Ở vùng đất Sơn Tây, ai nấy đều phải trở về nhà mỗi dịp Tết đến, người dân ở đây rất coi trọng truyền thống. Văn hóa dân gian Trung Quốc từ hàng ngàn năm được tạo nên bởi sự lưu truyền của hàng triệu người. Làn sóng chống lại nhà nước phong kiến chuyên chế, chống lại sự trói buộc của gia đình, chống lại sự độc đoán gia trưởng vào trước và sau “Phong trào Ngũ Tứ” quả thực chứa đựng nhu cầu lịch sử của thời kỳ đó. Việc rũ bỏ quy tắc cũ của gia tộc, đề cao sự quay lưng của cá nhân lúc bấy giờ thực chất vẫn là nhắm vào Viên Thế Khải và các thế lực cũ đang hấp hối. Đã có biết bao thanh niên mới đã đơn phương chấp nhận tư tưởng phương tây, hướng về cuộc sống đấu tranh cách mạng, họ coi những lề lối xã hội và gia đình kiểu cũ là nấm mồ đen tối, như thể nếu không thoát ly, không dứt bỏ khỏi sự lệ thuộc, thì cuộc đời sẽ không còn hy vọng, rồi sẽ mãi bị chôn thân giữa bốn bức tường kín trong nhà. Trong đời sống thực tế, việc chống lại sự mục rữa của xã hội phong kiến và tình cảm máu mủ trong gia đình không nên tạo thành mâu thuẫn, chúng không hề có mối liên hệ nhân quả. Sự bền vững của gia đình và chân thiện mỹ của nhân tính chính là mục đích cuối cùng của cách mạng. Mọi học thuyết và lý tưởng xã hội chẳng phải là vì muốn mang tới cuộc sống tốt đẹp hơn cho các thành viên trong hàng ngàn hàng vạn gia đình hay sao? Kết quả, cuộc đấu tranh kéo dài hàng chục năm, gia đình vẫn không thay đổi, thâm tình vẫn vẹn nguyên, ánh đèn gia đình toả sáng trong đêm dài vẫn luôn là hòn đảo an toàn ổn định nhất và lý tưởng nhất của chúng ta sau mỗi trận phong ba bão táp. Quan niệm gia đình tư hữu, sự cặn bã của chế độ phong kiến lạc hậu, rốt cục đã được thay đổi hay chưa? Đã thay đổi được bao nhiêu phần? Điều này rất khó nói. Lâu nay tôi nhận thấy, gia đình của những cán bộ cấp trung và cấp cao gồm cả nhiều nhà hoạt động cách mạng, nhìn chung tình cảm gia đình của họ được bộc lộ khá nhạt nhòa trong suốt thời gian dài, họ ít liên lạc với người thân, trạng thái chiến đấu không ngừng nghỉ của họ quả thực có liên quan tới bối cảnh lịch sử. Chỉ trách than tổ chức quản lý nghiêm ngặt, năm tháng đẫm máu, di chứng tàn khốc mà cuộc sống chiến đấu để lại, chớ được coi thường…
Tác phẩm Gia đình của Ba Kim tiên sinh nhận được sự yêu mến và sùng bái sâu sắc của đông đảo thanh thiếu niên sống vào thời đại lớn đầy căm phẫn ấy. Lý Kiện Ngô bình luận về điều này như sau: Trái tim của Ba Kim đã “Thiêu đốt trái tim của họ, cảm xúc của ông cũng chính là cảm xúc u uất của họ”. Trong thư gửi Ba Kim, Thẩm Tùng Văn viết: “Anh đã nói hộ tâm tư của hầu hết những người trẻ tuổi, do đó đã nhận được sự yêu mến và kính trọng của hầu hết những người trẻ tuổi!”. Lý Tồn Quang cho rằng: “Qua những tác phẩm của Ba Kim, lớp độc giả thanh niên đã nhận thức được hoàn cảnh sống của mình, nhận thức được gia đình cũ bóp nghẹt con người và xã hội cũ nuốt chửng con người…, đã xây dựng nên hình mẫu lý tưởng vươn dậy đấu tranh cho thế hệ thanh niên”. Từ Trung Ngọc nhận định: “Cuộc đấu tranh gia đình thực ra cũng chính là cuộc đấu tranh xã hội… Chừng nào nhiệm vụ chống lại đế quốc, chống lại phong kiến vẫn chưa được hoàn thành thì bộ ba tác phẩm của Ba Kim sẽ vẫn chứa đựng giá trị quan trọng”. Lỗ Tấn còn dâng trào cảm xúc chỉ ra: “Trước hết Ba Kim muốn cho mỗi độc giả biết rằng, ‘Gia đình’ chính là nấm mồ của thanh niên, thanh niên chớ nên chôn thân trong nấm mồ này mà phải vùng lên đấu tranh. Đấu tranh không khoan nhượng, thoát ly khỏi gia đình. Bằng không sẽ phải chết dần chết mòn…”
Lý lẽ quả hết sức xác thực và quyết liệt.
Khi văn học sắc đỏ, tức văn học cách mạng phát triển tới cực điểm, quan niệm gia đình lại xung đột với đấu tranh hiện thực. Lấy tám vở kịch sân khấu tiêu biểu làm ví dụ, chúng tuyệt nhiên không đề cập tới cuộc sống và tung tích của các thành viên trong gia đình. Chồng của cô A Khánh tới Thượng Hải làm dân buôn, chồng của Kha Tương bị giết hại, Thiếu Kiếm Ba và Hồng Thường Thanh đều không hề có câu chuyện tình yêu, duy chỉ có trong Hồng đăng ký mới hiếm hoi nhắc tới gia đình ba thế hệ, song người bà lại nói với Lý Thiết Mai rằng: “Cha cháu không phải là cha ruột của cháu, bà cũng không phải là bà ruột của cháu”.
Bất kỳ tác phẩm văn học nghệ thuật nào cũng đều được sản sinh ra bởi thời đại.
Số thư mà Ba Kim tiên sinh gửi cho Đại Lợi cũng là sản phẩm của thời đại hỗn loạn ấy. Qua đó chúng ta mới thấy, lý tưởng và tinh thần đấu tranh của Ba Kim thời trẻ tuy rằng cấp tiến, song lại tỏ ra hết sức ôn hòa khi đối đãi với con người và sự việc cụ thể. Có lẽ, những người theo chủ nghĩa vô chính phủ đều mang bản chất hai mặt nên mới có sự khác biệt rõ rệt trong “đối đãi với sự việc” và “đối đãi với con người”, tuy khác biệt, mâu thuẫn, song lại hòa hợp, thống nhất. Khi đối đãi với sự việc thì trở thành đồng minh của cách mạng bạo lực, còn khi đối đãi với con người lại trở thành nhóm người ôn hòa giàu tình cảm. Bức thư thứ bảy của Ba Kim tiên sinh vẫn giữ vững cái tinh thần đó.
Đại Lợi:
Tôi đã nhận được thư của bạn. Bạn đã nói rất nhiều về cuốn Văn ngắn, khiến tôi vô cùng cảm động. Tôi xin cảm tạ sự quan tâm của bạn.
Về cuốn Đêm chưa sáng, không phải là tôi không muốn gửi cho bạn, chỉ là cuốn sách ấy đến nay vẫn chưa được in ra, bạn đừng trách tôi nhé. Bây giờ tôi sẽ gửi cho bạn một bản sách mẫu, song trong đó không có hình minh họa. Cuốn sách mẫu này chỉ có ba tập, nó được đóng cho một người bạn để dùng cho buổi diễn tập.
Gia đình quý tộc và những cuốn sách khác mà tôi gửi đi chẳng hay bạn đã nhận được chưa? □ hoàn lại của công ty Lương Hữu □□ đã nhận được. Sau này tôi sẽ mua tiếp một số sách gửi cho bạn.
Tuyển tập văn học hiện giờ lại bị cấm. Chúng tôi sẽ cho phát hành một tờ báo mới như thời gian đã định, nội dung như nhau. Nội dung của Tuyển tập văn học không được xem là tệ, cũng không có bài viết nào gay gắt, không có lý do gì để bị cấm. Vậy mà nó vẫn bị cấm như Văn quý nguyệt báo. Có lẽ bạn sẽ không tin chuyện này. Song bạn cứ yên tâm, chúng tôi sẽ có ấn phẩm tương tự để bạn đọc.
Sách của Nietzsche không phù hợp với các bạn, trong tình cảnh đó, triết học siêu phàm của ông ấy đã giúp tôi, song trước và sau khi đọc chúng, có một vài chỗ lại khiến tôi thấy phản cảm, cho nên tôi sẽ không giới thiệu cho bạn.
Có lẽ tôi sẽ không ở lại □Thượng Hải vào tháng □□□. Sau này cũng chưa biết sẽ ở đâu. Bạn hãy cứ gửi thư. Thư gửi đến Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống sẽ được chuyển tới tay tôi. Có thể tôi sẽ gửi cho bạn một số bức ảnh trong chuyến đi.
Mong bạn sống tốt!
Chúc tốt lành!
Kim, ngày mùng sáu tháng Tư
Bức thư này cũng dùng loại giấy như bức thư trước, kiểu hàng dọc, viết trên hai trang.
Cuốn Văn ngắn mà Đại Lợi nhắc nhiều trong thư, chính là tuyển tập thơ văn ngắn mà Ba Kim từng giao lưu với rất nhiều độc giả thanh niên, không biết trong đó có nhắc tới Triệu Đại Lợi? Tiếc là tôi chưa được đọc nó. Bức thư này của Đại Lợi khiến Ba Kim vô cùng cảm động.
Trong thư lại một lần nữa nhắc tới Đêm chưa sáng, Đại Lợi chờ mãi mà chưa nhận được cuốn sách này, xem chừng đã hơi chút sốt ruột, Ba Kim bèn gửi cho cô bản sách mẫu được sử dụng cho người bạn tập kịch. Đủ thấy thế hệ của họ hết sức coi trọng vở kịch ấy. Chúng ta hãy bàn thêm một chút về tác phẩm này.
Giới nghiên cứu đều cho rằng, vở kịch Đêm chưa sáng của tác giả theo chủ nghĩa vô chính phủ người Ba Lan Leopold Kampf có ảnh hưởng rất lớn đến thanh niên Ba Kim. Ngoài ra còn có Nói với thiếu niên của nhà văn-nhà triết học người Nga Pyotr Alekseyevich Kropotkin, loạt tác phẩm của “Mẹ tinh thần” Emma Goldman, cùng rất nhiều tác phẩm của các nhà văn khác đã hội tụ nên nguyên tố tư tưởng cơ bản nhất và quan trọng nhất cho thanh niên Ba Kim. Bối cảnh của Đêm chưa sáng thật hào hùng và bi tráng, một nhóm thanh niên cách mạng, không tiếc đổ máu hy sinh, bí mật tổ chức đấu tranh chống lại sự cai trị đen tối của Sa hoàng, họ sùng bái hy sinh, dựa dẫm bạo lực. Nhân vật chính Wassily và Anna bị lún sâu vào mâu thuẫn giữa tình yêu và cách mạng. Đến cao trao của vở kịch, Anna đã kiên định phát tín hiệu để thông báo cho người yêu Wassily thực hiện hành động ám sát Thống đốc, vì vậy mà Wassily đã anh dũng hy sinh. Về điều này, vào năm 1935, Ba Kim đã bình luận: “Trong số những kịch bản miêu tả về tình yêu và cái chết mà tôi từng đọc thì cuốn Đêm chưa sáng được coi là hay hơn cả”. Năm 1935, trong Niềm tin và hành động, Ba Kim tiên sinh viết: “Trong Đêm chưa sáng, tôi đã nhìn thấy tấn bi kịch của một thế hệ thanh niên ở một quốc gia khác đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân dân, lần đầu tiên tôi tìm thấy người anh hùng trong mộng, tìm thấy sự nghiệp suốt đời của tôi”. Có thể thấy vở kịch này có ý nghĩa rất to lớn đối với thanh niên Ba Kim, không hề thua kém sức ảnh hưởng của Goldman - “Người đầu tiên cho tôi thấy được vẻ đẹp của chủ nghĩa Anarchism.” Diệt vong - cuốn tiểu thuyết đầu tay của Ba Kim ra đời năm 1928 cũng viết nên câu chuyện kịch tính miêu tả Thượng Hải dưới sự cai trị của quân phiệt, người thanh niên cách mạng Đỗ Đại Tâm do ám sát Tư lệnh vũ trang thất bại đã nổ súng tự sát.
Khó có thể đo đếm được tác động thầm lặng của những tác phẩm văn học nghệ thuật lên con người. Chúng ta không khó nhận ra, Đêm chưa sáng, danh tác Nora của nhà soạn kịch người Na Uy Henrik Johan Ibsen cùng nhiều tác phẩm khác đã ảnh hưởng sâu sắc tới Ba Kim, các tác phẩm của Ba Kim cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới những con người như Đại Lợi, hình thành nên khí chất tinh thần chung của hàng ngàn hàng vạn thanh niên trí thức thời đó.
Những tòa nhà kín mít cổ xưa sao mà trói buộc được con tim họ? Qua thư có thể thấy, những vở kịch như Đêm chưa sáng hay Nora đã khuấy đảo giới trí thức Trung Quốc vào những năm 20 của thế kỷ trước, cho đến tận nửa đầu năm 1937 vẫn còn được diễn tập.
Trong thư cũng nhắc tới việc Tuyển tập văn học vừa ra đời chưa lâu song “Hiện giờ lại bị cấm”, còn nói tờ báo này: “Không có bài viết nào gay gắt, không có lý do gì để bị cấm. Vậy mà nó vẫn bị cấm như Văn quý nguyệt báo”. Về điều này, tôi không tìm thấy ghi chép cụ thể nào trong những tư liệu nghiên cứu về Ba Kim. Theo nghiên cứu của Nghê Mặc Viêm tiên sinh, trong khoảng thời gian mười năm từ năm 1927 đến năm 1937, chính quyền Quốc dân Đảng đương thời đã từng cấm trên 2000 loại sách báo. Trong danh mục 149 loại sách ảnh bị cấm vào ngày 19.2.1933 có cả tuyển tập Manh nha của Ba Kim do Cục Sách hiện đại xuất bản. Nếu đem so sánh thì sách của Lỗ Tấn và những người khác còn bị cấm nhiều hơn trong danh mục kể trên. Phùng Tuyết Phong, Tưởng Quang Từ và Đinh Linh, mỗi người bị cấm bảy đầu sách; Quách Mạt Nhược và Mao Thuẫn mỗi người bị cấm chín đầu sách, Lỗ Tấn bị cấm trên mười đầu sách! Tuyển tập văn học từng bị cấm, cho tới sau tháng 5.1938 thì được Ba Kim và Cận Dĩ phát hành lại, đây là sự thực. Về quá trình ngừng xuất bản vẫn cần thỉnh giáo các chuyên gia.
Đoạn triết học về nhà triết học người Phổ Friedrich Nietzsche mà Ba Kim nhắc tới trong thư, ý vị sâu xa, nhất thời khó mà nói rõ cho được. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, tôi cũng từng đọc tác phẩm của Nietzsche và nhà triết học người Đức Arthur Schopenhauer, bây giờ nhớ lại vẫn còn mơ hồ, cảm thấy vô cùng xa cách với ngọn núi Thái Hành Sơn hùng vĩ mà tôi đang dựa vào. Câu nói sau cùng: “Mong bạn sống tốt” đủ khiến lay động lòng người.
Ba tháng sau khi bức thư này được gửi đi, cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Nhật Bản nổ ra. Ngày 13.8, quân Nhật tấn công Thượng Hải với quy mô lớn, quân và dân Trung Quốc đứng dậy chống trả. Cuộc triến tranh vệ quốc kéo đến ngày 12.11, Thượng Hải cuối cùng bị rơi vào tay kẻ thù, quân đội Trung Quốc buộc phải rút khỏi chiến trường. Giữa sự thiêng liêng và bi tráng, Ba Kim vẫn kiên định sát cánh cùng các chiến sĩ văn hóa để cứu quốc. Nhà xuất bản Văn quý nguyệt báo của ông đã bắt tay liên hợp với các nhà xuất bản Trung lưu, Dịch văn và Tác gia, rũ bỏ hết mọi hiềm nghi trước kia, cùng Mao Thuẫn lập ra ấn phẩm kháng chiến Gào thét (sau hai kỳ phát hành đã được đổi tên thành Khói lửa), đoàn kết một số lượng lớn những chiến sỹ văn hóa để cùng nhau tiến công pháo đạn của kẻ thù! Khói lửa đã tập hợp được đông đảo những nhà văn và chiến sĩ. Họ là:
Ba Kim, Mao Thuẫn, Phùng Tuyết Phong, Quách Mạt Nhược, Hạ Diễn, Trịnh Chấn Đạc, Vương Thống Chiếu, A Anh, Trần Vọng Đạo, Trâu Thao Phấn, Hồ Dũ Chi, Điền Hán, Cận Dĩ, Lê Liệt Văn, Hoàng Nguyên, Hồ Phong, Lô Phần, Điền Gian, Âu Dương Dư Thiến, Trâu Dịch Phàm, Sái Nhược Hồng, Tiêu Càn, Đoan Mộc Hồng Lương, Phong Tử Khải, Lục Lê, Bích Dã, Lưu Bạch Vũ, Lạc Tân Cơ, Dương Sóc, Chu Văn, Lỗ Ngạn, Lâm Hám Lư, Kiển Tiên Ngải, Tôn Dụng, Tư Mã Văn Sâm, Tôn Điền, La Hồng, Điền Nhất Văn, Tiền Quân, Chu Văn, Mạnh Thập Hoàng, Trần Yên Kiều, Lực Quần, Tạ Đĩnh Vũ, Tiêu San…
Thượng Hải bị chiếm đóng, Mùa xuân của Ba Kim vẫn chưa được viết xong, kế hoạch ngao du muôn nơi của ông phải tiếp tục lùi lại. Đã có rất nhiều độc giả từ các nơi gửi thư và gọi điện tới bày tỏ mối quan tâm tới sự an toàn của Ba Kim. Thiếu nữ Thiên Tân tên là Dương Dĩ, tuổi cũng mười bảy, trong thư gửi Ba Kim đã viết: “Tiên sinh, ngài cũng đang rơi vào số phận tương tự. Tôi muốn được biết về sự an toàn của ngài”. Ba Kim vì thế mà cảm động rơi lệ. Từ đây, chúng ta cũng nảy sinh một câu hỏi: Thiếu nữ Sơn Tây Triệu Đại Lợi phải chăng cũng từng gửi thư hỏi thăm cho Ba Kim? Nếu có, vậy thì phải thấy Ba Kim hồi âm mới phải. Có lẽ do ở cuối bức thư thứ bảy Ba Kim tiên sinh đã nhắc tới việc đi du ngoạn sắp tới, “Sau này cũng chưa biết sẽ ở đâu”, còn nói “Có thể tôi sẽ gửi cho bạn một số bức ảnh trong chuyến đi”, kể từ đó Đại Lợi không còn gửi thư tới Thượng Hải. Cũng có thể Đại Lợi từng viết thư, song do hai vùng Sơn Tây và Thượng Hải đang trong chiến loạn, nên Ba Kim cũng không có thời gian để trả lời. Hoặc có lẽ vẫn còn nguyên nhân phức tạp hơn mà chúng ta chưa biết.
Sơn Tây nằm ở tuyến đầu, tiên phong kháng Nhật. Quân đội của Tưởng Giới Thạch, quân đội Sơn Tây và quân đội của Đảng cộng sản Trung Quốc cùng quân đội Tây Xuyên và quân đội Vân Nam, dưới sự chỉ huy thống nhất chiến khu 2 của Diêm Tích Sơn đã phát động chiến dịch Hân Khẩu, thề chết bảo vệ Sơn Tây. Trận chiến diễn ra hết sức dữ dội. Trong chiến dịch này, cánh quân do Lâm Bưu chỉ huy đã dành được những thắng lợi lớn ở cửa ải Bình Hình Quan và một số nơi khác. Cuộc chiến đấu hết sức ác liệt. Đến ngày 8.11.1937, cánh quân Hoa Bắc của Nhật đã chiếm đóng Thái Nguyên. Lúc đó, quân chủ lực Sơn Tây, các cánh quân của Quốc dân Đảng và quân đội của Đảng cộng sản đã gặp khó khăn khi phải chuyển sang một cuộc kháng chiến du kích kéo dài. Tôi nhận ra rằng, Thượng Hải và Thái Nguyên, một ở phía Nam và một ở phía Bắc, gần như rơi vào cảnh chiến loạn cùng một lúc.
Bấy giờ, Ba Kim tiên sinh đang tích cực cho ấn hành văn chương kháng chiến ở khắp nơi, chẳng hay tiểu thư Đại Lợi ở Sơn Tây có đọc được chúng không? Như đã kể trước đó, cha của Đại Lợi là Triệu Đình Nhã và người chú Triệu Đình Anh không phải là những kẻ chống phá cách mạng, nhưng lại đầu hàng và làm tay sai cho địch. Đại Lợi chứng kiến Ba Kim tiên sinh kiên quyết chống lại kẻ thù như vậy thì tâm trạng phải chịu sự đả kích lớn tới mức nào? Và gửi thư giãi bày ra sao?
Lịch sử dân quốc, lịch sử kháng chiến quả thực muôn hình vạn trạng, phức tạp rối ren.
Đến đây, mỗi người dân thực sự đều khó lòng bình tâm cho được.
Triệu Đại Lợi, cô ấy có phải là con gái của Triệu Đình Nhã hay không? Cô ấy chính là người con gái “Để kiểu tóc xõa” trong ký ức của các cụ già ở phố cổ phải không?
Phẫn uất, đau khổ, tiếc nuối, mong chờ, cầu nguyện, tất cả đều hội tụ trong con tim chúng ta.
Ba Kim và Đại Lợi ngừng trao đổi thư từ giữa lúc non sông tan đàn, tổ quốc lâm nguy, đây chính là quy luật của muôn đời, là sự thực không thể thay đổi.