Trong khi chờ đợi tin tức của Dương Chí Cương, chúng ta hãy tranh thủ xem tiếp bức thư thứ năm mà Ba Kim tiên sinh gửi cho Đại Lợi.
Bức thư này cũng dùng loại giấy như trước đây, kiểu hàng dọc, viết trên ba trang giấy, đề cập tới nhiều vấn đề với những cảm nghĩ sâu sắc hơn.
Đại Lợi:
Xin hãy lượng thứ cho tôi, mãi tới hôm nay tôi mới hồi âm bức thư ngày 11 tháng 10 của bạn.
Thời gian này tôi vô cùng bận rộn, có lúc lại chẳng bận việc gì, song tôi lại không có nhiều thời giờ để viết thư.
Sách của tôi khiến bạn rơi lệ, đây là điều tôi không ngờ tới. Quả thực, những cảnh tượng ấy quá đau khổ. Giữa người với người vẫn còn mối liên hệ tình cảm chặt chẽ. Chúng ta thường đau lòng và nhỏ lệ trước nỗi đau của người khác. Từ đây có thể nhận ra, trái tim của bạn thật lương thiện. Phải vậy, bạn là một người rộng lượng, bạn muốn cống hiến mọi thứ mà bạn có với mong muốn mang lại hạnh phúc cho những người ở cùng thế hệ của bạn. Tôi hiểu khao khát hy sinh đó của bạn. Trước kia, tôi cũng từng viết một bức thư tương tự cho một người mà tôi chưa từng gặp mặt. Hôm nay bạn đã dùng lời của Chu Xuân Huy để hỏi tôi, câu trả lời của tôi vẫn là cứ kiên nhẫn nữa đi. Bạn sẽ hiểu ra lý do khi đọc bài viết Con đường của tôi mà tôi đã gửi cho bạn.
Bạn hãy cứ tiếp tục việc học đi. Tôi không hề bảo bạn phải vùi đầu vào sách vở mà không hỏi mọi chuyện bên ngoài. Ngoài giờ học bạn vẫn có thể đọc báo, đọc sách hoặc tham gia một số phong trào sinh viên và phong trào xã hội. Bạn phải nghĩ rằng, trong tương lai không xa thì ngay tới cơ hội học tập cũng chẳng còn; có lẽ trong tương lai không xa, sẽ tới lúc mỗi một người Trung Quốc đều phải hy sinh mọi thứ của bản thân cho một cuộc chiến đấu lớn lao. Cho nên vào lúc này, nếu bạn vẫn có cơ hội học tập thì không nên từ bỏ. Bạn chẳng qua vẫn chỉ là một đứa trẻ mười bảy tuổi. Trung Quốc vẫn còn nhiều trai tráng ba, bốn mươi tuổi. Hãy để họ là lớp người hiến thân đầu tiên, chứ không phải bạn. Bạn đừng tự trách mình một cách hà khắc như thế.
Tôi từng đọc một bài viết mang tên Mùa xuân ở Thái Nguyên năm 1936, nên biết được hoàn cảnh nơi bạn sống rất đặc biệt. Tôi chỉ có thể nói với bạn đơn giản như vậy, để tránh gây phiền hà cho bạn. Tôi hy vọng bạn sẽ hiểu. Tôi nghĩ, nếu tôi có thể giãi bày trước mặt bạn, vậy thì tôi sẽ có rất nhiều điều muốn nói với bạn. Chỉ bấy nhiêu thôi sao mà đủ được đây? Tôi rất nhớ bạn!
Chúc tốt lành!
Kim, ngày mùng mười tháng Mười một
Bức thư này được viết cách bức thư trước vừa tròn bốn mươi ngày. Đúng như Ba Kim nói: “Thời gian này tôi vô cùng bận rộn”, Ba Kim tiên sinh trước hết phải miệt mài ngày đêm viết Xuân để cho đăng bài, sau đó còn tham gia biên tập cho một loạt sách báo như: Bộ sách văn hóa và đời sống, Bộ sách văn học, Văn quý nguyệt báo và Bộ sách Dịch văn… Trong khi đó, cuộc chiến gay gắt về Hai khẩu hiệu giữa hai mặt trận văn đàn ở Thượng Hải đang lên tới cao trào, đồng thời, làn sóng hành động yêu nước kháng Nhật cứu trợ miền Bắc của giới văn hóa đang diễn ra sôi nổi, Ba Kim tiên sinh cũng tích cực tham gia. Vì mưu cầu cứu quốc, Ba Kim đã cùng với 21 người khác gồm có: Vương Thống Chiếu, Lâm Ngữ Đường, Hồng Thâm, Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Trần Vọng Đạo, Quách Mạt Nhược, Hạ Miễn Tôn, Trương Thiên Dực, Diệp Thánh Đào, Trịnh Chấn Phong , Băng Tâm, Phong Tử Khải… liên hợp lại để phát biểu “Tuyên ngôn của giới văn nghệ về đoàn kết chống xâm lược và tự do ngôn luận”, với chủ trương sớm hình thành mặt trận thống nhất kháng Nhật cứu quốc của giới văn nghệ toàn quốc; song vào thời gian đó, Lỗ Tấn tiên sinh lại đột ngột mắc bệnh qua đời. Từ sau ngày 19.10, trong nhiều ngày, Ba Kim đã nén nỗi đau để tham gia vào hoạt động cử hành tang lễ, ông liên tục viết nhiều bài văn tưởng niệm, còn cho đăng Bài viết đặc biệt thương tiếc Lỗ Tấn tiên sinh trên tạp chí Văn quý nguyệt báo. Đây đều là chủ trương nhất quán, văn học phải tham gia vào đời sống xã hội, nên Ba Kim tiên sinh muốn tích cực hưởng ứng. Nhưng sau đó ông lại nói một câu: “Có lúc lại chẳng bận việc gì”. Không hiểu là vì cớ gì? Với những gì đã biết, khi Ba Kim “chẳng bận việc gì” thì cũng đủ để viện lý do “không có nhiều thời giờ để viết thư”. Một mặt, vào thời điểm đó, mối quan hệ yêu đương giữa Ba Kim và Tiêu San vừa được xác lập, về điều này Trần Đan Thần cho rằng: “Một người rời xa quê hương để sống cuộc đời bươn trải hơn mười năm như Ba Kim, khi ấy đã bắt đầu cảm nhận được sự ngọt ngào và ấm áp của tình yêu”. Bóng dáng của hai người thường được trông thấy ở công viên hay rạp chiếu phim ở Thượng Hải, hoặc là bên bờ sông ở cảng Thanh Dương, Tô Châu. Mặt khác, Ba Kim còn nhận được vô số những lá thư bày tỏ lòng mến mộ, thỉnh giáo, thậm chí là nhờ giúp đỡ từ rất nhiều thiếu nữ. Bạn bè cùng thời đánh giá Ba Kim như sau: “Ông ấy không chỉ là một người nghiện công việc với những trách nhiệm nặng nề, mà còn là người biết tận hưởng hạnh phúc”. Trước lời cảm thán “Ba Kim hạnh phúc” của Lý Kiện Ngô cùng những người bạn thân thiết, Ba Kim đáp lại như sau: “Tôi mưu cầu hạnh phúc, đó là vì mọi người; tôi mưu cầu đau khổ, chỉ là vì bản thân”.
Vào một ngày “đầu đông năm 1936”, lại có một thiếu nữ tuyệt vọng nữa gửi thư cho Ba Kim để cầu xin sự giúp đỡ. Cô gái ấy oán thán rằng, sau khi rời bỏ gia đình ở An Huy ra đi thì đã gặp phải cú sốc thất tình, chỉ muốn nhảy xuống Tây Hồ tự vẫn, sau đó đã đơn độc tạm lánh ở một ngôi miếu nhỏ, song hòa thượng trong miếu lại dâm dục, hiện đang giam giữ cô. Ba Kim sau khi đọc thư thì đã vô cùng phẫn nộ, ông lập tức hẹn Cận Dĩ và Lỗ Ngạn cùng mình tới Hàng Châu để giải cứu thiếu nữ kia. Ba Kim đóng giả làm người chú ở Thượng Hải của thiếu nữ, tới gõ cửa ngôi miếu, “Trả cho hòa thượng hơn 80 đồng”, dắt cô gái thoát khỏi biển khổ, đáp chuyến xe trở về Thượng Hải, cho tới khi trao cô cho người cậu thật sự.
Đây là thời điểm “chẳng bận việc gì” được ghi chép trong tư liệu lịch sử, xảy ra vào trước và sau khi Ba Kim viết bức thư này (ngày 10.11.1936). Sự ấm áp và cứu trợ mà Ba Kim dành cho người khác quả là được thể hiện ở nhiều khía cạnh…
Còn Triệu Đại Lợi, nếu đem cô gái trí thức này so sánh với biết bao thiếu nữ đã gửi thư cho Ba Kim, thì cô ấy chẳng phải cần tới một sự giúp đỡ thông thường, mà là khát khao chiến đấu, hướng tới cách mạng, mong muốn làm lại cuộc đời. Ôm “khát khao hy sinh”, muốn “dâng hiến mọi thứ mà mình có” những mong mang lại hạnh phúc cho những người sống cùng thời đại. Qua thư có thể thấy, Ba Kim tiên sinh hết sức tôn trọng Đại Lợi, chứ không phải thương hại và vỗ về. Cho nên Ba Kim mới chân thành bày tỏ: “Nếu tôi có thể giãi bày trước mặt bạn, vậy thì tôi sẽ có rất nhiều điều muốn nói với bạn. Chỉ bấy nhiêu thôi sao mà đủ được đây? Tôi rất nhớ bạn!” Ồ, một nhà văn nổi tiếng lại có thể chân thành mở lòng mình với một độc giả bình thường đến vậy, theo tôi điều này cực kỳ khó khăn, vậy mà Ba Kim tiên sinh với tình yêu cao cả đã làm được điều đó.
Một người luôn hướng về cách mạng như Triệu Đại Lợi, vận mệnh của cô gái ấy sau này sẽ ra sao? Điều này khiến người ta hết sức trăn trở.
Trong thư viết: “Có lẽ trong tương lai không xa, sẽ tới lúc mỗi một người Trung Quốc đều phải hy sinh mọi thứ của bản thân cho một cuộc chiến đấu lớn lao”. Bức thư này đã gửi gắm niềm mong mỏi toàn dân tộc đứng lên kháng Nhật của Ba Kim tiên sinh. Theo tư liệu lịch sử ghi chép, cũng trong tháng đó, Nhà xuất bản Văn quý nguyệt báo của Ba Kim và Cận Dĩ đã tích cực liên lạc với Nhà xuất bản Trung lưu do Lê Liệt Văn làm chủ biên, Nhà xuất bản Dịch văn do Hoàng Nguyên làm chủ biên và Nhà xuất bản Tác gia do Mạnh Thập Hoàng làm chủ biên. Bốn nhà xuất bản này đã hợp nhất nhau lại, gọi điện cho Tướng quân Phó Tác Nghĩa-Chủ tịch tỉnh Tuy Viễn (tên một tỉnh cũ của Trung Quốc), bày tỏ kiên quyết ủng hộ sự đấu tranh quyết liệt chống quân Nhật của quân đội chính phủ.
Chủ nghĩa Anarchism tức là chủ nghĩa vô chính phủ. Rõ ràng, Ba Kim thời trẻ chính là một người trung thành với chủ nghĩa vô chính phủ. Tư tưởng và quan niệm của chủ nghĩa vô chính phủ đã thâm nhập vào Trung Quốc trước và sau cách mạng Tân Hợi. Về mặt chính trị, nó phản đối hình thái quốc gia, tôn giáo và chính phủ; về mặt văn hóa tư tưởng, nó kịch liệt phản đối lễ giáo truyền thống. Trước khi chủ nghĩa Mác được truyền bá vào Trung Quốc thì chủ nghĩa vô chính phủ đã mang tới sức hấp dẫn đặc biệt cho hàng ngàn vạn thanh niên cách mạng theo đuổi con đường cải tạo xã hội. Những nhân vật đại diện cho chủ nghĩa vô chính phủ nổi tiếng trên thế giới gồm có: Bakunin, Goldman, Berkman, Figner…, đặc biệt là Kropotkin. Chủ trương lý luận và thực tiễn cách mạng của họ, ánh sáng đạo đức cùng tinh thần vì nhân dân và chính nghĩa mà họ mang trong mình đã ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc đời của thanh niên Ba Kim. Chữ “Kim” trong cái tên Ba Kim chính là được lấy từ “Kropotkin”, người được Lưu Sư Phục ca tụng là: “Bậc thầy của chủ nghĩa vô chính phủ và khoa học quần chúng”. Còn chữ “Ba” được lấy từ cái tên “Ba Ân Ba”, nhằm tưởng nhớ người bạn học Trung Quốc từng cùng ông du học ở Pháp. Họ có chung lý tưởng và chí hướng, chỉ có điều người bạn họ Ba của ông lại tuyệt vọng nhảy sông tự sát nơi đất khách. Ba Kim tiên sinh đã dùng cái tên này để phát hành cuốn tiểu thuyết đầu tay Diệt vong gây chấn động văn đàn Trung Quốc vào tháng 1.1929. Ngay từ khởi điểm, tư tưởng lý luận của ông đã vượt xa nhiều nhà văn cùng thời và cả các thế hệ sau. Do phong trào chủ nghĩa vô chính phủ tại Trung Quốc rơi vào bế tắc nên Ba Kim mới chuyển sang viết những tác phẩm văn học.
Trong bức thư có một câu đáng được chú ý đặc biệt: “Trước kia, tôi cũng từng viết một bức thư tương tự cho một người mà tôi chưa từng gặp mặt”. Câu này được viết ngay sau câu: “Tôi hiểu khao khát hy sinh đó của bạn.” Ba Kim thời trẻ chính là một chiến binh của chủ nghĩa Anarchism tiến bộ. Ông cật lực phiên dịch và giới thiệu một lượng lớn các tác phẩm lý luận của những nhà cách mạng chủ nghĩa vô chính phủ, ông cũng thường trực tiếp viết thư gửi cho những thủ lĩnh cách mạng nơi phương trời xa mà mình sùng kính để bày tỏ tâm tình. Những thủ lĩnh cách mạng nổi tiếng ấy cũng luôn coi Ba Kim là người huynh đệ Trung Quốc hay người đồng chí trẻ tuổi, và hồi âm những bức thư dài vô cùng chân thành cho ông. Tới nửa thế kỷ sau, Trần Tư và một số người khác còn dịch lại và cho xuất bản những bức thư quý giá này. Nhà cách mạng của chủ nghĩa vô chính phủ người Ý-Vanzetti, người từng tới nước Mỹ để tổ chức phong trào lao động, ngay cả khi bị nhốt trong đề lao ở Boston, một tháng trước lúc bị xử tử bằng ghế điện, vẫn kiên trì hồi âm cho Ba Kim hai bức thư dài dù chưa từng gặp mặt. Bằng thái độ bình tĩnh, lô gic chặt chẽ và ngôn từ giàu suy luận, vị tiền bối sắp chịu án tử này đã khẳng khái giãi bày với Ba Kim về sứ mệnh lớn lao xây dựng xã hội mới và sáng tạo ra trật tự mới của những người theo chủ nghĩa vô chính phủ. Gọi Ba Kim của Trung Quốc là “Người đồng chí trẻ tuổi thân mến”, kết thư, Vanzetti viết: “Lý thân mến, giờ tôi muốn vui vẻ ôm lấy cậu như những người anh em!”
Trao đổi thư từ với Ba Kim nhiều nhất chính là Goldman-một người theo chủ nghĩa vô chính phủ quốc tế nổi tiếng, người phụ nữ thánh khiết này đã trở thành mẹ tinh thần của thanh niên Ba Kim.
Do giới hạn của cuốn sách nên tôi lược đi nội dung của những bức thư đó. Tôi chỉ muốn nói rằng, Ba Kim tiên sinh sau khi trở nên nổi tiếng, qua nhiều năm tháng, vẫn kiên trì viết thư hồi âm cho độc giả khắp nơi trên cả nước, không những vậy còn hết sức chân thành và tỉ mỉ, tuyệt đối không phải là cảm xúc nhất thời, mà là tinh thần kế thừa trịnh trọng của niềm tin, là sự theo đuổi “lòng vị tha”.
Hôm nay, thế hệ mang trong mình vô số những tạp niệm ích kỷ của chúng ta liệu có làm được như vậy?
Cách đây không lâu, một nhà văn đã thảo luận với tôi về vấn đề: Tại sao nền văn học Trung Quốc đương đại khó lòng vượt qua các bậc tiền bối, tại sao khó lòng vươn dậy và dẫn đầu thế giới? Theo tôi, ngoài mặt hạn chế của chính tiếng Hán thì điểm mấu chốt nằm ở chỗ, rất nhiều người trong thế hệ nhà văn chúng ta ngày nay không những thiếu đi sự tu dưỡng của Trung Quốc và phương Tây, mà còn chẳng có lấy niềm tin của riêng mình! Chúng ta chỉ dựa vào chút thông minh nhạy bén, thậm chí là khôn ngoan là đã có thể lăn lộn vào văn đàn, cho nên rất khó để trở thành những tài năng vượt trội. Thế hệ sau sáng tác trong môi trường đầy rẫy những thủ đoạn mưu cầu danh lợi của Trung Quốc, thậm chí dốc lòng cho những thứ cực kỳ mục rữa và đồi trụy của lĩnh vực văn học nghệ thuật. Một nhà văn, nếu có học vấn thực sự, lòng tin thực sự, đạo đức thực sự, phẩm chất thực sự, vậy thì ắt sẽ đạt được thành tựu lớn. Còn chúng ta vẫn đang hoang mang bất trắc, không biết phải đi về đâu. Ở đây, chúng ta không cần phải bàn về chức năng xã hội của văn học nghệ thuật, mà chỉ cần hỏi: Bạn muốn phát huy chức năng xã hội nào? Và phát huy chức năng nào cho cuộc sống? Từ tác phẩm hay tới tác phẩm lớn chưa bao giờ là sản phẩm của kẻ tầm thường hám danh lợi, mà là kết tinh của lý tưởng văn hóa cao quý. Tôi đã lấy ví dụ về Ba Kim cho nhà văn đó. Bài viết đầu tiên của Ba Kim vào tháng 4.1921 có tiêu đề “Làm thế nào để xây dựng một xã hội thực sự tự do và bình đẳng”, song lại không liên quan gì đến cái gọi là văn học thuần túy. Cho tới trước khi xuất bản cuốn Diệt vong năm 1929, ngoài việc sáng tác một số áng thi ca thì Ba Kim chủ yếu tập trung tinh lực cho hoạt động dịch thuật, giới thiệu các học thuyết chính trị và tuyên truyền lý luận của chủ nghĩa vô chính phủ, sẵn sàng hiến thân cho lý tưởng. Thử ngẫm, trên thế giới vốn nào có nhà văn thuần túy và văn học thuần túy. Phàm những ai thích dùng cách nói đó chẳng qua là do nghèo nàn cả về thế giới tinh thần lẫn xuất thân giai cấp, do không nghĩ ra được chủ trương gì hay ho nên mới nhắc tới văn học thuần túy cho xong. Thế nhưng văn học thì sao có thể thuần túy được chứ?
Trong bức thư này, Ba Kim tiên sinh còn nhắc đích xác một tác phẩm, chính là bài phóng sự nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ đầu - Mùa xuân ở Thái Nguyên năm 1936. Tác phẩm này của Tống Chi Đắc tiên sinh, cùng một số tác phẩm xuất sắc khác như Bán thân của Hạ Diễn tiên sinh, Bức tranh dân tị nạn của Tiêu Càn tiên sinh và tác phẩm ra mắt sau này - Góc Tây Bắc Trung Quốc của Phạm Trường Giang tiên sinh… đều được giới học thuật nhận định là những tác phẩm đặt nền móng cho văn học phóng sự đương đại Trung Quốc. Kể từ đó, thể loại văn học kiểu mới được du nhập từ Âu Mỹ này ngày càng trở nên thịnh hành, cho tới hơn nửa thế kỷ sau thì trưởng thành và ổn định hơn. Ba Kim tiên sinh đã thông qua những tác phẩm như thế để tìm hiểu về Sơn Tây cũ, “Biết được hoàn cảnh nơi bạn sống rất đặc biệt”. Diêm Tích Sơn cai quản hết sức chặt chẽ, ông ấy không cần tới cái gọi là chủ nghĩa vô chính phủ! “Tôi chỉ có thể nói với bạn đơn giản như vậy, để tránh gây phiền hà cho bạn”. Ba Kim quả rất cẩn trọng, trước năm 1937, ông đều thận trọng sử dụng từ “kháng Nhật”. Thư gửi tới nơi nằm dưới sự cai trị của Diêm Tích Sơn nên ông cũng không thể tùy tiện. Diêm Tích Sơn vì bảo vệ mảnh đất quê hương mà đã quyết tử đánh đuổi quân Nhật. Năm 1936, Diêm Tích Sơn cai quản vô cùng nghiêm ngặt, chỉ vì hồng quân bất ngờ vượt sông Hoàng Hà để vào Sơn Tây, lúc ấy, mặt trận thống nhất dân tộc kháng Nhật toàn quốc chưa được thành lập, Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản vẫn chưa hợp tác lần hai. Hồng quân đột kích uy hiếp chính quyền Diêm Tích Sơn, buộc họ phải chống trả. Một năm sau, kể từ “Biến cố ngày 7.7”, chiến tranh kháng Nhật nổ ra một cách toàn diện. Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản bắt tay hợp tác. Diêm Tích Sơn ra sức chĩa mũi súng đối ngoại, lại có thêm sự viện trợ của ba cánh quân chủ lực của quân giải phóng Đảng cộng sản Trung Quốc. Chỉ sau khi nền tảng vĩ đại này được thiết lập thì họ mới có thể công khai đứng vững ở Sơn Tây. Nếu bấy giờ có ai viết Mùa hè ở Thái Nguyên năm 1937 thì tình hình đã hoàn toàn đổi khác.
Mở rộng vấn đề, tôi cho rằng việc xây dựng lý luận văn học nghệ thuật của nước ta đang chịu sự giới hạn của lịch sử, cứng nhắc, giáo điều, làm sản sinh ra những điều lệch lạc. Văn học phóng sự thời kỳ đầu của Trung Quốc hay còn gọi là tác phẩm phi hư cấu, tác phẩm hiện thực tuyệt đối không chỉ liên quan tới cách mạng đỏ. Ngoài những tác phẩm đã kể ở trên của Hạ Diễn, Tống Chi Đích, Tiêu Càn, Phạm Trường Giang…; ngoài Ký sự nước Nga và Sử ký thủ đô đỏ của Cù Thu Bạch; ngoài những tác phẩm miêu tả Phong trào 30.5 của Mao Thuẫn, Diệp Thánh Đào…; ngoài tác phẩm phản ánh thảm án 318 của Chu Tự Thanh; ngoài tuyển tập Biến cố Thượng Hải và văn học phóng sự của A Anh… thì vẫn còn rất nhiều những sáng tác và khám phá của dòng văn học phóng sự, thành quả gặt hái được cũng hết sức phong phú. Kháng chiến qua đi, những thành quả ấy ngày càng lớn hơn, vậy mà chúng ta lại chỉ lựa chọn những tác phẩm liên quan tới cách mạng đỏ, chiến tranh đỏ và nhịp điệu đỏ.
Đây chính là một sự lệch lạc nghiêm trọng, cũng là một sự bất lực vô hạn.
Lấy Ba Kim làm ví dụ, ông cũng là một nhà văn theo đuổi dòng văn học phóng sự kể từ sau Phong trào Ngũ Tứ và đã cho phát hành một lượng lớn các tác phẩm xuất sắc. Nhưng chúng ta chỉ chọn những tác phẩm của ông được sáng tác vào thời kỳ kháng Mỹ cứu Triều Tiên được viết vào những năm 1950 như: Chúng tôi hội kiến Tư lệnh Bành Đức Hoài, Sống giữa những anh hùng…, còn về cuốn Ghi chép tản mạn được ông viết vào những năm cuối đời, được ca ngợi là “Một bộ sách lớn nói lên sự thật” thì lại chưa có bài nghiên cứu nào bàn về những cống hiến của Ba Kim khi đứng trên lập trường của “chủ nghĩa” khác để dốc hết sức mình đi khai phá dòng văn học phóng sự đương đại thời kỳ đầu ở Trung Quốc. Chúng ta dường như đều cho rằng: Cách mạng của họ đã thất bại rồi thì còn gì để nói? Qua khảo sát sẽ thấy, những tác phẩm phi hư cấu đã đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ đầu sáng tác của Ba Kim, thành quả đạt được khiến người ta phải kinh ngạc. Năm 1923, Ba Kim đã cho phát hành Biên niên sử Đại Sam với nhân vật chính là người theo chủ nghĩa vô chính phủ nổi tiếng, không lâu sau thì hoàn thành Truyện ký Berkman; đến năm 1926, ông viết liền hai tác phẩm Câu chuyện về người đi theo chủ nghĩa vô chính phủ Nga và Câu chuyện về người đi theo chủ nghĩa vô chính phủ Pháp; sau đó lại xuất bản cuốn Sự dẫn dắt của cách mạng, đồng thời viết bài Bi kịch giải phóng phụ nữ cho tạp chí Phụ nữ mới. Đáng được đặc biệt nhắc tới là, nhà cách mạng chủ nghĩa vô chính phủ quốc tế nổi tiếng Goldman, trong khi trao đổi thư từ với Ba Kim, đã gửi kèm “Danh sách những nhà cách mạng nữ nổi tiếng trong đề lao nước Nga” khiến người ta rùng mình. Nhờ vậy mà ông biết, phần lớn người bị giam giữ đều là những cô gái chỉ mới đôi mươi, với con số lên tới hơn bảy mươi người. Ba Kim đã tìm hiểu về nhóm người này, cuộc đời hy sinh vì chính nghĩa đầy lãng mạn mà bi thương của họ khiến Ba Kim không thể ngồi yên. Vậy là ông đã lần lượt cho ra đời một số sáng tác kể về những nhà cách mạng nữ của nước Nga mà ông kính trọng với mười nhân vật tiêu biểu như: Truyện kể Sophia, Truyện kể Zasolitch, Truyện kể Sertina…, rồi tập hợp thành cuốn sách Mười nữ kiệt nước Nga. Một cuốn tuyển tập văn học phóng sự bi tráng khác của Ba Kim có tên là Trên đoạn đầu đài, ông tập trung bút lực để phản ánh cuộc chiến đấu vĩ đại và sự hy sinh bi tráng của những thủ lĩnh chủ nghĩa vô chính phủ trong xã hội quốc tế. Cuốn thứ ba - Lịch sử cách mạng Nga - lại khắc họa câu chuyện về những nhà cách mạng tháng 12 và những lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại chính quyền tàn bạo của Sa Hoàng. Thanh niên Ba Kim không hề giấu giếm lập trường của mình: “Tôi đã dựng lên một đàn tế trong tâm can mình suốt bấy lâu nay để tôn thờ tất thảy những con người vì chính nghĩa mà hy sinh tính mạng trên đoạn đầu đài, đồng thời tôi cũng lập lời thề trước đàn tế này: Chừng nào tính mạng tôi còn tồn tại trên cõi đời này, thì tôi sẽ vẫn ngợi ca hành vi cao thượng và vĩ đại của những người đã khuất, đồng thời sẽ tiếp bước chí hướng của họ!”
Tiếc rằng, những tác phẩm này của Ba Kim cũng như những sáng tác văn học phi hư cấu thời kỳ đầu của các nhà văn khác, dẫu vô cùng đặc sắc và đa dạng, lại bị giới nghiên cứu phớt lờ và vứt bỏ chỉ vì sự khác biệt giữa quan điểm lập trường của họ với sự đánh giá chính thống sau này!
Nên coi chủ trương và sự sáng tạo của những tác phẩm này là một phần của con đường gian nan khám phá văn học mới của tổ quốc kể từ khi phần tử tiên tiến của dân tộc Trung Hoa lật đổ đế quốc phong kiến. Nhà văn phải lên án cái đen tối, hướng tới những gì tươi sáng, tác phẩm phải giàu tính nhân dân, như Trần Đan Thần tiên sinh từng nói: “Ngay từ ban đầu đã có ý thức nhân loại nhìn ra thế giới, suy ngẫm về những vấn đề chung của toàn nhân loại.”
Những năm gần đây, lời kêu gọi viết lại lịch sử văn học đương đại vang vẳng bên tai, nếu thực sự muốn làm thì phải dám xây dựng quan điểm lịch sử mới, tôn trọng tư tưởng Trung Quốc từ bao đời nay. Ngoài ra thì không còn cách nào khác.
Danh tác Mùa xuân ở Thái Nguyên năm 1936 của Tống Chi Đích tiên sinh được đăng trên số đầu tiên của tạp chí Trung lưu vào ngày 5.9.1936. Nghe nói cả Lỗ Tấn và Mao Thuẫn đều từng đọc bản thảo đó, Mao Thuẫn còn đích thân viết bài bình luận. Ba Kim nhắc tới tác phẩm này trong thư, chứng tỏ ông vừa mới đọc nó cách đó không lâu, điều này cũng cho thấy tác phẩm ngắn ấy đã tạo ra sức ảnh hưởng rất lớn lúc bấy giờ.
Tống Chi Đích tiên sinh đã mô tả Thái Nguyên cũ là một “thành phố chết”, nói rằng nơi này “Tin đồn tràn lan, lòng người hoang mang”, nữ sinh bị tàn sát trước mũi súng, binh lính, thổ phỉ hung hãn vô bỉ. Chẳng trách Ba Kim tiên sinh lại lo ngại cho tình cảnh của Đại Lợi.
Triệu Đại Lợi rốt cục là một cô gái như thế nào? Dung mạo của cô ấy ra sao? Tại sao cô ấy có thể khiến cho Ba Kim thời trẻ quan tâm đến vậy?