Sau đêm mơ gặp ông giáo sư, Vừu chờ đợi giấc mơ đó trở lại. Ông chỉ cho hắn những điều hắn cần phải làm. Dù rằng, đã cố ý đặt tay lên ngực để mơ nhưng ông già không trở lại. Điều đó làm hắn chờ đợi cả ngày mai, ngày kia, những ngày sắp tới…
Tôi cũng mong mình may mắn gặp một người như thế, hoặc tương tự vậy. Những giấc mơ không đến khi ý thức chờ đợi nó.
- Ông có nghĩ đến sự tự do trong sáng tác không? - Vừu hỏi, vẻ tần ngần.
Tôi xua một con muỗi bay ngang qua mặt. Một bác sĩ có cái áo nhàu nhĩ vừa đi qua ngoài cửa, rất nhanh. Ông ta vấp vào chiếc xe chở thuốc của cô y tá, quát nhặng xị.
- Có, nhưng có phải chúng ta đang mất tự do đâu.
- Trước đây nền văn học đã không được tự do. Nó chịu sự chi phối của cái gọi là văn hoá chủ nghĩa nhất nguyên. Người ta o ép nó. Giờ khác rồi, cởi mở hơn, rộng lượng hơn, nhưng sự trì trệ còi cọc vẫn không tránh khỏi. Những người ra nước ngoài sáng tác cũng không hơn gì. Họ quá tự do ấy chứ. Như vậy, ý kiến tài năng và sự tự do quyết định đến tác phẩm, chỉ còn một vế là tài năng thôi. Có tài lo gì không làm được việc lớn. Các thầy, các nhà phê bình đến dạy lớp viết văn vẫn khuyên họ nên đọc, đọc nhiều vào, phải rèn cái phông văn hoá nữa. Tầm tư tưởng triết học, vốn sống, tích luỹ và tài năng chuyển tải.
- Vậy chỉ còn vấn đề học vấn của nhà văn. - tôi nói - có nghĩa là cái tài. Nhà văn chúng ta nói khó nghe là thiếu tài, tránh đi là thiếu nội lực. Còn thiếu hụt triết học nữa.
- Đúng. Một lần trong đời được đặt chân đến Pháp là một lần tôi nhận ra sự nhỏ bé của mình. Cảm giác sao mà thèm. Một thằng nghèo kiết xác như tôi mà được đến Pháp coi như chết cũng được rồi. Biết bao giờ chúng ta theo kịp họ.
Một tiếng thở hắt chen ngang tâm trạng, Vừu ngáp dài, cái ngáp ám ảnh tôi hơn chục năm qua.
Tôi đứng lên, định nói gì đó với Vừu, nhưng lại quên khuấy. Cuối cùng vẫn còn một câu:
- Này, ông hãy chờ ông giáo sư kia trong giấc mơ nhé. Phải hỏi ông ta con đường của cả văn chương thế giới nữa, biết đâu ông ta rõ.
Tôi khoanh tay ra ngoài sân, chẳng chờ đợi gì. Nhưng thật may Gáo lại đến. Tôi nói, Gáo ở lại trò chuyện với Vừu, còn mình về toà soạn có chút việc. Chiều cả ba lại gặp nhau trong viện. Những người trong phòng đôi khi tỏ ý khó chịu, nhưng đôi lúc Gáo có cái giọng đểu đểu làm họ sợ. Còn phần lớn họ cười.
Sau khi tiêm, Gáo chuốc cho Vừu một hộp sữa giấy loại cô gái Hà Lan, có cái hình xanh thẫm duyên dáng xách xô. Gáo ngả ngớn cười pha trò. Đêm, tôi và Gáo lang thang bằng xe máy lên bờ hồ, vòng lên đường Thanh Niên, qua Hồ Tây, chẳng để làm gì. Gió lạnh hào phóng rúc vào người, cào vào da thịt. Cuối cùng dừng ở một quán thịt chó Nhật Tân, đoạn này rất xa chỗ Vừu đang điều trị.
Đến nơi, vô tình gặp Thái ở đó tu rượu một mình. Thái bảo có gọi bạn nhưng bị cho “leo cây”, mà mấy món thịt chó thì đã gọi rồi. Đành ngồi “xử” một mình. Tôi thấy Thái chảy dài nỗi buồn. Nỗi buồn hiện lên trên mắt. Qua đôi mắt, tôi đọc được anh đã cho mình nốc rượu cả tuần. Đây là những giây phút yếu đuối nhất của Thái.
- Con Minh nhà tôi nhờ mấy ông mà làm thơ hay lên một bậc. Tôi từng đọc mấy bài nó ghi ở sổ tay để đầu giường, tất nhiên nó không biết - Thái nói - may cho con bé, nó biết làm thơ. Cứ như người viết văn xuôi các ông lại thanh thản…
Thái dừng câu nói ở đó, tôi không biết Thái định nói đó là sự thanh thản gì, và chúng tôi có thực sự sướng hơn hắn không. Tôi nói rằng mỗi cuộc đời con người gắn với nỗi lo khác nhau. Sau vài chén rượu mềm môi, Thái uống mạnh hơn nhiệt tình trút bầu tâm sự. Sự đắng đót thi thoảng lại nổi trên khuôn mặt bừng đỏ. Điều đó càng khiến tôi khẳng định: vợ chồng Thái bước vào tiểu thuyết của tôi là thực sự hợp lý. Lúc này, tôi được bổ sung thêm sự sinh động cho những con chữ và sức tưởng tượng của mình.
Bữa đó, cả ba “quắc cần câu”. Thái loạng choạng vẫy tắc xi, như từng loạng choạng trong một tác phẩm trước đây của tôi.