• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bất cứ điều gi em muốn
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 13
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 13
  • Sau

Chương 3

Sau khi Mitch đã ra về cùng với mấy cuốn nhật ký và gói thức ăn, Mae ngả người ra ghế và cân nhắc lại tình thế của mình. Rõ là Mitch sắp sửa quấy rối tất cả mọi người ở Riverbend rồi đấy; chắc anh sẽ làm thế trong nhiều năm trời. Nếu cô có thể giữ cho anh chỉ tập trung vào những cuốn nhật ký, anh có thể dễ dàng làm cho ai đó đang giữ cuốn nhật ký bị mất phải giao nộp lại và có lẽ là nhiễm thói rượu chè be bét luôn thể. Và vào lúc này việc giữ anh chuyên tâm biết đâu sẽ dễ dàng hơn khi mà trên thực tế, anh đã nắm giữ vài cuốn nhật ký trong tay…

Điều đó làm cô nghĩ đến đôi tay của anh. Trong tất cả những lần mà hoóc môn của cô bị kích thích, đây là lần tệ nhất, nhưng biết làm sao được. Kể từ khi gặp anh, cô cứ có cái cảm giác rân rân dưới da mà trong một thời gian rất lâu rồi cô không cảm thấy. Đó là một cảm giác thật dễ chịu, nhưng lại không hề dễ chịu chút nào khi nó liên quan đến Mitchell Peatwick. Anh thật ngạo mạn và cứng đầu, còn mặt mũi anh thì trông giống như cái găng tay của một cầu thủ bắt bóng vậy. Và cô tuyệt đối sẽ không để mình dính dáng đến một gã đàn ông không chịu nghe cô nói; trong đời cô đã có đủ những người đàn ông chẳng hề biết lắng nghe.

Một khi đã lấy lại được sự kiểm soát trước tình hình trên, Mae lững thững quay vào bếp và ngồi xuống để tháo đôi giày cao gót mà cô đã mượn June ra.

“Cám ơn bà,” cô nói và đưa trả đôi giày. “Thứ này đúng là cực hình.”

“Tội nghiệp cháu yêu.” June đặt đôi giày lên quầy. “Cháu có muốn một chậu nước muối Epsom không?”

“Không ạ.” Mae xoa xoa một bàn chân đỏ ửng. “Cháu muốn có tiền để chúng ta có thể chuyển đến một nơi tốt hơn cái lăng tẩm này và sống như như những người bình thường, và bà sẽ không bao giờ phải lo lắng về tương lai nữa. Chuyện này đang làm cháu phát điên lên.”

“Hôm nay ta đã lau dọn phòng của Armand”. June nói, “Bức tranh người đàn bà khoả thân đó đã biến mất.”

Mae dừng xoa chân. “Bức Lempicka à? Nó biến mất bao lâu rồi?”

“Ta không biết.” June ngồi thụp xuống chiếc ghế ở cuối bàn. “Ta nghĩ nó vẫn ở đó vào thứ Tư tuần trước khi ta dọn phòng, nhưng ta không chắc lắm. Ta ghét căn phòng quái quỷ đó.”

“Cháu biết. Bà đừng lo về chuyện đó nữa. Chúng ta sẽ được nhận thừa kế và rời khỏi đây nhanh thôi, và bà sẽ không bao giờ phải nhìn thấy nơi này lần nữa.” Mae nắm lấy tay June và siết thật chặt cho đến khi người phụ nữ lớn tuổi mỉm cười và thư giãn trở lại. Rồi Mae quay trở lại với vấn đề trước mắt. “Có thể ông ta đã bán bức tranh.”

“Ta không thích chuyện này.” Vẻ mặt thả lỏng hài lòng của June chuyển sang dữ dằn. “Ông ta chưa bao giờ buông tay khỏi bất cứ thứ gì, và rồi đột nhiên tất cả mọi thứ bắt đầu biến mất. Có điều gì đó thực sự không ổn ở đây.”

Mae gật đầu. “Cho dù là chuyện gì thì nó cũng sẽ có trong cuốn nhật ký. Hôm đó trên điện thoại ông ấy đã nói, ‘Họ không thể lấy tiền mà không có cuốn nhật ký’. Chúng ta cần cuốn nhật ký đó.”

“Chà, có lẽ tay thám tử của cháu sẽ tìm thấy nó cho chúng ta. Cậu ta có vẻ khá dễ thương.” Giọng June dịu hẳn đi. “Nếu không phải vì Harold, ta sẽ có hứng thú lắm đấy.”

Mae cười toe âu yếm với bà . “Cháu nghĩ anh ta cũng cảm thấy tương tự. Anh ta nhìn bà với vẻ ái mộ dâng trào.”

June vỗ tay. “Ồ, cậu ta chỉ là dò xét thôi.” Bà ngả người ra ghế. “Cháu nghĩ sao về cậu ta?”

“Chà, cháu đã nghĩ là anh ta ngờ nghệch.” Mae cố làm ra vẻ không có hứng thú. “Nhưng cháu không chắc lắm. Cháu nghĩ anh ta đúng là có chút khác biệt.”

“Khác biệt thế nào?” June giục.

Mae nhún vai. “Ồ, anh ta không hành động kiểu quân tử hay muốn bảo vệ hay cuốn hút hay bất kỳ thái độ rác rưởi thông thường nào. Anh ta chỉ đưa ra các câu hỏi và nhìn xuống áo khoác của cháu và đối xử với cháu như… bất cứ ai.” Cô lại xoa bàn chân. “Anh ta rất thẳng thắn về việc mình là một kẻ thất thế.”

June quan sát Mae qua hàng mi. “Ta không nghĩ cậu ta là kẻ thất thế đâu. Và ta không cho rằng cậu ta nghĩ cháu là một ai đó bất kỳ. Cậu ta có vẻ khá có hứng thú với cháu.”

“Anh ta chỉ thích phụ nữ chung chung thôi.” Mae ngồi thẳng lại. “Và càng nghĩ về chuyện đó, cháu lại càng không cho là anh ta ngờ nghệch như cháu đã tưởng.”

“Ta không hề cho là cậu ta ngờ nghệch chút nào đâu.” June mỉm cười. “Ta nghĩ cậu ta sẽ ngoan thôi. Có lẽ chúng ta nên nói cho cậu ta biết sự thật và để cậu ta xử lý mọi chuyện.”

“Không.” Giọng Mae kiên quyết. “Để đàn ông xử lý mọi chuyện nghĩa là kết cục ta sẽ chẳng có gì trong tay cả. Hơn nữa, lẽ ra bà nên nhìn thấy anh ta cu xử thế nào lúc ở nhà ông Gio. Carlo rút súng ra, và anh ta núp ngay sau lưng cháu.”

“Anh chàng thông minh.” June gật đầu tán thành. “Và rất hấp dẫn.”

“Ôi, cháu xin bà đấy.”

“Ta nghiêm túc đấy.” June chồm về trước. “Vấn đề của cháu là cháu đã luôn dính vào những anh chàng đẹp mã. Carlo và gã Dalton bỏ đi đó. Nào, Mitchell Peatwick tuy không ưa nhìn lắm, nhưng cậu ta…” Bà ngưng lại, rõ ràng là đang tìm một từ hợp lý.

“Trần tục?” Mae gợi ý.

“Phàm là con người thì đều thế,” June nói, và Mae rên lên. “Nghe này cháu yêu, ta thấu hiểu bọn đàn ông lắm đấy. Và ta cá với cháu rằng Mitchell Peatwick sẽ làm cho cháu sướng điên lên trên giường.”

Mae nhắm mắt lại chặn ngang cái ý nghĩ đó, nhưng trong tâm trí cô vẫn lóe lên hình ảnh đôi tay Mitch di chuyển ngang dọc trên tờ giấy ghi chú, hình ảnh cơ thể rắn chắc của anh ở trên người cô lúc anh giật sợi dây an toàn, hình ảnh nụ cười toe toét của anh làm cô rộn ràng cả lên khi anh trêu chọc cô trong thư viện. Rồi cô nghĩ đến cảnh tượng anh nằm trên giường và ngay lập tức át xuống cái cảm giác mà ý nghĩ đó đã khuấy động nên. “Chắc anh ta sẽ quên béng mất là cháu ở đó thôi.” Mae đẩy ghế ra và đứng dậy, tháo chiếc cúc trên cạp váy hồng của June. “Ôi Chúa ơi.” Cô thở hắt ra khi dây khoá tự tuột xuống hông. “Cảm giác thật tuyệt quá.”

June mỉm cười với cô. “Mitchell Peatwick cũng sẽ thế.”

“Một triệu năm nữa cũng không.” Mae nói.

“Chúng ta sẽ chờ xem.” June đáp lời.

Hơi nóng giữa hè tràn ngập trong căn hộ bẩn thỉu của Mitch như một màn sương mù. Anh nằm dài trên chiếc giường kim loại mòn vẹt trong chiếc quần soóc thụng màu trắng, cố gắng để không bị rã ra trong chính đống mồ hôi đang vã như tắm của mình trong lúc đọc cuốn nhật ký năm 1978 của Armand. Văn phong của Armand chẳng thú vị chút nào, nhưng cốt truyện lại khá cuốn hút. Sau khi đã đọc xong hai cuốn viết năm 1967 và 1977, Mitch biết được rằng tìm ra ai đó có động cơ giết Armand chẳng phải là vấn đề. Tìm ra tám người khiêng quan tài sẽ phải tốn thời gian đấy, chứ còn việc khoanh vùng những kẻ có mong muốn giết chết Armand Lewis thì dễ như trở bàn tay.

Có ai đó gõ cửa. Bởi vì toàn bộ căn hộ nhà anh chỉ bao gồm một phòng ở và một phòng tắm, nên Mitch chẳng phải động tay động chân gì sất. “Mời vào,” anh cất tiếng rồi nhìn lên và thấy người bạn thân nhất, đôi khi còn là cộng sự của anh, đang đóng cửa lại sau lưng.

Thân mình được bó chặt một cách gọn gàng và vẻ mặt nghiêm khắc đầy vẻ chê bai, Newton là hình mẫu hoàn hảo của một nhân viên môi giới chứng khoán vừa mới tóm được khách hàng béo bở của mình đang mua những tấm vé số may rủi. Hai hàng chân mày vàng nhạt xếch lên trên vầng trán thông thái cao đến nỗi dường như là vô tận kia, và đôi mắt xanh nhạt của anh thì đang gườm gườm đằng sau đôi kính gọng vàng. “Cậu biết đấy, sống trong khu dân cư này mà không khoá cửa thì chẳng phải ý kiến hay ho gì. Thiếu thực tế quá thể. Liều mạng một cách dại dột. Chẳng có lý do nào biện minh cho chuyện này cả. Vụ cá cược đâu có nói là cậu phải sống túng quẫn thế này đâu.”

“Tớ phải sống bằng lợi nhuận của văn phòng, Newton à. Thỏa thuận thế rồi còn gì.” Mitch liếc nhìn quanh phòng trước khi cười toe với bạn mình. “Cũng chẳng tệ đến thế. Tớ thực sự thích nơi này hơn căn nhà cũ ở đường River. Chỗ này cá tính hơn.” Anh dừng lại một lát, đầy vẻ trầm tư. “Cậu biết đấy, tớ mừng là đã bán ngôi nhà đó. Ít nhất đó cũng là một phần của cuộc sống cũ mà tớ sẽ không phải quay trở lại.”

Hai lỗ mũi của Newton như thở ra lửa khi anh chàng nhìn thấy lớp giấy dán tường loang lổ và lớp gạch lát sàn rạn nứt. “Thế này thì quá lắm rồi.” Rồi anh quay sang săm soi Mitch. “Tôi thấy là cuối cùng cậu cũng đã chịu đi giặt là.”

“Buộc phải thế thôi.” Mitch quay trở lại với cuốn nhật ký. “Có người đã phát hiện ra tôi không mặc đồ lót. Có thức ăn trên bàn đấy.”

“Cậu mà mua đồ ăn chân chính á?” Giọng Newton có vẻ ngờ vực, và Mitch bực bội nhìn lên. Newton đang nhìn chằm chằm với vẻ kinh ngạc vào phần còn lại của gói thức ăn của June trên chiếc bàn lung lay ọp ẹp của Mitch. “Thật kinh ngạc.” Newton cúi cái thân hình gầy còm của mình lại gần bàn hơn, bộ quần áo cắt may đẹp tuyệt của anh chàng thậm chí còn không nhăn nhúm chút nào khi anh di chuyển. “Đây là bánh quy.”

“Ừ.”

Chiếc mũi quý tộc của Newton rung rung như mũi của một con thỏ đỏm dáng. “Tự làm à?”

“Ừ. Có sữa trong tủ lạnh đấy. Ồ, và có cái này nữa.” Mitch thả cuốn nhật ký xuống giường, lăn qua nhặt lấy chiếc quần dưới sàn rồi rút chiếc ví từ túi sau ra.

Newton lấy một chai nhựa đựng sữa trong tủ lạnh ra. “Cậu có mua sữa trong chai loại này đâu. Ai cho cậu thức ăn thế?”

“Cùng một cô nàng đã đưa cho tớ cái này.” Mitch chìa tờ séc của Mae ra.

“Lạy Chúa tôi.” Newton ngã người vào chiếc ghế ăn, một tay cầm chai sữa, tay còn lại cầm tờ séc. “Cậu đã thành công, cậu đã thắng cược.” Anh cười. “Anh bạn Montgomery của chúng ta sẽ không thích thú chút nào đâu.”

“Lẽ ra anh ta không nên cá cược với tớ.” Mitch mỉm cười đáp lại và thấy cảm giác mãn nguyện lan ra khắp người. “Cậu có biết tớ thích nhất phần nào không? Tớ đã làm tất cả bằng cách bắt đầu lại từ đầu với cái tên Mitch Peatwick. Tớ đã thành công mà không hề dùng đến uy tín hay những mối quan hệ của Mitchell Kincaid. Montgomery sẽ ghét phần này lắm đây. Anh ta đã nghĩ rằng điều kiện cá cược đó sẽ ngăn trở được tớ.”

Newton cười toét miệng. “Tớ sẽ nhắc đến điều đó khi gọi cho anh ta vào tối nay.”

“Sao vội thế? Cậu không tình cờ làm một vụ cá cược bên lề đấy chứ?”

“Một vụ ăn theo thôi.” Nụ cười của Newton còn toe toét hơn. “Anh ta đã nói bóng nói gió rằng tớ chẳng bao giờ mạo hiểm cả, và tớ đã để anh ta chủ động vụ cá cược.”

“Ấn tượng đấy.” Giọng Mitch chỉ khẽ cất lên, nhưng anh thực sự chấn động. “Cậu đã mạo hiểm bao nhiêu vào tớ thế?”

“Hai mươi nghìn.”

Nụ cười của Mitch biến mất. “Quên vụ ấn tượng đi. Tớ choáng đấy. Làm thế quái nào cậu lại có thể mạo hiểm nhiều đến thế?”

Newton nháy mắt với anh. “Đó đâu phải mạo hiểm. Tớ đã đặt cược vào cậu đấy chứ.”

Mitch nhắm mắt lại. “Đừng bao giờ đặt cược nhiều thế vào tớ lần nữa. Sẽ ra sao nếu tớ bỏ cuộc?”

Newton lắc đầu, đặt chai sữa xuống bàn và cất tấm séc vào túi. “Tớ sẽ chuyển số tiền này vào tài khoản. Còn về vụ bỏ cuộc, chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.” Anh đứng dậy bước về phía tủ bát và lấy ra một chiếc ly Flintstones, ngắm nghía nó với vẻ nghi ngờ trước khi tráng qua trong bồn rửa rồi quay trở lại bàn để rót sữa ra.

“Thôi được, ít nhất thì lần sau cũng phải nói cho tớ biết.” Mitch ngả đầu tựa vào đầu giường. “Như thế tớ sẽ biết được cái gì đang bị lôi theo mấy cơn bốc đồng của mình.”

Trong giây lát, Newton như thể đắm đuối trong suy tưởng. “Không,” anh kết luận. “Tớ không muốn ảnh hưởng đến tiến trình suy nghĩ của cậu.”

“Newton, tớ gần như chẳng hề có tiến trình suy nghĩ nào cả.”

“Tớ biết.” Newton chăm chú nhìn anh với vẻ kính phục. “Tớ ngưỡng mộ điều đó.”

Mitch đầu hàng. “Dù sao thì trò chơi cũng đã kết thúc. Tớ đã điều hành văn phòng thám tử tư trôi chảy trong một năm trời và tự nuôi sống mình bằng lợi nhuận kiếm được từ đó, cậu có tiền của cậu, còn tớ sẽ lột Montgomery mười nghìn. Giờ tất cả chúng ta có thể quay lại với cuộc sống thực được rồi.” Ánh mắt của Mitch đáp xuống cuốn nhật ký. “Ngay khi tớ giải quyết xong vụ cuối cùng này.”

Newton khựng lại, chiếc bánh quy đang nửa đường lên miệng. “Cậu sẽ rời bỏ văn phòng à?”

Mitch gật đầu với vẻ thấu hiểu. “Tớ biết. Bản thân tớ cũng không thích thú lắm với việc quay lại làm một tay môi giới chứng khoán đầy hoài bão, nhưng tớ phải nói với cậu, Newton à, làm thám tử tư thật chó má. Cậu sẽ trở nên căm ghét mọi người.”

Mặt Newton xịu xuống. “Không có Brigid O’Shaughnessy nào à?”

“Chà, gần như thế.” Mitch nhớ lại cảnh tượng Mae bước vào văn phòng. “Cậu nên gặp Mabel.”

“Mabel?” Newton cắn miếng bánh quy. “Nghe như một cô hầu bàn[7] ấy nhỉ.” Rồi nét mặt của anh giãn ra. “Ngon tuyệt cú mèo. Thế mới là hưởng lạc thật sự chứ.” Anh không ngừng nhai một cách từng tốn, rõ là đang thưởng thức hương vị của món bánh quy như thể đó là một loại rượu vang tuyệt hảo nào đó.

[7] Hầu bàn: nguyên văn là barmaid, cách đọc giống như đọc lái từ Mabel.

“June làm đấy. Bà ấy là quản gia kiêm đầu bếp của Mabel.”

“Kể hết tớ nghe xem nào.” Newton cắn thêm một miếng nữa.

“Sáng nay, một cô nàng cực kỳ hấp dẫn với bộ ngực như mơ bước vào văn phòng và thuê tớ tìm kẻ đã giết ông bác bảy mươi sáu tuổi của cô ta. Sau đó, mọi việc cứ xuống dốc không phanh.”

Newton nhai miếng bánh quy lần thứ ba mươi và nuốt ực xuống. “Giết người à? Nghe cường điệu quá nhỉ. Ông bác đó là ai?”

“Armand Lewis. Với tớ lúc đầu chuyện này có vẻ cũng phóng đại thật, nhưng giờ thì tớ không biết nữa. Ông ta viết nhật ký, và Newton này, có vài thứ rất hay ho trong đó.”

“Armand Lewis.” Newton cau mày. “Ông ta có tiếng là bấp bênh đấy.”

“Đã từng thôi. Ông ta chết rồi. Ý cậu là gì, bấp bênh á?”

“Người ta có xu hướng mất tiền nếu dính dáng đến ông ta. Cậu có thực sự nghĩ là ông ta bị giết không?”

“Tớ vẫn đang bỏ ngỏ chuyện đó.” Mitch nhặt cuốn nhật ký lên. “Tớ mới đang đọc cuốn thứ ba, nhưng có cả đống người trong này sẽ không nhỏ một giọt nước mắt nào ở lễ tang của ông ta diễn ra vào thứ Sáu này.”

“Như ai?”

“Đây, June - người làm bánh quy là một. Bà ấy có một đứa con trai mười lăm tuổi tên là Ronnie bị dính ma tuý năm 1967. Một kiểu tình-yêu-mùa-hè ấy mà. Bà ấy đã nhờ Armand giúp đưa thằng bé đến một nơi cai nghiện, và Armand nói không. Bốn tháng sau đó, Ronnie bị sốc thuốc.”

Newton cau mày. “Đúng là ông ta hẹp hòi thật đấy, nhưng chưa đến nỗi thành động cơ giết người.”

“Thằng bé là con trai của Armand.”

Newton chớp mắt.

“June báo sẽ ra đi ngay sau khi chôn cất Ronnie.” Mitch đưa cuốn nhật ký đề năm 1967 cho Newton. “Tất cả đều có ở đây. Ông ta chỉ viết rằng mình vui mừng vì Ronnie đã khuất mắt, nhưng ông ta lại lo lắng vì lý do duy nhất để June lưu lại là vì bà muốn thằng bé sống cùng với cha mình. Rồi khi bà báo tin ấy, ông ta viết thẳng toẹt ra lý do ông ta muốn đưa cô cháu họ mồ côi về ở cùng mình là vì ông ta nghĩ việc đó sẽ giữ June ở lại.”

“Cháu họ mồ côi?”

“Là khách hàng của chúng ta.” Mitch mỉm cười, và khi nhận ra mình đang làm gì, anh liền dừng lại. “Mae Belle Sullivan. Cô ta lên sáu tuổi vào năm 1967, năm mà con trai của June chết. Armand đón Mae về nhằm trao cho June một đứa trẻ khác mà nuôi để bà ấy không bỏ đi nữa.”

“Cậu có nghĩ là June giết ông ta không?”

Mitch nhún vai. “Có thể. Nhưng chúng ta còn có Harold Tennyson, tay quản gia nữa. Ông ta chuyển đến cùng lúc với Mae để có thể trông nom cô nàng, và ngay lập tức mê tít June, lúc đó chắc bà vẫn còn là một người đẹp. Hẳn là khi đó bà ấy phải tuyệt lắm.” Anh ngưng lại, vẻ lơ đãng. “Mabel thì không quá bốc lửa. Chỉ đơn thuần là rất hấp dẫn thôi, đó là lý do vì sao cô nàng chả có chút tác động gì đến tớ, mà dẫu có thì cũng không đáng kể.”

Newton chớp mắt nhìn anh. “Gì cơ?”

“Không có gì. Dẫu sao thì nỗ lực của Harold đã làm Armand thấy buồn cười, vì thế ông ta cố lôi kéo June quay lại để chọc tức Harold, mặc dù giữa hai người họ đã chẳng còn gì hơn ngoài mối quan hệ giữa ông chủ và người hầu kể từ khi ông ta phát hiện bà ấy có thai nhiều năm về trước. Nhưng June lại chẳng tham dự trò chơi.” Mitch cười gằn. “Theo như cuốn nhật ký thì Armand có vẻ thực sự bực bội. Nó ở đoạn cuối, cậu nên đọc qua. Tớ cực thích đoạn đó. Dù sao đi chăng nữa, một đêm nọ Armand đã đánh liều một phen, và Harold đã dạy dỗ ông ta một chút. Armand sa thải Harold, nhưng June doạ sẽ ra đi còn Mae bé nhỏ thì khóc lóc, và kẻ mà ban đầu đã cử Harold đến đó gây áp lực lên Armand, thế là Armand phải nhận lại Harold. Từ đó họ rất căm thù nhau. Có một vài chỗ trong nhật ký Armand viết rằng ông ta nghĩ Harold đang cố giết ông ta. Vô tình lùi xe tông vào ông ta, những thứ đại loại như thế.”

Newton cau mày. “Harold có phải là kẻ giết người không?”

“Harold là người làm công dài hạn của Gio Donatello.”

Newton chớp mắt. “Lạy Chúa lòng lành.”

“Gio là một ông bác khác của Mabel. Ông ta cũng không ưa gì Armand, một phần là vì Mae, nhưng cũng bởi vì…” Mitch nhặt cuốn nhật ký đề năm 1978 lên và đưa cho Newton. “…Armand đã lừa ông ta một cú khoảng hai trăm năm mươi nghìn đô la vào năm 1978.”

Trên mặt Newton hiện lên vẻ không tán thành khe khắc của dòng dõi anh chàng. “Thật là ngu ngốc.”

“Armand là thế.” Mitch lắc đầu. “Ông ta cũng lừa bịp cô bạn gái để du hí với một người phụ nữ thượng lưu, cả hai bọn họ có lẽ là cùng mang cảm giác chẳng nồng nàn gì cho lắm với ông ta. Và rồi còn có một số đối tác kinh doanh mà có lẽ đã bị ông ta chơi khăm, trong đó có Claud em trai ông ta. Tớ vẫn chưa đọc những cuốn nhật ký gần đây nhất. Tớ chỉ có thể tưởng tượng ra cảnh tượng chém giết mà lão già cà chớn này có lẽ đã gây ra gần đây.”

Newton nhướn mày hỏi. “Em trai ông ta là Claud Lewis à?”

“Ừ.”

“Tớ nghĩ có thể tớ sẽ e ngại Claud Lewis hơn là Gio Donatello đấy.” Newton chọn lựa từ ngữ thật cẩn thận như thường lệ. “Gio chỉ có thể giết cậu, và chưa hề có bằng chứng thật sự nào cho thấy ông ta đã từng giết ai đó. Nhưng Claud thì có thể làm cho cậu phá sản, và có cả tỷ bằng chứng cho thấy lão ta đã làm việc đó bất cứ khi nào lão ta thấy thích.”

Mitch ngẫm nghĩ một lát. “Cậu có thể điều tra các giao dịch tài chính của Armand được không? Đặc biệt là các giao dịch với Claud.”

“Tớ có thể dò hỏi xem sao.” Newton trông có vẻ không thoải mái. “Đây thực sự chẳng phải là việc của tớ.”

Mitch đảo tròn mắt. “Newton, cậu là người lúc nào cũng bảo rằng cậu cũng muốn trở thành thám tử tư. Nếu cậu là thám tử tư thì việc của cậu là điều tra mọi thứ không phải là việc của cậu.”

“Ồ.”

“Cậu đã bảo là cậu muốn giúp văn phòng này. Đây là lần đầu tiên tớ nhận được một vụ yêu cầu các kỹ năng khác ngoài nhìn trộm và chờ đợi. Đây là một vụ hay ho đấy Newton.”

“Được rồi.” Newton có vẻ xốc lại được tinh thần. “Được rồi. Tớ sẽ làm chuyện đó.”

“Đó là vì lý do chính đáng thôi.” Mitch trấn an bạn mình. “Tớ nghĩ Armand Lewis chết một cách tự nhiên thôi, nhưng nếu như không phải thế, ông ta cũng không đáng bị giết chết.” Anh liếc mắt nghi ngờ nhìn qua cuốn nhật ký cuối cùng. “Kể ra cũng đáng đấy.”

“Cũng đáng ư?”

Mitch cau mày. “Những gì chúng ta có ở đây là một người đàn ông luôn chọc tức hay làm tổn thương tất cả những người ông ta biết, và ông ta quen biết cả đống người đầy quyền lực. Và cái hay của chuyện này là, ông ta viết lại tất cả trong nhật ký của mình. Dĩ nhiên, ông ta nghĩ lừa được Gio thật là sướng tê người và hoàn toàn có thể hiểu được khi ông ta bỏ rơi chính con trai mình, nhưng ngay cả thế…” Mitch nhặt cuốn nhật ký cuối cùng lên “…ông ta lại viết tất tần tật cả vào đây. Như kiểu Nixon và mấy cuốn băng ấy. Cái tôi làm người ta trở nên ngu ngốc, Newton à.”

“Trong trường hợp đó, cuốn nhật ký cuối cùng sẽ cho ta biết ai là người giết ông ta.” Newton nói. “Nếu như có người làm điều đó.”

“Đó mới là điều hay ho. Cuốn nhật ký cuối cùng đã biến mất.”

“Ồ.”

“Là thế đấy.” Mitch đặt cuốn nhật ký năm 1993 lên đầu gối. “Nếu không phải vì điều này, tớ sẽ cho rằng Mabel đã mất khả năng kiểm soát tình hình. Nhưng vấn đề với Mabel là, cô ta có thể bướng bỉnh đến vô lý, nhưng cô ta không ngu ngốc. Và cô ta đang nhằm vào thứ gì đó.” Mitch nhìn vào mắt Newton. “Cô ta đang nói dối tớ, Newton à. Cậu có thể tin điều đó không?”

“Giống như Brigid,” Newton nói.

“Đó là điều mà tớ lo sợ,” Mitch trả lời.

Khi Mitch xuống phố để lấy xe vào sáng hôm sau, cả bốn bánh xe của anh đều bẹp dí, bánh nào cũng bị rạch nát bét. Anh gọi điện cho dịch vụ sửa xe, đại lý bảo hiểm và cảnh sát, và rồi gọi Mae. Ngay cả qua điện thoại, giọng của cô cũng dội thẳng vào sống lưng anh. Quên nó đi, anh bảo với sống lưng của mình. Khi cô nói, “Alô?” một lần nữa, anh trả lời, “Ai đó đã tình cờ đâm thủng lốp xe của tôi.”

“Anh Peatwick à?”

“Gọi tôi là Mitch đi, Mabel. Thế thân thiện hơn. Cô sẽ phải đến đón tôi thôi.”

“Cả bốn bánh à?”

“Ừ. Tôi có giác quan thứ sáu về mấy chuyện thế này, và tôi sẵn sàng cược với cô bao nhiêu cũng được rằng chính ông anh họ tâm thần Carlo của cô đã xử mấy cái lốp xe của tôi. Tôi không nghĩ là anh ta chịu nghe lời cô khi cô bảo anh ta để yên cho tôi.”

Anh nghe một tiếng thở dài ở đầu dây bên kia và bảo sống lưng của mình phớt lờ cả điều đó nữa. “Tôi sẽ trả tiền cho mấy cái lốp xe,” cô nói.

“Cám ơn, không cần thiết đâu. Bảo hiểm sẽ giải quyết mấy vụ phá hoại. Giờ đến đón tôi đi.” Anh chỉ đường cho cô rồi chờ trong lúc cô viết lại.

“Ừ, anh Peatwick này?”

“Mitch.”

“Anh ở khu Overlook.”

“Ừ, tôi biết.”

“Ồ. Khu vực nguy hiểm.”

“Thực ra thì đây là một khu dân cư nho nhỏ thân thiện cho đến khi ông anh họ cô ghé qua. Anh ta đã hạ thấp hình ảnh nơi đây đi đáng kể.”

“Tôi sẽ đến đó ngay.”

“Cám ơn,” Mitch nói, nhưng cô đã cúp máy, và trong giây lát anh cảm thấy mất mát một cách lạ kỳ. Đây chỉ là một vụ điều tra, anh tự nhủ, cô ta chỉ là một khách hàng. Phải rồi, đúng thế đấy, sống lưng của anh đáp lại.

.

Anh đang đứng trước căn hộ tập thể của mình, mồ hôi túa ra trong ánh nắng buổi sáng khi Mae rẽ vào trên chiếc Mercedes màu nâu. Anh trông có vẻ lực lưỡng và cao lớn hơn cô nhớ. Một lọn tóc vàng bướng bỉnh vẫn rủ xuống che ngang mắt, và anh đang tựa vào tường toà nhà bám đầy bụi trong khu vực bẩn thỉu nhất của thành phố mà không có biểu hiện nào cho thấy anh nhận ra sự hào nhoáng xung quanh. Anh chui vào ghế trước, giơ tay một cách đầy cảm kích ngay đằng trước lỗ thông gió của hệ thống điều hoà, rồi nói, “Xe khủng đấy.” Mae bảo, “Tôi ghét nó,” và anh hỏi, “Tại sao?” trong khi cô lái xe ra khỏi lề đường.

Từ khoé mắt, cô có thể thấy anh quan sát cô từ ghế phụ trước khi nhắm mắt lại và quay đi. “Hôm nay trông cô xinh lắm,” anh nói trong lúc nhìn chằm chằm ra ngoài kính chắn gió.

Mae liếc xuống chiếc váy không tay màu đen thêu hoa trên người. “Cám ơn.” Cô cảm thấy thỏa mãn đến mức vô lý rằng anh thích Mae trong váy áo của chính mình hơn là bộ giày váy cô mượn của June, và rồi cô gạt ngay cái ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Mitchell Peatwick thích gì thì có gì khác đâu cơ chứ. Quay trở lại công việc thôi.

“Tôi thực sự xin lỗi về mấy cái lốp xe.” Cô mở đầu.

“Chuyện đó không thành vấn đề.” Anh trở mình thoải mái trong chiếc ghế da. “Tôi đã cảnh báo bên bảo vệ của khu vực, từ giờ họ sẽ để mắt đến chuyện đó.”

Họ đi qua một chiếc xe đang đỗ bên đường ngay lúc một thằng nhóc gầy lỏng khỏng giơ một chiếc đòn bẩy qua cửa xe và túm lấy cái máy radio.

“Tôi có nên dừng lại không?” Mae hỏi, nhìn qua kính chiếu hậu trong lúc hãm tốc độ lại.

“Vì sao? Cô đã có radio rồi còn gì.”

Mae cố gắng kiềm chế cơn tức giận. “Tôi tưởng là anh thích chuyện bắt bớ.”

Mitch khịt mũi.

“Này, anh là một thám tử tư. Tôi cho rằng…”

“Đừng.” Mitch khuyên cô. “Chuyện cho rằng luôn luôn tồi tệ. Ví dụ nhé, tôi cho rằng cô thích chiếc xe đắt tiền này vì cô đang lái nó. Tại sao cô lại không thích chứ?” Anh chớp mắt nhìn cô, trông giống một kẻ ngố hơn bao giờ hết, nhưng Mae không bị lừa.

Không bao giờ nữa.

“Sao cô không thích chiếc xe này?” Anh thật cố chấp, và Mae đành thở dài.

Anh sẽ không ngừng hỏi. Vấn đề với Mitch không phải là anh hỏi những câu hỏi thông minh. Vấn đề là anh hay đưa ra những câu hỏi ngớ ngẩn và cứ hỏi, hỏi, hỏi mãi, và rồi dần dần người ta sẽ nói cho anh nghe hết tất cả những gì người ta biết chỉ để làm anh câm miệng lại và biến đi chỗ khác. Chà, có thể không phải là biến đi chỗ khác…

“Nếu cô không thích chiếc xe này, thì sao cô lại mua nó?”

Mae đầu hàng. “Tôi có mua đâu. Tôi đã mua một chiếc Miata nhỏ xinh màu xanh với giá tiền cao hơn khả năng chi trả của tôi, nhưng tôi rất thích nó, nó đáng với sự hy sinh đó.”

“Cao hơn khả năng chi trả của cô?”

“Tôi đã nói với anh rồi, tôi không giàu. Các bác tôi mới giàu. Tôi kiếm được mười lăm nghìn một năm với vị trí cộng tác viên tình nguyện tại Viện Nghệ Thuật Riverbend.”

“Cô làm việc á?” Giọng Mitch có vẻ ngờ vực. “Thế sao lúc này cô lại không đi làm?”

“Bởi vì bác tôi vừa mới qua đời, và lễ tang sẽ diễn ra vào ngày mai.” Mae rẽ ra khỏi khu Overlook và hoà vào đại lộ lớn bên cạnh trường đại học. “Tôi sẽ phải quay lại làm việc vào thứ Hai tới.”

“Ồ.” Mitch im lặng, rõ ràng là đang sắp xếp trong đầu những thông tin mới, và rồi anh hỏi. “Thế sao cuối cùng cô lại phải dùng cái xe mà cô ghét?”

Mae bắt đầu mỉm cười ngoài ý muốn. “Anh thật cố chấp đến không thể tin được.”

“Một trong những phẩm chất tốt nhất của tôi đấy. Sao cô lại mua chiếc…”

“Tôi không mua. Bác Armand đã rước nó về. Ông ấy không thích chiếc Miata, mà nó lại nằm trong ga-ra của ông ấy, và chỉ có chiếc xe tốt nhất mới được nằm trong cái ga-ra đó, vì thế ông ấy bán nó đi đổi lại cái hộp giày màu sô-cô-la này.”

Mitch cau mày. “Thế là phi pháp. Chiếc xe đâu có đăng ký tên ông ta.”

Mae đảo mắt với vẻ xem thường. “Nếu anh cho rằng điều đó có thể ngăn bác tôi lại, nghĩa là anh chưa đọc nhật ký của ông ấy.”

“Thực ra mà nói là tôi đã đọc. Chà, ít nhất cô cũng có được một con xe khủng miễn phí.”

“Quên chuyện đó đi.” Mae rẽ xuống một con đường rợp bóng cây với những ngôi nhà gạch cổ kiểu Đức. “Ông ấy chỉ trả phần chênh lệch giữa chiếc Miata và chiếc xe này. Tôi vẫn phải thanh toán cho khoản vay để mua chiếc Miata mà ngay từ đầu tôi vốn đã không đủ khả năng chi trả. Và thế là giờ tôi đang phải thanh toán cho cái xe mà tôi thậm chí còn không thích, nhờ phúc đức của ông bác Armand, cầu cho ông ấy được yên nghỉ.” Mae dừng lại trước ngôi nhà cuối cùng bên tay phải. “Đây rồi.”

“Có thể ông ấy làm thế là vì cô,” Mitch gợi ý. “Có lẽ sẽ an toàn hơn…”

“Ông ấy làm điều đó vì chính mình.” Mae thẳng thừng. “Bác Armand của tôi sẽ không tồn tại nếu không có danh hiệu của mình. Mọi thứ xung quanh ông ấy phải đắt tiền. Bất kỳ thứ gì khác sẽ làm ông ấy đau đớn thực sự đấy. Ông ấy thấy buồn bực vì tôi lái một chiếc xe không đủ cao cấp, vì thế ông ấy đổi xe để không còn thấy buồn bực nữa. Rồi ông ấy trông chờ tôi phải tỏ ra biết ơn này nọ. Mà tôi thì chưa hề thấy như thế. Nói một cách ngắn gọn, đó là câu chuyện về mối quan hệ của chúng tôi. Anh còn hỏi gì nữa không?”

“Tôi có thể lái chiếc xe này lúc quay về không?”

“Tập trung đi,” Mae nói. “Anh đang điều tra một vụ giết người đấy.”

“Tôi biết điều đó,” Mitch đáp trả. “Tôi chỉ muốn vừa điều tra vừa được lái một chiếc Mercedes thôi.”

Mae đầu hàng và bước ra khỏi xe, để Mitch phải lẽo đẽo theo sau cô.

Nhờ chiếc chìa khoá của Harold, họ vượt qua được cửa trước. Mae dẫn Mitch vào trong hành lang lạnh, hẹp trong lúc liếc nhìn nhanh lên cầu thang bộ.

“Có thứ gì trên đó?” Anh hỏi.

“Tôi không biết. Lúc trước tôi chưa bao giờ đến đây.” Cô đi đến cuối hành lang rồi băng qua một cổng vòm để vào phòng khách, và rồi cô dừng lại, choáng ngợp bởi cảm giác ghen tị.

Căn phòng nhỏ nhưng ấm áp, đầy những đồ nội thất được bọc da mềm màu hổ phách và những chiếc gối móc tay xinh xắn có in hoa. Mọi vật trong phòng tắm mình trong ánh nắng mặt trời đang chiếu qua cánh cửa kiểu Pháp ở cuối căn phòng. Mae bước về phía cửa và tựa người vào khung cửa, nhìn ra ngoài vườn hoa nho nhỏ có tường bao quanh lúc này vẫn còn sót lại những bông hoa rực rỡ cuối cùng của mùa hè. Tất cả đều rất đẹp, rất ấm áp. Cô cắn môi và tự hỏi không biết sẽ như thế nào nếu được sống ở một nơi ngập tràn ánh sáng như thế này với một người chịu nghe cô nói, cười với cô, vòng tay ôm cô và nói với cô rằng người đó yêu cô. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra với cô, nhưng cô vẫn tự hỏi.

Trong chốc lát, cô cảm thấy tội nghiệp cho chính mình và gần như khóc oà lên.

Mitch bước đến cạnh cô, nhìn ra ngoài qua vai cô, và cô ngờ ngợ cảm thấy được an ủi khi có anh ở bên cạnh. “Sau khi bản di chúc được thực thi, chúng tôi sẽ chuyển đến ở một nơi gần dòng sông,” cô nói với anh. “Ở đó sẽ có những ô cửa sổ lớn luôn mở rộng, có sàn nhà bằng gỗ cứng sạch bóng, có màn cửa mỏng trắng tinh, và khi có gió nhè nhẹ thổi từ ngoài sông vào, nó sẽ tràn ngập cả ngôi nhà.”

“Nghe hay đấy.” Giọng Mitch có vẻ ngập ngừng, và cô biết anh không có chút ý tưởng nào về những gì cô đang nói, nhưng ít ra anh có vẻ thông cảm. Và anh lắng nghe cô nói.

Cô quay sang anh. “Và chúng tôi sẽ nuôi khoảng mười hai con chó.”

“Vậy thì quên vụ sàn nhà gỗ cứng sạch bóng đi.”

Cô nhìn vào mắt anh. “Đó là những gì tôi đã luôn mong muốn. Tôi ghét tất cả các thứ bọc nhung, kim tuyến và tiền bạc ở nhà Armand. Tất cả đồ đạc đều quá giá trị để ngồi lên, tất cả sách báo thì quá giá trị để mà đọc đến, và chúng tôi không thể để ánh nắng chiếu vào nhà vì nó sẽ làm phai màu các thứ bọc nhung khốn kiếp đó.” Cô dừng lại, nhận ra giọng mình đang cao vút lên. “Tất cả những gì chúng tôi muốn là một tổ ấm, có June, có Harold và có tôi. Và đó là những gì mà nơi này gợi cho tôi nghĩ đến. Một tổ ấm.” Đôi mắt cô không hề rời khỏi sự thoải mái mà căn phòng nhỏ đầy ánh nắng mang lại. “Armand không biết cách làm cho một căn phòng dễ chịu như thế này đâu. Stormy hẳn là người đã chọn những món đồ này.”

Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên làm họ giật mình. “Đúng là tôi đã chọn.”

Mitch quay lại và nhìn qua anh, Mae bắt gặp một người phụ nữ trông còn trẻ con đang đứng ngay phía trong chiếc cổng vòm dẫn vào phòng.

Cô đã quên mất Stormy đẹp mê hồn như thế nào. Những lọn tóc quăn đỏ hung và đôi mắt xanh to tròn của cô ta thật đáng kinh ngạc, nhưng chủ yếu là do làn da của Stormy, sáng mờ mờ như màu ngọc mắt mèo, có thể làm người khác ngừng thở. Ở tuổi hai lăm, Stormy Klosterman là một thứ gần đúng nhất với vẻ đẹp hoàn hảo mà Mae đã từng nhìn thấy.

Mae liếc nhìn Mitch và thở dài. Anh đang mang vẻ mặt choáng váng như thường thấy ở những người đàn ông khi họ nhìn thấy Stormy. Đó không phải lỗi của anh. Ngay cả phụ nữ cũng có xu hướng há hốc miệng và trố mắt nhìn Stormy. Nhưng điều đó vẫn làm cô nhói đau, một cảm giác ngớ ngẩn vì cô chẳng quan tâm đến chuyện Mitch đang ngắm nhìn ai.

“Tôi xin lỗi.” Mae bước qua Mitch để chào Stormy. “Chúng tôi không biết cô ở đây, nếu không chúng tôi sẽ không bao giờ xông vào đây. Cô ổn chứ?”

Stormy sụt sịt. Có những quầng thâm xinh xắn dưới mắt cô ta, và khóe miệng cô ta trễ xuống. “Ừ. Hai người cứ đến đây, không sao đâu. Tôi không còn sống ở đây nữa. Không còn ai sống ở đây nữa.” Mặt cô ta méo xệch và nước mắt bắt đầu trào ra, Mae quàng tay quanh người cô ta và dìu cô ta về phía chiếc đi văng.

“Tôi rất tiếc, cưng à.” Cô nhìn lại phía sau tìm Mitch, lúc này vẫn đang đứng trơ như phỗng trước sự kết hợp giữa sắc đẹp và nước mắt. “Anh sẽ lấy cho cô ấy chút nước chứ?”

“Chắc chắn rồi.” Mitch đờ đẫn đi qua họ, mở thử cửa căn buồng nhỏ trước khi tìm thấy cánh cửa dẫn vào nhà bếp, rồi quay lại với một cốc nước trên tay. Dù gì thì anh cũng nhìn cô nàng Stormy đang thút thít với vẻ chẳng nhiệt tình chút nào.

“Đi đi,” Mae bảo anh.

“Được thôi,” anh nói, rồi sau đó cô nghe tiếng chân anh bước lên cầu thang.

“Tôi xin lỗi,” Stormy nói sau khi đã khóc xong. Cô ta ngẩng đầu khỏi vai Mae, và Mae nhìn một cách ghen tị khi khuôn mặt đỏ bừng vì khóc lóc dần trở thành hai gò má ửng hồng xinh đẹp.

“Thời gian này cô ở một mình à?”

“Ừ.” Stormy sụt sịt. “Hầu hết thời gian tôi ở chỗ mới của mình, nhưng tôi ghé qua đây hàng ngày, chỉ để nói lời tạm biệt.” Khuôn mặt cô ta lại méo xệch.

Mae vỗ nhẹ vào lưng Stormy và đầu cô ta lại ngả vào vai cô lần nữa. “Tôi xin lỗi, Stormy. Lẽ ra tôi phải gọi cho cô. Chỉ là tôi không nghĩ đến điều đó.”

“Không sao mà.” Giọng Stormy nghèn nghẹt trên vai Mae.

“Tôi có thể giúp gì cô không?”

Stormy lùi lại một chút và nhìn cô với vẻ buồn bã. “Chúng ta có thể ăn trưa cùng nhau lúc nào đó. Như những người bạn, kiểu thế.”

“Ăn trưa à?” Mae gật đầu, hơi chút bối rối nhưng cảm thấy khoan khoái vì đã tìm ra điều gì đó làm cho cô ta vui lên. “Chắc chắn rồi. Cuối tuần này, được chứ?” Thứ Sáu là lễ tang. Cô không tài nào có thể đi ăn trưa với Stormy trước lễ tang được.

“Thứ Bảy nhé.” Stormy tươi cười nhìn cô, và Mae chớp mắt lần nữa trước vẻ đẹp mê hồn và sự thay đổi tâm trạng nhanh chóng của cô ta. Đối với bất cứ ai khác, tâm trạng thay đổi sẽ là dấu hiệu cho thấy sự bất ổn trong tinh thần. Đối với Stormy, điều này làm cô ta như trẻ con và thân thiện. Thế mà Armand định bỏ cô ta để đến với Barbara Ross ư?

“Tôi sẽ thích lắm,” Stormy kết luận. “Ăn trưa. Thứ Bảy sẽ rất tiện. Ở Levee nhé. Tôi thích Levee.”

“Ồ, tôi cũng thế.” Mae nhẩm tính nhanh trong đầu xem cô có đủ tiền cho một bữa trưa ở Levee không. Phải chi trả cho chiếc Mitch đã làm cô khánh kiệt. Có lẽ đủ nếu cô bán chiếc Mercedes.

“Sao cô lại đến đây?”

Mae giật mình, nhưng giọng của Stormy vẫn thân thiện. “Ừ, tôi…” Nói với Stormy rằng cô đã thuê một thám tử tư để điều tra kẻ đã giết Armand sẽ không phải là hành động thông minh vào lúc này. “Tôi đang tìm một thứ.”

“Anh chàng đó là ai?”

Mae lại chớp mắt nhìn cô ta lần nữa.

“Anh chàng cô đi cùng ấy. Anh ta thật dễ thương.” Stormy nhăn nhăn sống mũi một cách tinh quái.

“Dễ thương?” Mae trố mắt nhìn cô ta. “Mitch á?”

Stormy gật đầu. “Như một chú gấu nhồi bông ấy. Anh ta là bạn trai cô à?”

“Ồ không. Tôi thuê anh ta.”

“Để làm gì?”

Mae trả lời từ tốn, trong lòng sửng sốt trước vẻ tập trung bất ngờ của Stormy. “Để tìm cuốn nhật ký của Armand. Chúng tôi nghĩ có thể nó ở đây.”

Giọng của Mitch vang lên từ phía cửa vào. “Chà, nó không có ở đây đâu.”

Stormy quay lại phía anh và mỉm cười. “Tôi biết. Tất cả đồ đạc của anh ấy đã được đóng gói. Harold đã đến và đem một số thứ về rồi.”

“Cuốn nhật ký không nằm trong cái hộp mà Harold đã đem về nhà,” Mae nói với cô ta. “Có chỗ nào ở đây mà ông ấy có thể giấu nó không nhỉ?”

Stormy lắc đầu, những lọn tóc xoăn đu đưa trong ánh nắng. “Không. Ở đây không có chỗ nào như thế cả.” Cô ta chìa tay cho Mitch. “Tôi là Stormy.”

Anh bước tới và nắm lấy bàn tay ấy. “Xin chào, tôi là Mitch. Cô có nghĩ ra ai đó có thể muốn giết Armand không?”

“Giết anh ấy ư?” Giọng Stormy nghe có vẻ choáng váng, và Mae thầm đá Mitch một phát thật đau.“Anh ấy chết vì lên cơn đau tim. Tôi đã ở đó. Chúng tôi đang yêu nhau thì anh ấy chết. Trong tay tôi.” Cô ta lại òa lên khóc khi nói những từ cuối cùng, và rồi lại đổ ập vào vai Mae.

Mae trừng mắt nhìn Mitch, nhưng anh chỉ đứng đó, nhìn Stormy chằm chằm với vẻ đăm chiêu.

“Tôi yêu anh ấy.” Stormy nấc lên. “Không ai tin điều đó. Tất cả bọn họ đều nghĩ là tôi vì tiền. Nhưng tôi yêu anh ấy.”

Mae vỗ về cô ta. “Tôi tin cô mà.”

Stormy ngừng khóc và ngồi dậy, chớp mắt nhìn cô. “Thật không?” Rồi cô ta lại sụt sịt. “Tôi lúc nào cũng quý cô.”

“Ồ, cám ơn.” Mae đứng dậy trước khi tình hình trở nên kỳ cục hơn, hoặc tệ hơn, trước khi Stormy lại òa lên khóc. “Nếu cô không sao thì chúng tôi thực sự phải đi bây giờ.” Mae lùi khỏi cô ta và đụng phải Mitch. “Chúng tôi sẽ gặp cô tại lễ truy điệu vào ngày mai.”

“Ồ, Mitch cũng sẽ đến chứ?” Stormy đứng dậy và thướt tha bước theo họ.

Mitch nắm lấy khuỷu tay Mae. “Sẽ không bỏ lỡ đâu.” Anh kéo Mae về phía cổng vòm, và Mae vẫy tay chào Stormy rồi quay đi với vẻ nhẹ nhõm, háo hức rời khỏi tất cả những gì đẹp đẽ, đơn độc và kỳ lạ trong ngôi nhà kia.