• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bảy bức thư bị đánh mất
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 23
  • Sau

14Người phu kéo xe ở Thành Ninh Vũ

Sự việc đã tới đây, trước mối nghi vấn của bảy bức thư mà Ba Kim gửi cho Đại Lợi, buộc tôi phải điều tra đến cùng.

Sau Tết năm 2009, tôi từ mạn Đông Nam Sơn Tây trở về thành phố Thái Nguyên.

Trương Phát huynh và tôi sống trong cùng một tòa nhà. Tảng sáng ngày 8.2, hai người gặp nhau, chỉ nói đúng một từ “Đi”, vậy là khởi động chiếc xe việt dã 4500 của tôi, rời khỏi Thái Nguyên tới Ninh Vũ để gặp Vương Thụ Sâm tiên sinh.

Đêm qua tuyết rơi dày, người trong thành phố dường như chẳng hề bận tâm. Chúng tôi lái xe tới lối vào đường cao tốc mới biết toàn bộ con đường đã bị phong tỏa cấm thông hành. Hai người bàn bạc chốc lát, rồi quyết định chuyển sang tuyến đường quốc lộ 208 cũ, đi qua Hân Châu để tới Ninh Vũ. Quãng đường chưa tới 200 km, ngày thường đâu làm khó được chúng tôi.

Chẳng ngờ, trên con đường quốc lộ cũ, trời lạnh đường trơn, khiến cánh lái xe không khỏi rùng mình, hàng ngàn chiếc xe lượn lách ngang dọc, hiểm nguy muôn phần. Nếu không có Trương Phát huynh thạo đường lại liều lĩnh nhiều lần xuống xe điều hướng, chỉ e tối hôm đó khó lòng đến nơi.

Ninh Vũ Quan là tên một vở kịch kinh điển của nghệ thuật Kinh kịch xưa, xướng ca Trung Quốc, cũng là tác phẩm yêu thích nhất của Trương Bá Câu - một trong tứ đại công tử thời dân quốc.

Nhà văn Ninh Vũ Vương Thụ Sâm, tuổi đã trung niên, chất phác nồng hậu. Trong gió lạnh, anh quấn mình thật chặt trong lớp áo dày, đơn độc chờ ở cổng thành hồi lâu.

Sau lời chúc Tết muộn, chúng tôi ngồi xuống chuyện trò. Vương tiên sinh kể chi tiết về cuộc điều tra sơ bộ, đồng thời cũng bộc lộ khá nhiều cảm xúc.

Trước hết nói về “Biệt phủ chín dãy” huy hoàng một thời kia, trải qua gió dập mưa vùi hơn sáu mươi năm, nó sớm đã trở nên hoang tàn, hiu quạnh. Ngày nay, ở Sơn Tây chỉ còn lưu giữ một số ít những biệt phủ. Lý do chúng được bảo tồn chủ yếu là vì những ngôi nhà ấy trước kia từng là căn cứ của quân đội và chính quyền các cấp. Chẳng hạn như phủ họ Kiều từng là trụ sở của trường đảng ủy Sơn Tây; phủ họ Tào bị chính quyền công xã chiếm dụng; phủ họ Thường từng làm nơi đóng quân của quân đội và viện điều dưỡng. Trong khi đó, thành cổ Bình Dao vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn, bởi lẽ trình độ công nghiệp hóa ngày trước còn chưa cao, phát triển kinh tế còn chậm chạp, việc mở rộng ra vùng ngoại ô còn chưa cấp thiết, người dân còn rất nghèo, chính quyền không muốn bỏ ra một số tiền lớn để phá thành nhằm dẹp yên mâu thuẫn xã hội, cũng là vì muốn tránh khỏi rắc rối nên mới không hủy hoại thành cổ. Kỳ thực, ở các huyện lỵ của Sơn Tây vốn có rất nhiều thành cổ đồ sộ, Bình Dao chẳng qua chỉ là một phần nhỏ trong số đó. Phủ họ Vương ở huyện Linh Thạch, phủ Hoàng Thành ở huyện Dương Thành, nơi ở cũ ven sông của Diêm Tích Sơn và nhiều biệt phủ dinh thự cổ khác, do được quy hoạch sau cải cách ruộng đất nên tài sản nhà cửa được lưu giữ và bảo tồn. Còn trong thành phố, do thị dân phức tạp, hộ khẩu thay đổi liên tục, cải tạo và phá dỡ thường xuyên, bởi vậy mà còn lại rất ít biệt phủ lớn.

Biệt phủ chín dãy của nhà họ Triệu ở Ninh Vũ, trải qua chiến loạn, nay chỉ còn lại một chút tàn tích, quả là đáng tiếc. Nếu hỏi về số phận của lớp con cháu trong gia tộc này, e rằng sẽ chỉ càng bi thảm, thê lương hơn mà thôi. Ninh Vũ thuộc phân khu thứ 6 của vùng biên giới Sơn Tây và Tuy Viễn [2]. Sau kháng chiến, chính quyền đấu đá, giai cấp đấu tranh, các phong trào tàn khốc diễn ra dai dẳng, người với người sát đấu lẫn nhau, anh chết tôi sống, những gia tộc như nhà họ Triệu vẫn có kết cục tốt đẹp được hay sao? Cuộc cải cách ruộng đất ở Sơn Tây nổi tiếng là khốc liệt. May thay, nhà họ Triệu bị tịch thu tài sản vào mùa hè năm 1946 khi mà cuộc cải cách ruộng đất ở mạn Tây Bắc Sơn Tây vẫn chưa diễn ra gay gắt. Vào giai đoạn đầu của công cuộc cải cách ruộng đất, phân cục của Đảng cộng sản Trung Quốc ở Sơn Tây và Tuy Viễn vẫn còn mềm mỏng biên soạn ra văn kiện Cách phân chia thành phần giai cấp nông dân, rồi đem in thành một cuốn sách nhỏ, nhấn mạnh về các chính sách đấu tranh, “Bảo vệ lợi ích của trung nông, quan tâm đúng mức tới địa chủ nhỏ và vừa cũng như phú nông, chú ý tới tình hình phân chia, chỉ đạo phân loại”. Nhà họ Triệu tan rã, người trong gia tộc chia lìa, bỏ trốn thân vong. Đáng sợ hơn là vào tháng 3 năm sau, như chúng ta đều biết, Khang Sinh và Trần Bá Đạt cùng lúc đổ bộ tới vùng Tây Bắc Sơn Tây, cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất mới lại sục sôi. Khang, Trần chỉ trích phân cục Sơn Tây đã quá cứng nhắc trong việc chỉ đạo cải cách ruộng đất, họ cho rằng những văn kiện kia là “Thứ hại chết con người”, cần phải “Mau chóng đem đốt nó đi”. Cứng nhắc tới mức “Quần chúng muốn làm gì thì làm”. Bấy giờ còn có khẩu hiệu như thế này: Bần nông nắm quyền thiên hạ, nói sao phải nghe vậy! Ngay tới những chí sĩ tiến bộ nổi tiếng như Ngưu Hữu Lan và Lưu Thiếu Bạch từng tài trợ rất nhiều cho quân đội Đảng cộng sản Trung Quốc, con trai của Ngưu Hữu Lan còn là cán bộ của Đảng, cả gia đình đều rất hiền đức, ấy vậy mà đến thời kỳ này cũng khó thoát khỏi kiếp nạn. Em trai của Lưu Thiếu Bạch là Lưu Tượng Khôn còn bị đánh chết tại chỗ trong cuộc họp đấu tranh, sau đó bị ném xác xuống sông Hoàng Hà. Chuyện kể rằng, Khang Sinh từng đích thân hạ lệnh sai người bắt Ngưu Hữu Lan tới để quát nạt, dạy dỗ: “Ông đã mang họ Ngưu, vậy thì phải đối đãi với ông như đối đãi với trâu bò!” Thực tế tàn nhẫn như sau: Trong cuộc họp đấu tranh, đám du côn đã dùng dây sắt (Theo như nhà văn Sơn Tây Lỗ Thuận Dân khảo chứng thì đó là chiếc trâm bạc) đục lỗ mũi của Ngưu Hữu Lan, sau đó luồn dây thừng, rồi để con trai đẻ của ông dẫn “Ngưu” (tức Trâu) đi diễu phố! Tàn bạo đến tận cùng xấu xa của nhân tính.

[2] Tuy Viễn là tên một tỉnh cũ của Trung Quốc, thuộc khu vực Nội Mông Cổ ngày nay.

Không lâu sau, Sách chỉ đạo nhân dân được ban hành, công bố bốn tiêu chuẩn “trừng phạt” cho toàn khu vực, khiến lòng người hoang mang:

Một là, “Bất kể là địa chủ nhỏ hay lớn, địa chủ nam hay nữ, địa chủ trong hay ngoài thôn, địa chủ che giấu phong kiến, giả nghèo, địa chủ đóng giả thương nhân và nông dân, mọi người đều có thể thanh trừ… Địa chủ phản động ác bá, bất kể là ai, mọi người muốn trừng phạt thế nào cũng được”.

Hai là, “Trong số phú nông, thì phú nông lộng hành, những kẻ ác bá, mọi người muốn trừng phạt thế nào cũng được”.

Ba là, “Trong số nông dân, những kẻ ác bá, tay sai của giặc và địa chủ, mọi người muốn trừng phạt thế nào cũng được”.

Bốn là, “Những phần tử thuộc Đảng, chính quyền, quân đội, nhân dân và tất cả những cơ quan khác giả danh là tầng lớp khác, những kẻ ác bá mới, kẻ phản động…, mọi người muốn đấu tranh thế nào cũng được!”

Như vậy khác nào không có tiêu chuẩn gì!

Sau cuộc xâm lược của quân Nhật, vùng Tây Bắc Sơn Tây bỗng lại một lần nữa rơi vào cảnh máu đổ xương tan. Giả như nhà họ Triệu lúc bấy giờ vẫn ở Ninh Vũ, vậy thì hậu quả thật khó có thể tưởng tượng được.

Ngày 18.3.1947, Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc rút khỏi Diên An theo hai con đường. Một trong hai cánh quân do Bí thư Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức chỉ huy. Tới đầu tháng 4, họ vượt sông Hoàng Hà đi về phía Đông để tới mạn Tây Bắc Sơn Tây, tiến vào khu vực Sơn Tây-Hà Bắc-Tuy Viễn, vào đầu tháng 7 thì dừng chân ở Tây Bách Pha. Trong chuyến đi này, Lưu Thiếu Kỳ đã họp mặt với Khang Sinh, Hạ Long, Lý Cảnh Tuyền và những người khác trong phong trào cải cách ruộng đất ở Sơn Tây, họ đã điều tra nghiên cứu và thảo luận về các vấn đề cải cách ruộng đất trong ba ngày liên tiếp. Sau khi tình hình ở Tây Bách Pha ổn định, Lưu Thiếu Kỳ đã nhanh chóng tổ chức hội nghị công tác đất đai toàn quốc. Khang Sinh và Trần Bách Đạt cũng tham dự hội nghị này với kinh nghiệm cải cách ruộng đất dày dạn, chung sức cùng lãnh đạo của các khu vực khác thúc đẩy cải cách ruộng đất trên toàn quốc. Đến ngày 10.10, bộ Đại cương về luật đất đai Trung Quốc ra đời, đề ra khẩu hiệu chia đều đất đai một cách triệt để, đồng thời phải kết hợp với sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm sự trong sạch cho cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất từ tổ chức. Nhà văn Hồ Bình Tằng từng bình luận về điều này như sau: “Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, việc tổ chức một hội nghị về cải cách ruộng đất với quy mô lớn nhất từ trước đến nay, cũng như chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của Đảng cộng sản Trung Quốc, đã làm nổi bật tầm quan trọng của việc cải cách ruộng đất trong cách mạng Trung Quốc… Cơ hội sống sót cuối cùng của vương triều Tưởng Giới Thạch ở đại lục kỳ thực đã bị chính hội nghị lần này đánh bay”.

Phải vậy, những nhà hoạch định chính sách cần mượn cánh tay của người khổng lồ để hạ gục kẻ thù cường hãn. Nông dân là lực lượng đồng minh đáng tin cậy nhất, họ chia sẻ đất đai, tham gia vào trận chiến, những người đàn ông nghèo miễn là có đủ cơm ăn thì sức mạnh của họ sẽ trở nên vô tận, bất khả chiến bại. Chỉ than rằng, nhu cầu “Người trồng trọt có cánh đồng của riêng mình” từ xa xưa vốn không có gì sai, tiến hành chế độ cải cách ruộng đất hoặc phân chia lại cũng đều được, nhưng đối với những người nông dân tiên tiến từng sở hữu đất đai, hà tất phải sát hại họ? Hà tất phải “Mọi người muốn trừng phạt thế nào cũng được”?

Theo Lịch sử phong trào cải cách ruộng đất, chỉ trong một huyện nhỏ ở Sơn Tây mà có tới 1152 người bị đánh chết dã man, 850 người bị cưỡng ép tự sát, 63 người bị chết đói, tổng cộng đã hại chết 2024 người! Đó là chưa kể tới những nông dân bị giết hại hoặc tự sát trong cuộc cải cách ruộng đất ở khắp Sơn Tây và Tuy Viễn, phương Bắc vấy máu, còn những người may mắn khi hai chân vẫn chưa bị đánh gãy sẽ phải gượng dậy chạy trốn. Qua một bản báo cáo của khu vực Sơn Tây năm đó, chúng ta được biết: Tại Hoài Nhân, có 128 hộ mà cả gia đình hoặc cá nhân bị bức ép buộc phải chạy trốn tới nơi khác, thậm chí còn bao gồm 86 hộ trung nông; tại Tả Vân có 234 hộ tháo chạy, trong đó có 92 hộ trung nông… Sự bần cùng đã phát triển tới mức cực đoan, không chỉ hủy hoại cuộc đời và thân xác mà còn hủy hoại cả truyền thống tốt đẹp, hủy hoại trật tự nông thôn, hủy hoại công lý đạo đức, hủy hoại lương tri văn hóa. Muôn kiểu tàn ác, dã man, tàn khốc, máu tanh đã bóp méo trái tim của người dân, làm thay đổi bản chất con người, gây ra một trở ngại vô hình cực kỳ lớn cho việc xây dựng chế độ xã hội hiện đại. Khi Cách mạng Văn hóa nổ ra, toàn thể dân tộc đã bị chính người dân của mình ngược đãi dã man.

Với bối cảnh lịch sử tàn khốc cực đoan như vậy, sự lụn bại của nhà họ Triệu ở Ninh Vũ là không thể tránh khỏi. Thử nghĩ, Ngưu Hữu Lan, người từng tặng 23.000 đồng tiền tây để kháng Nhật và tư trang mùa đông cho cả một sư đoàn của quân cách mạng, Lưu Thiếu Bạch vốn là Phó hội trưởng hợp pháp của Hội Tham nghị biên giới, cả hai người đều là danh sĩ từng được Mao Trạch Đông tiếp kiến, vậy mà họ cũng không giữ nổi mạng sống! Vậy thì nhà họ Triệu ở Ninh Vũ bị gán tội làm tay sai cho Nhật, liệu có thể yên ổn tránh được cơn bão tố “Quần chúng muốn trừng phạt thế nào cũng được”?

Kết quả điều tra nghiên cứu của nhà văn Vương Thụ Sâm như sau:

Kể từ đầu thời nhà Thanh, gia tộc họ Triệu phát triển mạnh mẽ, đến những năm Ung Chính thì trở thành một dòng tộc lớn mạnh. Gia tộc này chủ yếu dựa vào nghề nông, ngoài ra còn làm quan và làm việc trong quân đội, công thương nghiệp; họ kết thân với nhà họ Nam ở Ninh Vũ, tạo thành song hùng cùng tiến. Đời ông nội của Triệu Đình Nhã mang chữ “Thừa”, nhân khẩu khá đông, đời cha chú mang chữ “Kim”, có tám anh em, trong đó người chú Triệu Tranh chỉ lớn hơn Triệu Đình Nhã năm tuổi, hai người anh họ của ông đều đi du học ở trường Cambridge nước Anh. Đến đời con cháu mang chữ “Đình” thì anh em còn nhiều hơn, nhân khẩu của cả nhà họ Triệu phải lên tới 300 người, họ điều hành công ty Phong Ninh nổi tiếng, làm ăn kinh doanh trong và ngoài tỉnh. Đến thời kỳ cải cách ruộng đất, cơn bão tố bất ngờ ập tới, người nhà họ Triệu chẳng còn mấy ai ở lại Ninh Vũ, họ đã bị cơn sóng dữ đánh dạt đi muôn nẻo. Như đã đề cập trước đó, trước khi những cuộc tàn sát lên tới cao trào, vẫn còn cơ hội để tháo chạy, người nhà họ Triệu đã phiêu dạt tới mười một tỉnh thành khắp Nam Bắc. Ngày nay, nơi xa nhất có thể truy tìm là tận Hailar (thuộc Nội Mông Cổ). Hơn sáu mươi năm kể từ sau cải cách ruộng đất, người của gia tộc này hầu như không còn quay về quê cũ. Chẳng còn lại gì nữa, họ quay về để làm gì chứ?

Chúng tôi cảm thán về sự thay đổi khốc liệt của đất nước Trung Quốc vào sáu mươi năm trước. Máu của hai tầng lớp lớn đều ngấm xuống mảnh đất cằn cỗi.

Nghe tới đây, Trương Phát huynh vẫn có thể bình tâm, còn tôi đã bắt đầu thấp thỏm, nếu nói vậy thì chuyến đi Ninh Vũ lần này lại uổng công rồi sao?

Nhưng không, nhà văn Vượng Thụ Sâm cũng là một bậc thầy gây hồi hộp. Từ lịch sử đến hiện thực, lời kể của anh ấy vừa sâu sắc lại vừa lôi cuốn, chờ tới lúc bạn sốt sắng, anh ấy mới thong thả cho bạn hay: Nhà họ Triệu vốn đã tháo chạy không còn một ai, mãi đến khoảng năm 1955, có một người đàn ông vất vưởng trở về từ Thái Nguyên. Người này vẫn còn trẻ, anh ta đã bỏ ra chút tiền để mua hai căn nhà nhỏ nằm trong biệt phủ chín dãy, lấy chỗ nương thân sống qua ngày. Người này tên là Triệu Cấn, là con trai của người em thứ bảy của Triệu Đình Nhã, tức cháu ruột của Triệu Đình Nhã. Hồi nhỏ Triệu Cấn sống ở nhà người bác, học tiểu học và trung học ở Thái Nguyên, sau kháng chiến còn từng theo học tại Đại học Cách mạng dân tộc, là người rất có văn hóa. Sau năm 1949, Đảng cộng sản lên nắm quyền, ông tham gia công tác một thời gian, song do xuất thân quá phức tạp nên ông không được làm cán bộ, sau đó thì bị điều về quê nhà. Triệu Cấn trở về Ninh Vũ, cơ quan nào dám thu nhận ông? Kể từ đó ông không còn công việc chính thức nữa, phải lao động nặng nhọc để mưu sinh. Trên những con phố hay trong những đội phu khuân vác đều có bóng dáng của ông ấy. Sửa giày, sửa xe, kéo xe hàng… vắt kiệt sức lực của con người!

Điều kỳ lạ là trong Cách mạng Văn hóa, người có học như Vương Thụ Sâm cũng bị quật ngã, trùng hợp thay, anh ấy và Triệu Cấn đều trong hội phu xe bán sức lao động, vậy nên đôi bên cũng quen biết nhau. Năm đó, nhân lúc vắng người, hai người còn lén lút phàn nàn về tình hình hỗn loạn lúc bấy giờ, quan hệ cũng khá thân thiết.

Nói vậy thì Vương Thụ Sâm năm xưa đã cùng chung hoạn nạn với đủ các thành phần nào “Địa chủ, phú nông, phần tử phản động, phần tử xấu, phần tử theo phe cánh hữu”, còn làm cả nghề kéo xe. Việc trước kia từng tiếp xúc với tầng lớp dưới đáy xã hội đã phát huy tác dụng vào ngày hôm nay. Thụ Sâm huynh nói: Ông Triện Cấn này đến nay đã ngoài tám mươi rồi, chỉ e tuổi cao sức yếu, sớm đã nằm liệt một chỗ. Chúng ta có thể đi tìm ông ấy. Ông ấy gặp tôi, là người quen biết nên cũng sẽ tin tưởng nhau. Nhà họ Triệu từng gặp phải nhiều chuyện, ông ấy không dễ gì mà kể cho người ngoài. Tuy nhiên ông ấy lại là người duy nhất có thể cung cấp manh mối.

Tôi nói: Được vậy thì hay quá. Sau một hồi thảo luận, chúng tôi nhận ra rằng: Triệu Cấn và Triệu Đại Lợi cùng thế hệ, hồi trẻ đều học ở Thái Nguyên, điều này khiến chúng tôi ôm niềm hy vọng cực kỳ lớn.

Ninh Vũ là căn cứ quân sự quan trọng, hồi đó khi Lý Tự Thành tiến vào Bắc Kinh bị chặn ở Ninh Vũ, quân đội nông dân bị thiệt mạng trong trận chiến lên đến bảy vạn người, cuộc tấn công vây thành diễn ra trong bảy ngày bảy đêm. Vùng đất này trong lịch sử đã chứng kiến không biết bao nhiêu trận chiến, truyền thống hào hùng, không cần kể nhiều ra đây. Trong trí nhớ của tôi, khi quân Nhật xâm chiếm Sơn Tây, nếu phải kể một ví dụ cho số người bị tàn sát nhiều nhất và tàn khốc nhất ở các huyện và thành phố, thì đó chính là thảm án Ninh Vũ. Mùa thu năm 1937, sau khi quân Nhật lần lượt chiếm một số nơi như Dương Cao, Thiên Trấn, huyện Sóc…, chúng đã giết hại tới vài ngàn người. Theo ghi chép, trong hai năm đầu của cuộc kháng chiến, căn cứ Ninh Vũ từng ba lần thất thủ. Trong vụ thảm án đầu tiên ở Ninh Vũ, quân Nhật càn quét thành phố trong ba ngày, tàn sát 4800 dân chúng, bầu trời phủ bóng đen. Lưỡi đao không vùi dập được chí khí anh hùng, biên thùy phía Bắc vấy máu khắp nơi. Vậy mà nhà họ Triệu lại có hai kẻ Hán gian tiếng tăm không hề nhỏ, thực khiến người ta nghẹt thở.

Ai nấy đều cảm thấy trĩu nặng khi nhắc về chuyện xưa. Vương Thụ Sâm than thở: Sự tình không hẳn là như vậy, trong số chín anh em nhà họ Triệu, chỉ có Triệu Đình Nhã và Triệu Đình Anh làm tay sai cho địch trong thành phố. Thế nhưng, mười đầu ngón tay đâu có bằng nhau, nhà họ Triệu có một người con trai thứ năm, tên là Triệu Đình Ngọc, chính là anh hùng kháng Nhật tiếng tăm lẫy lừng trong thành phố Ninh Vũ. Triệu Đình Ngọc anh dũng giết địch, hy sinh thân mình để bảo vệ gia đình và tổ quốc, câu chuyện này lan truyền khắp đất Ninh Vũ.

Vương Thụ Sâm từng tham gia biên tập Ninh Vũ huyện chí, nên am hiểu tường tận về tình hình lịch sử của nơi đây, anh ấy đã dẫn ra một quá khứ hết sức bi tráng.

Cùng là anh em nhà họ Triệu nhưng lại lựa chọn cuộc đời hoàn toàn khác biệt.

Sau khi chúng tôi tìm thấy người nhà họ Triệu duy nhất còn lại, câu chuyện tiếp tục được hé mở.