
- Cụ ơi, giờ có hẳn luật sư bảo vệ cho người nghèo rồi.
- Luật sư là cái gì?
- Ngày xưa gọi là thầy cãi ý mà.
- Hồi phong kiến đế quốc ý à.
- Vâng.
- Giờ đâu phải thời phong kiến đế quốc.
- Nhưng xã hội tiến bộ lên rồi. Mà muốn tiến bộ thì phải có người biết cãi cho lẽ phải, cho những ai oan ức.
- Thật hả?
- Tôi dối cụ tôi không bằng cháu cụ.
- Thế thì... mà thôi. Lâu rồi sợ cứt trâu hóa bùn. Chuyện từ hồi nảo hồi nao kia mà. Tôi bảo con cháu là không thèm chấp. Giàu nghèo gì tí đất ấy. Mình cứ ăn hiền ở lành trời Phật sẽ phù hộ cho.
- Cụ cứ nhờ người làm đơn đi. Đừng sợ.
- Chả dại. Được chả được có khi lại mất thêm thì lấy đâu chỗ trồng rau trồng cỏ cho con cháu nó ăn.
- Vía dám cụ ạ. Giờ nhà nước đã ra roi mạnh rồi.
- Thôi. Cho tôi xin. Vô phúc đáo tụng đình.
Bà cụ Tũm thở dài rồi nói như thể nói cho riêng mình nghe:
- Cứ như ngày xưa ấy. Mọi người vừa đi vừa hô theo anh đội, có khổ nói khổ nông dân vùng lên. Rồi thì địa chủ cường hào đào tận gốc trốc tận rễ. Thằng địa chủ bị trói vào thân cây tre hai bên có hai chiến sĩ dân quân đứng gác. Mặt nó tái như gà vừa bị cắt tiết ấy. Ông toà nói câu nào dạ câu ấy, hỏi câu nào vâng liền ngay tù tì cứ tăm tắp như con rối. Bà con nông dân mình anh đội chưa hô mọi người vẫn giơ tay đả đảo hay đáo để.
Bà cụ Tũm ngừng lời chốc lát rồi nói tiếp:
- Bây giờ nghe nói có đứa còn giàu có còn ác độc hơn cả thằng địa chủ xưa nhiều, vậy mà...
- Cụ nói đúng đấy. Nhỡn tiền kia kìa. Không bòn rút bóc lột thì lấy đâu ra toà ngang dãy dọc.
- Còn ăn bậy chơi bậy nữa chứ.
- Thật à?
- Ai nói.
- Vỉa hè nói chứ ai nói. Có vậy mới có khẩu hiệu kẻ lên tường nhà chứ.
- Tôi không tin. Mà be bé cái miệng đấy.
- Cứ to đấy làm được gì nhau nào.
- Nhưng phải cụ thể, phải nói có sách mách có chứng chứ?
- Không tin thì xin mời lê la ở mấy cái quán nước trên phố xem người ta nói gì về cái thằng cường hào mới ấy.
- Cũng phải. Không có lửa làm gì có khói...
Im lặng chốc lát.
Một người vẻ trầm ngâm cất lời:
- Cũng lạ. Lại táo tợn nữa. Nhà nước chưa kết luận nó là cường hào mà đã có người dám viết khẩu hiệu lên tường rồi. Dân làng Phẩm mình kinh thật. Đi trước cả lãnh đạo, đi trước cả chủ trương. Bác Dũng có biết là ai không? Các bác?
Ông Đinh Hùng Dũng kha khá cười:
- Ai mà chả được. Dân vạn đại mà. Xuất quỷ nhập thần. Cái giỏi là ở chỗ ấy đấy. Nhân dân như thánh. Đã là thánh thì có gì mà không biết, không tỏ? Cứ ngồi đợi đến ngày công an dẫn hắn ra toà mới làm thì là muộn nếu không muốn nói là quá muộn. Để đến như thế mới ra tay còn gì là con dân làng Phẩm nữa...! Ha... ha...! Hả lắm, hả lắm các vị ạ!
Ông Đinh Hùng Dũng cười rất to.
Ông nhìn khắp lượt mọi người tìm sự hưởng ứng rồi nói tiếp:
- Cụ Tũm và các vị ạ, rồi có ngày chúng ta cũng sẽ được xem toà án xử tội bọn cường hào mới này thôi. Tôi tin lắm. Đất nước mình hôm nay đã khác nhiều rồi. Nhà nước và chính phủ đã tuyên chiến với tham nhũng. Bao nhiêu việc các ông ấy đã làm và làm được. Đến ngồi ghế cao ngất ngưởng mà có tội đi tù vẫn phải đi tù. Tôi tin là như vậy. Luật có nghiêm thì nước mới thịnh, luật mà hỗn thì dân loạn. Dân mà loạn thì các vị biết đấy...! Bao nhiêu là máu xương nước mắt mới có được như ngày hôm nay. Ai cũng sợ cốt nhục tương tàn. Đau lắm. Nhiều khi không cầm nổi nước mắt.
Khuôn mặt và tiếng cười của ông Hùng Dũng đang hào hển, mãn nguyện bỗng nhiên như có nước mắt pha vào.
Ông nhìn mọi người rồi quay nhìn về phía ngôi nhà có dòng khẩu hiệu Đả đảo bọn tham nhũng với một cái nhìn sắc nhọn.
Ngôi nhà của vợ chồng ông Tống Thệp như là tòng phạm của một con người tội ác mà ông căm ghét và nhiều người căm ghét.
Có cảm giác lông mày của ông Đinh Hùng Dũng dựng lên như lông nhím trong một cái nhìn nhiều ẩn ý bén ngọt như tia la de.
Có mặt người máu cá
Nụ cười tanh...
Có mặt người không máu cá
Sao nụ cười cũng tanh?
Sao nụ cười lại tanh?
Đó là khuôn mặt của ông Tống Thệp mà ông Đinh Hùng Dũng đã gặp hôm ông ấy về làng họp cùng các cựu chiến binh.
Khuôn mặt mà nếu chỉ nhìn vào đấy ta không thể thấy, không thể hiểu.
Khuôn mặt ấy đã vào thơ của ông nhà thơ làng Phẩm người cũng từng đi đánh giặc như những người khác và cũng từng như người bạn kia trong một buổi gặp mặt cựu chiến binh...
Hôm ấy ông Tống Thệp nói nhiều về tình đồng đội trong chiến đấu và muốn chia sẻ với anh em trong những ngày hoà bình còn khó khăn.
Ông Tống Thệp còn tặng tiền để chủ tịch hội cựu chiến binh xã mua một con cầy tơ về chiêu đãi mọi người.
Đang bữa liên hoan vui thì có một người làng tập tễnh đi đến.
Ông này cũng là cựu chiến binh của làng. Ông từng là cán bộ dưới quyền ông Tống Thệp nhưng được cơ quan cho nghỉ sớm vì lý do sức khoẻ và thương tật. Cơ quan còn trích quỹ đời sống tặng người nghỉ sớm một số tiền làm vốn nữa.
Ai cũng tin là như thế và cho rằng ông Tống Thệp xử lý với đồng đội vậy là có tình, có lý, có trước, có sau.
Chẳng gì họ cũng đã có thời vào sinh ra tử với làng với nước và với nhau cho dù mỗi người một mặt trận.
Ông Tống Thệp là lính đi B dài còn ông kia là lính pháo ở miền Trung.
Hôn nay người thương binh ấy đến muộn. Quá muộn là đằng khác.
Ai cũng nghĩ là ông có việc cần nên mới đến muộn như thế.
Không phải lý do ấy. Trước những người từng cầm súng của làng Phẩm người ấy vừa khóc vừa nói:
- Tôi xin cáo lỗi với anh em. Tôi đến muộn không phải vì chuyện gì mà là vì không muốn đến sớm để phải nhìn ông Tống Thệp cười, nghe ông Tống Thệp nói và ăn miếng thịt chó ông ấy chiêu đãi. Có nghe cũng không vào, có ăn cũng không làm sao nuốt nổi. Lý do là như vậy. Giờ tôi xin phép...
Mọi người ngơ ngác.
Ông Tống Thệp tái mặt.
Sau đó hỏi ra ông Đinh Hùng Dũng mới biết lý do người thương binh kia phải thôi việc sớm vì giữa ông và ông Tống Thệp có chuyện.
Đúng ra là ông Tống Thệp không muốn người đồng đội, người đồng hương ấy có mặt ở cơ quan mình với cái tính “hơi tí thì góp ý” và hơi tí thì “bới móc, đơn từ”.
Thì ra là vậy.
Ông Tống Thệp không muốn có một người trung thực sống bên mình.
Ông Đinh Hùng Dũng đã buồn mất mấy ngày và làm ra hai câu thơ ấy. Giờ nhìn ngôi nhà tòng phạm kia ông lại nhớ về chủ nó và nhớ về câu thơ ông đã từng viết và từng tiên đoán.