Tất cả các ngôi nhà ở Thorntonhall đều lớn và cô độc. Thậm chí cả những căn nhà gỗ nhỏ hơn cũng nằm gọn trong những khu vườn rộng phô trương hay có các phần xây thêm to tướng giấu ở phía sau nhà. Hàng rào cây ở hai bên đường được cắt tỉa vuông thành sắc cạnh một cách hoàn hảo.
Morrow không hiểu nổi cách sắp xếp trong cái làng này khi nhìn qua cửa kính ô tô. Ở ngoại vi thì các căn nhà đều xây theo kiểu Victoria đồ sộ, nhưng càng vào trung tâm họ lại càng thấy nhiều tàn tích của thập niên 70, nhà mái bằng và các cửa sổ kính lớn. Cô tự hỏi liệu có phải trung tâm của làng này đã bị đánh bom trong chiến tranh hay không.
Tài xế của cô rẽ ngoặt bên trái để đi xuống một đại lộ trồng cây hai bên về phía ngôi nhà xảy ra vụ án. Càng cách xa đường chính, các ngôi nhà càng mới mẻ hơn, những tòa biệt thự màu be bắt chước kiểu cách của những biệt thự cũ nhưng có số gara gấp đôi, số cửa kính gấp đôi, cái gì cũng gấp đôi.
Đại lộ phân ra thành hai con đường ở điểm tận cùng. Vạch kẻ màu vàng mới tinh chỉ xuống đồi tới một biệt thự kiểu nông trại và đường khác đi lên đồi rải đá giăm không mài, dẫn tới một ngôi nhà nông trang màu xám cũ kỹ.
“Tôi chả hiểu chỗ này ra làm sao cả”, cô nói. “Xung quanh đây không có cửa hàng cửa hiệu gì à? Sao cô lại muốn xây cả một căn biệt thự dưới chân đồi giữa chốn hoang tàn này?”
“Chắc đó từng là nhà chính của điền trang này”, người lái xe lặng lẽ gật đầu trong lúc bước lên đỉnh đồi.
“Điền trang á?”, Morrow vươn người tới trước.
Người lái xe đột nhiên có vẻ xấu hổ và Morrow phải căng tai mới nghe thấy tiếng cô ta.
“À, ngôi nhà mà chúng ta sắp đi tới là ngôi nhà cổ nhất ở vị trí cao nhất. Chị có thấy những ngôi nhà khác phải ở cách xa nó không? Tất cả vùng đất này chắc từng thuộc về chủ nhân của ngôi nhà đó. Họ đã bán đi từng chút một, đầu tiên là khu xa nhất, rồi gần hơn, cuối cùng đến những ngôi nhà to đùng mới xây này.”
Morrow nhìn vào dinh thự cũ kỹ u ám và hiểu ý người tài xế. Cô cảm thấy sướng rơn trước kiến thức mới này và nhìn thấy thị trấn hiện rõ trong trí óc mình.
“Làm sao cô biết?”
Nhưng người lái xe không chịu tiết lộ:
“Chỉ là... chị cứ xem nhiều chương trình kiến trúc... trên ti vi thì biết”.
Họ dò dẫm tiến tới khi chiếc xe leo lên con đường dốc, Morrow háo hức đến đó để được cảm nhận lại sự căng thẳng thần kinh ấy. Cô thầm nghĩ: Đây không phải là đường dẫn xe chính thức trong lúc cố thêm thắt vào kết luận của người tài xế, bởi vì xe ngựa và ngựa không thể lên dốc đứng thế này được. Nó là một đường mới để lên nhà, được xây dựng khi con đường cũ đã bị bán cho căn biệt thự có đường kẻ vạch vàng kia. Lần đầu tiên cô nhìn kỹ người lái xe. Cô ta mới được tuyển vào nhưng đã luống tuổi, có lẽ ngoài ba mươi và đối xử với cô theo kiểu lịch sự nghề nghiệp. Cô ta xinh đẹp với nước da nâu cùng đường nét Iran đáng tò mò. Cô ta lại là người Anh.
Morrow không hỏi thêm. Ở đỉnh đồi, lớp đá giăm nhường đường cho lớp sỏi mịn, chiếc xe không bị kéo xuống nữa. Họ đi vòng ra phía trước nhà và trông thấy cảnh sát điều tra Harris với vẻ mặt mệt mỏi đang đứng bên cạnh hai xe tuần tra cùng một chiếc xe tải lớn của đội khám nghiệm hiện trường.
Mặt tiền của tòa nhà cân đối,đẹp mắt và vững chãi, được xây bằng đá màu xám với những khung cửa sổ nhỏ và cửa ra vào màu xanh ở trên đỉnh một bậc tam cấp.
“Vậy kiểu này là phong cách gì?”
Người lái xe ngước mắt lên:
“Phong cách Georgia”.
“Sao cô biết?”
Người lái xe cau mày và nhìn vào ngôi nhà. Cô ta biết câu trả lời, Morrow đoán thế, và cô có thể hiểu được vẻ ngập ngừng kia từ đâu mà có. Hiểu biết sâu rộng về kiến trúc không hẳn là điểm cộng nơi căng tin, hơn nữa bản thân việc là một phụ nữ, luống tuổi và là người Anh đã khiến cô bị cô lập với những đồng nghiệp khác rồi. Việc gia nhập lực lượng cũng đồng nghĩa với việc phải hòa đồng, lúc nào cũng là phe ta chống phe địch.
Người phụ nữ hơi đỏ mặt một chút:
“À, ừm, cái gì trông cũng vuông vức và các cửa sổ rất đặc biệt này nữa. Chị có thấy ba cửa sổ trên tầng một không?”. Morrow nhìn lên, thấy ba chiếc cửa sổ đặt ngang nhau ở tầng một với khung kính trượt. “Cái đó là phong cách đặc trưng, nhưng là ở cuối thời kỳ Georgia.” Cô ta chỉ vào cánh cửa xanh trên hàng hiên vuông vắn, ngự trên đỉnh sáu bậc cầu thang, “cái đó cũng là kiểu Georgia. Ở Bath và Dublin, chị sẽ thấy những cánh cửa như thế. Chị có nhìn thấy những căn phòng hình ô van ở đằng sau nhà chưa?”.
“Ở đâu?”
“Phòng giữa ở phía sau lồi ra thành hình bán nguyệt đấy. Đó là kiểu Georgia. Phần mở rộng của nó ở đây này.” Cô ta chỉ vào một căn phòng gắn bên hông nhà, cũng được xây bằng loại gạch xám đó với một bộ ba cửa sổ cao vút, “đó là kiến trúc tân cổ điển. Nó thuộc về đời sau này. Thời Victoria”.
Morrow nhìn vào cô ta. Cô ta đang mặc một bộ quần áo quá đắt tiền so với cấp bậc của mình.
“Cô từ chỗ quỷ nào đến thế?”
“Surrey. Đông Molesey.”
“Cô làm gì ở chốn này?”
“Bạn đời của tôi nhận việc ở đây nên tôi đăng tuyển vào ngành. Gia nhập muộn.”
Rõ rồi. Cô ta không bị cấp bậc của Morrow đe dọa, không hề mang theo kiểu cách chính trị như trong trường cảnh sát.
“Trước đây cô làm gì?”
“Kinh doanh riêng, ngành điện tử.”
Morrow gầm gừ. Họ đã tiến gần đến chỗ tán gẫu thân thiết một cách đáng lo ngại. Cô tự hỏi: “Bạn đời” là từ dùng để chỉ “bạn tình đồng tính” hay chỉ là cách nói chung ở Surrey. Cô ta trông không có vẻ gái giả trai nhưng dân đồng tính có còn như thế nữa đâu.
“Họ đối xử tử tế với cô chứ?”
Cô ta nhún vai và nhìn đi chỗ khác, chớp chớp mắt. Nói một cách ngắn gọn là “không”, nhưng cô ta chẳng để tâm đến chuyện đó và sẽ không kể tội bọn họ.
Morrow thấy ấn tượng.
“Tốt cho cô. Có tham vọng gì không?”
Cô ta nhìn vào Morrow và gật đầu khẳng khái, đôi mắt ánh lên vẻ cẩn trọng. Ngày nay, chẳng ai chịu nhận mình có tham vọng cả.
“Tốt. Khi nào cô được thăng lên làm sếp của bọn họ, bọn họ sẽ nói đó là vì cô là phụ nữ. Cô thông minh, việc đó không thuận lợi cho cô, cả việc là một chú chim và là người Anh cũng vậy, và... cô biết đấy.”
Người lái xe giả vờ không hiểu điều Morrow không nói, nhưng miệng cô ta cong lên thành một nụ cười nhẹ trong lúc kéo phanh tay. Họ ngồi với nhau chờ Harris đi bộ tới chỗ mình. Nước da của anh ta đặc sệt người Scotland mà không cần phải có hoa văn kẻ ca rô xanh: Trắng bệch xanh xao. Anh ta có đôi mắt ti hí, mái tóc đen và cái miệng nhỏ lố bịch đến mức trông như chỉ rộng đúng bằng cái mũi của anh ta.
“Nghe này”, Morrow thì thầm trong lúc Harris đi đến, “tôi sẽ không kể với ai là cô đã nói về chuyện tham vọng đâu”.
“Cảm ơn chị”, cô ta nói nhanh.
“Vì cô thông minh, nên cô biết đấy, hãy cẩn thận và...”. Đột nhiên Morrow ý thức được mình còn rất ít thời gian, chẳng bao lâu nữa sẽ không còn làm gì được. Cô muốn giúp nhưng lại không biết đưa ra ý gì. “Tôi sẽ nói với họ những ý kiến của cô, làm như đó là ý của mình.”
Cô chỉ định nói đùa kiểu nhạt thếch nhưng người lái xe lại cảm ơn cô, hai người nói cùng một lúc.
Họ mở cửa xe và cùng bước ra ngoài. Morrow mừng vì Harris đã đến nơi nên họ không cần phải nói chuyện với nhau nữa.
“Này cô”, Harris cau có với người lái xe, “cô đi tuần từng nhà quanh đây. Và hỏi cụ thể xem: Có ai trông thấy gì không? Có ai quen người sống ở đây không? Và liệu gần đây họ có lên nhà này không? Chúng ta cần biết trong đó có cái gì bị mất hay không. Wilder sẽ đưa cô đi”.
Người lái xe gật đầu và bước đến chỗ cảnh sát Wilder đang đứng bên cạnh mấy cái xe.
“Ai kia?”, Morrow hỏi sau khi người phụ nữ đã ra khỏi tầm nghe.
Harris nhìn.
“Cảnh sát Tamsin Leonard.”
“Cô ấy thông minh chứ?”
Harris gầm gừ không rõ là đồng tình hay phản đối. Morrow muốn tát vào mặt anh ta. Kể từ lần tăng lương gần nhất cho cảnh sát điều tra, họ đã được nhận mức lương tốt hơn và được tính thêm giờ khi làm việc ngoài ca trực. Đó là một quyết định thảm họa. Cảnh sát bây giờ còn kiếm được nhiều tiền hơn cả sỹ quan chỉ huy và không cần phải túc trực nhiều ngày liền cho đến khi phá được một vụ án nữa. Bây giờ, việc hối lộ ai đó để được thăng chức là một sự phản bội và những kẻ thông minh ẩn mình trong đám ngốc. Nhưng việc vỡ mộng còn gây ảnh hưởng sâu rộng hơn thế. Sự thô lỗ của Bannerman đã làm các cảnh sát coi chuyện che giấu trí tuệ của mình là một niềm tự hào, cứ như làm tốt công việc của họ chỉ càng giúp Bannerman kiêu căng hơn vậy. Tình trạng thù địch cứ ngày một tăng lên. Morrow cảm thấy cô đang nhìn thấy nó được mài dũa từ một thói quen biến thành văn hóa ứng xử trong đội của mình.
Cô nhìn lên mái của ngôi nhà phong cách Georgia, giả vờ kiểm tra một lượt từ trên xuống dưới trong lúc vui mừng vì có cớ để co duỗi cái lưng.
“Anh vào trong chưa?”, cô hỏi.
Harris gật đầu không thoải mái với mặt đất.
“À ừm...”
“Sao nào?”, Morrow hỏi, “tệ lắm à?”.
“Vô cùng tệ”, anh ta lặng lẽ nói.
“Từ bao giờ?”
“Hai mươi tư giờ trước. Có lẽ là tối hôm qua.”
Morrow nhìn lên. Mái ngói của ngôi nhà đã bị kênh chứ không còn phẳng phiu nữa. Từng bó lá khô chìa ra khỏi ống máng dẫn nước quanh mái nhà. Bên cạnh tòa nhà là một bể chứa rác siêu vẹo dựng trên mấy cái cột rỉ sét đứng trơ trọi trong tầm nhìn. Ở góc xa phía trên cửa sổ là một hình lục lăng màu vàng chứa chuông báo động, nhưng lớp nhựa của nó đã bị bạc màu tới mức dòng chữ xanh gần như không còn đọc được.
“Đây là một trong những ngôi nhà đáng tiền nhưng cũng phá tiền đúng không nào?”
Harris gật đầu với cuốn sổ ghi chép của mình:
“Đám tang của chị thế nào?”.
“Có phải của tôi đâu.”
“Tôi biết...”
“Đó là đám tang bà dì.”
Cô buộc phải nói dối. Cô nói bố mình chết rồi bởi không thể tự mình thừa nhận cái chết của con trai. Trong suốt một thời gian như là vậy. Dần dần, cô thừa nhận rằng cái chết của Gerald chính là nguyên nhân suy sụp của cô, nhưng cô vẫn vờ như bố mình đã chết vào cùng khoảng thời gian ấy. Họ đã bắt cô phải chịu đựng biết bao nhiêu giờ đồng hồ vô bổ với một nhà tư vấn ở bộ phận phúc lợi. Cô trải qua hết dù biết rằng không có gì giúp được mình và tất cả các sếp của cô chỉ nhìn thấy thời gian biểu mà thôi. Cô còn chưa sẵn sàng để thừa nhận rằng cái chết của bố mình chỉ là một lời nói dối. Nó giải phóng cô, phá vỡ sợi dây liên kết giữa gia đình McGrath tai tiếng với cô và cô cảm thấy mình chiến thắng khi tuyên bố cái chết của ông ta trong lúc ông vẫn còn sống. Việc đó khiến cô thấy như thể mình đã giết bố.
“Ừ”, Harris nói, “dì cô”.
“Dù sao thì đám tang cũng ổn cả.”
“Ừ, thế thì tốt.”
Cô lại nhìn lên. Rõ ràng ngôi nhà này từng là tổ ấm của một người nào đó: Cây táo trồng ở vườn trước sai trĩu quả mà không ai hái, nó cứ chín rồi rụng và thối rữa trên mặt cỏ sinh trưởng quá tốt. Các luống hoa đã được xới đất nhưng chưa ai trồng lại.
Cô thấy việc đó thật đáng buồn, nó làm cô nghĩ đến Danny, John và sự mỏng manh của một gia đình, bất chấp tất cả các thành phần đều đã ở đúng vị trí của nó, thế mà mọi chuyện lại dễ dàng trở nên rối tung rối mù một cách không ngờ.
“Tiền mặt ở đâu?”
Harris nhìn vào cô, miệng anh ta há ra tròn xoe như một nụ hôn chưa trao gửi.
“Trong bếp.” Anh ta nhướng mày. “Có nhiều hơn chúng tôi tưởng. Đều là đồng euro.”
“Mệnh giá cao à?
“Năm trăm.”
Họ mỉm cười với ngôi nhà. Những tờ năm trăm Euro thường có mùi rửa tiền và thường dính đến ma túy. Đó là tờ tiền mệnh giá cao nhất trong hệ thống tiền giấy và cần ít chỗ hơn những tờ một trăm đô la rất nhiều.
“Bao nhiêu?”
“Chúa ơi, tôi không biết, hàng trăm ngàn?” Anh ta mỉm cười. “Chờ đến khi chị thấy đã.”
“Có ai canh gác trong đó không?”
“Có, Gobby. Anh ta rất mừng được canh giữ.”
Morrow thấy mình có thiện cảm với ngôi nhà.
“Cô ta có tiền nhưng lại không tiêu? Hay đó là của người khác? Có lẽ cô ta không biết trong nhà có tiền.”
Harris nhún vai.
“Có thể, nhưng không chắc. Chờ đến khi chị thấy nó nằm ở đâu đã.”
Nếu đó là tiền ma túy thì nó có thể dẫn họ tới một băng hay một tổ chức quốc tế lớn. Nó có thể tạo nên một vụ hoành tráng ngon ăn, cho họ thêm món hời.
“Dù thế nào thì cũng có vẻ có tổ chức đấy, vì nó không phải là loại tiền lẻ, mà toàn nguyên cọc.”
“Anh có biết rõ khu vực này không?”
Anh ta lắc đầu.
“Ra vào khu này khoảng một tiếng đồng hồ rồi mà chưa thấy bóng người nào trên phố trừ công nhân và thợ vườn.”
“Thưa chị?”. Leonard đang vội vã đi đến từ chỗ đứng với Wilder. “Sếp lớn gọi. Ông ấy bảo điện thoại của chị bị tắt nên mới phải gọi cho anh ta.” Cô ta chỉ vào Wilder đang đứng cách đó một trăm mét và giơ chiếc điện thoại công vụ ra, mặt mày gian xảo. Anh ta đủ khôn ngoan để không tự mình tới báo tin. “Ông ấy muốn nói chuyện với chị.”
“Thế cơ đấy?”
Bên cạnh vai cô, Harris ho húng hắng thể hiện thái độ.
Leonard không hiểu có chuyện gì đang xảy ra.
“Vâng?”, cô ta do dự hỏi.
“Cứ bảo là cô không tìm được tôi.” Morrow đột ngột quay lưng lại và hỏi Harris, “thế câu chuyện ra sao?”.
“Phụ nữ, hai mươi tư tuổi. Mẹ cô ấy mới mất ở đây...”
“Đó là của bà ấy à...?”, cô chỉ vào cầu sắt đang dựa vào các bậc thang ở cửa trước.
“Đúng, bà mẹ phải ngồi xe lăn.”
“Người chăm nom sáng đến tối về à?”
Harris kiểm tra sổ ghi chép:
“24/24. Tìm được một bộ sổ kế toán trong phòng khách”.
“Đắt lắm à?”
“Chúa ơi, kinh khủng. Làm tôi muốn để dành paracetamol cho bà già mình khi nhìn vào đó.”
“Có thể tiền là để làm việc ấy?”
“Vậy thì cô phải giữ tiền trong ngân hàng chứ? Nếu đó là tiền sạch.”
Qua khóe mắt, cả hai thấy Leonard đang bỏ đi.
“Hãy kiểm tra cơ sở chăm sóc họ dùng, tìm xem ai đến đây, ai có chìa khóa .v.v.”
Họ nhìn Leonard đến bên Wilder và nói “tôi không tìm thấy cô ấy” với anh này. Wilder đưa điện thoại cho cô. Morrow mừng rơn khi thấy cô ta giơ cả hai tay lên và lùi lại.
“Ma cũ bắt nạt ma mới”, Harris thoải mái nhận xét.
Morrow cho phép mình mỉm cười.
“Thế nạn nhân tên là gì?”
“Sarah Erroll”. Harris hơi tái đi.
“Trông anh ốm đấy, Harris.”
“Ồ...”. Anh ta hất đầu lên cánh cửa màu xanh, e dè và liếc nhìn bụng cô. “Tôi không biết liệu...”
Morrow tặc lưỡi với anh ta:
“Trời ơi, đừng có mà bắt đầu đấy”.
Cô nhìn lại anh ta. Harris thực sự không chắc là cô sẽ ổn. Điềm gở đây, cô nghĩ. Harris vốn dĩ khá cứng rắn.
Cô ngước lên nhìn cánh cửa đang mở rộng. Một nhân viên khám nghiệm hiện trường mặc đồng phục trắng đang quỳ bên trong, kiểm tra ổ khóa, nhưng phía sau lưng anh ta là ngôi nhà tông hốc, đen ngòm.
“Ai tìm thấy cô ấy?”
“Luật sư có hẹn với cô ấy ở văn phòng, một cuộc gặp để bàn các chi tiết về điền trang sau khi mẹ cô ấy chết. Cô ấy đã không đến nên anh ta tới đây...”
Nghe có vẻ không đúng lắm.
“Việc đó cũng gây lo lắng tới mức phải đích thân tới thăm cơ à?”
“Rõ ràng là rất khác thường. Cô ấy rất chín chắn, luôn ở đúng nơi đã dự định. Giấy tờ thủ tục là điều quan trọng. Anh ta tới tìm cô ấy và đã thấy rồi. Anh ta vẫn ở bên trong.”
Họ đã ở đây được gần một giờ. Morrow không chỉ bị muộn vì đám tang mà còn phải tạt qua sở để đổi xe. Cảnh sát không được phép dùng xe riêng để đi làm nhiệm vụ, phòng trường hợp họ đâm vào ai đó hay bị theo dõi về tận nhà.
“Vẫn còn trong đó à? Đưa anh ta về sở ngay. “Tại sao anh ta vẫn còn trong đó?”
Harris hít vào thật mạnh.
“Những kẻ đột nhập vào nhà từ phía sau. Chúng tôi đang làm khám nghiệm hiện trường ở đó nhưng cũng cố không đưa anh ta đi qua cái xác. Anh ta đang bị kẹt ở giữa.” Anh ta hắng giọng, “các cậu ấy gọi cô ta là ‘cặp chân đẹp’”.
“Ai?”
“Sarah Erroll.”
“Có chuyện gì xảy ra với chân cô ấy à?”
“Không, cái mặt mới đáng tiếc.” Anh ta rít qua kẽ răng. “Đúng là một đống bầy hầy.”
Morrow rên lên. Đối với nạn nhân, chỉ một giờ sau khi bắt đầu cuộc điều tra, đã bị đặt cho cái tên phi nhân tính thì tình hình quá tệ. Muốn làm cảnh sát thừa nhận mình quan tâm tới nạn nhân đã đủ khó khăn rồi. Chỉ có một điều tồi tệ hơn những cái chết đẫm máu, ấy là một cái chết tủi hổ hay nực cười. Khi đó, chẳng ai buồn quan tâm và nó ảnh hưởng tới chất lượng cuộc điều tra.
Nhưng chắc hẳn trong chuyện này phải có chút yếu tố đáng thương cảm: Harris trông xanh xao và đôi mắt anh ta cứ chăm chú vào mặt đường như thể lo lắng vì vừa rơi mất thứ gì ấy.
Morrow nhìn đi chỗ khác và lẩm bẩm:
“Sao, có dính tới tình dục à?”.
Harris thôi không rít qua kẽ răng còn cô thì nhăn mặt. Cô ghét các vụ án mạng liên quan đến tình dục. Tất cả bọn họ đều ghét, không chỉ vì thông cảm với nạn nhân mà còn vì các tội ác về tình dục đều gặm nhấm tâm hồn người ta, chúng đưa họ tới những nơi bí ẩn tăm tối nhất trong đầu óc họ, khiến họ nghi ngờ và sợ hãi, và không phải lúc nào cũng là sợ người khác.
“Không”, cuối cùng Harris nói, nghe có vẻ không chắc chắn, nhìn bên ngoài thì không phải. “Không có tấn công tình dục. Mặc dù vậy cô ấy khá xinh. Thon thả... Có mấy bức ảnh đấy. Có lẽ chúng ta nên nghĩ đến nó như một khả năng.” Harrish hít một hơi dài và hất đẩu về phía ngôi nhà, anh nhướng mày lên dò hỏi, “không đùa đâu, tệ lắm đấy sếp ạ”.
Đột nhiên Morrow thấy tức giận:
“Anh cứ nói đi nói lại mãi, Harris... được rồi, tôi hiểu ý anh rồi”.
Anh ta mỉm cười với mặt đất.
“Vâng.”
Cô lấy mu bàn tay quất mạnh vào cánh tay anh ta:
“Nói về trò quảng cáo rùng rợn thì anh xứng đáng được làm đoạn quảng bá cho các bộ phim đấy”.
Khi họ bắt đầu bước lên cầu thang, Morrow ngấm ngầm ôm một bụng tức còn Harris thì mỉm cười, không còn lo cho cô nữa.
Giận dữ chính là con át chủ bài của cô, là thứ tình cảm duy nhất có thể gạt nỗi đau sang một bên. Cứ giận dữ đi, cứ vô can đi. Mọi người đều lo ngại cho công việc của cô bởi cô đang mang thai. Cô có thể thấy mình đang bị lu mờ trong con mắt của các sếp lớn, trở thành một nhân tố vô hình, chết dần trước mắt họ. Họ gợi ý một cách lố bịch rằng việc mang thai sẽ khiến cô đãng trí, đa cảm và bất lực. Thực ra, mang thai chỉ càng khiến trí óc cô mẫn tiệp hơn trong công việc hàng ngày. Cô không muốn thai kỳ kết thúc chút nào. Cô biết nỗi sợ của mình một phần là vì cái chết đột ngột của đứa con trai, nhưng cô đã từng phải vào khu điều trị chuyên sâu một lần từ hồi còn làm cảnh sát, khi được cử tới để canh gác một đứa bé sơ sinh đang chờ được nhận nuôi. Mẹ của nó đã cố tự đâm vào bụng mình và họ lo là cô ta sẽ trốn khỏi phòng để đi tìm nó. Trong lúc Morrow ở đó, một y tá đã cho cô xem các thống kê về trẻ song sinh. Giờ cô sống từng phút một, tận hưởng khi còn có thể, nhấm nháp những cảm xúc vụn vặt của quãng thời gian này, hương vị của từng món ăn, một giấc ngủ sâu, những cú nhói thân mật bên trong da cô. Cô chưa bao giờ mẫn cảm với hiện tại hơn lúc này.
Họ vừa bước lên cầu thang vừa nhìn xuống mặt đất để dò tìm dấu vết. Phiến đá lấm tấm địa y, chấn song thì đã phủ đầy rêu. Một cái gạt bùn đế giày bằng gang đặt ở bậc thang cuối, hai cái đầu sư tử thò ra ở hai bên, mũi và tai của chúng nhú lên làm mấu.
Cánh cửa ở đầu cầu thang màu xanh lá, nặng nề, chắc nịch và một chuyên viên khám nghiệm đang quỳ xuống, nạo rỉ đồng từ trên chiếc khóa cửa. Kẻ đột nhập không vào bằng hướng này, nhưng họ sẽ phải chứng minh là ngoài ra chúng không có phương pháp đột nhập nào khác nữa. Một vụ án xâm nhập vào tư gia gần đây bị bác bỏ vì tay luật sư biện hộ giảo hoạt đã tạo nên một nghi vấn hợp lý với gợi ý rằng có thể một đội khác đã vào bằng lối thứ hai. Các lãnh đạo cấp cao đã ra chỉ thị: Họ phải dùng những nguồn lực có hạn của mình để chứng minh cả các điều phủ định trong khi tóc, sợi vải và các dấu vết khác bị thổi bay ra ngoài hành lang.
Harris đi theo sau cô và khi cô hơi nghiêng ngả trên ngưỡng cửa trong một giây, cô cảm thấy lòng bàn tay anh ta đỡ mình thăng bằng trở lại. Cô chỉ mới có thai được năm tháng mà đã bắt đầu phì ra rồi. Trọng tâm cơ thể cô thay đổi bất cứ khi nào cặp song sinh chuyển động. Cô mỉm cười với anh ta và nghe anh ta khẽ khúc khích cười.
Cái hành lang hẹp bên trong cánh cửa được lát đá đen. Một chiếc ghế băng bằng gỗ sồi đã mòn được kê sát một bên tường dưới một loạt móc áo khoác, tuy nhiên trên móc chỉ có một chiếc áo khoác len màu xám. Đó là một chiếc áo kiểu cách của phụ nữ với hai ve áo tròn, một cái eo hẹp và hơi loe ở phần hông. Nhãn mác màu đỏ với hàng chữ vàng vừa đủ nhìn được. Trên rầm cửa là chậu nước thánh được treo lủng lẳng trên một sợi dây móc vào đinh, miếng bọt biển hình bán nguyệt đã khô kiệt và ngả vàng.
“Dân Pape1 à?”, cô hỏi, nhưng ngay lập tức tự hỏi từ ấy có báng bổ quá không.
1 Từ lóng chỉ tín đồ Công giáo.
Harris gật.
“Chắc vậy.”
Đáng lẽ cô không được nói như thế. Cô chắc chắn từ đó mang nghĩa khinh miệt.
“Hơi khác thường nhỉ? Tôi tưởng anh không thể vừa làm điền chủ vừa làm người Công giáo được. Người Công giáo không được nhận thừa kế hay gì đó...”
Harris nhún vai:
“Có thể họ đã cải đạo”.
Morrow tưởng sẽ nhìn thấy một đôi ủng bám đầy đất trên hiên nhà. Thay vào đó, cô lại thấy một đôi giày nhung cao gót màu đen bị vứt bừa bãi trên sàn, một chiếc nằm thẳng còn một chiếc đổ sang bên. Cả hai đều còn mới: Lớp đế giày màu đỏ chót gần như chưa bị trầy xước. Bên cạnh chúng là một chiếc túi nhỏ có bánh xe hiệu Samsonite: Chất liệu nhựa màu trắng đúc hình ô van với hoa văn da cá sấu bên ngoài. Đó là một chiếc túi hành lý xách tay, rất mới, rất sạch và có mác của khoang hạng nhất hãng Hàng không Anh quốc gắn trên tay cầm. Cô bước qua và nhìn xuống nó. Từ Newark đến sân bay quốc tế Glasgow, ngày hôm qua, chủ nhân là Erroll. Đó là một chiếc túi quá nhỏ để mang tới New York.
Cô chỉ vào tay nắm:
“Đây là túi xách tay nhưng cô ấy lại đăng ký gửi. Tại sao lại thế?”.
“Nặng quá à?”
“Có thể. Cô ấy có mang thêm nhiều chiếc túi khác?”
“Theo như chúng tôi thấy thì không.”
Cô chỉ vào nó:
“Hãy lấy vân tay trên đấy và lưu trữ nó, tôi muốn thấy những thứ bên trong. Gọi cho cơ quan nhập cư Hoa Kỳ. Trên tờ khai xuất nhập cảnh của cô ấy hẳn phải có thời gian và tên khách sạn được lưu lại”.
Harris vội ghi chép vào sổ.
“Đến giờ chúng ta đã biết gì về cô ấy rồi?”
“Không nhiều. Người thân gần gũi nhất trên hộ chiếu của cô ấy là bà mẹ, giờ đã chết. Chúng tôi tìm được số bảo hiểm quốc gia của cô ấy nhưng có vẻ như cô ấy chưa từng đi làm ở đâu cả.”
“Có lẽ đúng. Cô ấy có thể sống bằng tiền của gia đình chăng?”
“Vẫn phải trả thuế thu nhập chứ? Thuế đánh trên lãi suất tiền gửi hay gì đó?” Harris nhìn vào thẻ gửi hành lý khoang hạng nhất. “Cô ấy có tiền.”
“Cô ấy có thể làm việc ở nước ngoài chẳng hạn? Hay đã kết hôn? Có một cái tên khác?”
Anh ta nhún vai.
Morrow nhìn vào hành lang tối tăm:
“Tiền trong bếp có thể là tài sản thừa kế của cô ấy, bị che giấu để trốn thuế”.
“Giấu bằng những tờ năm trăm Euro mới cứng ấy à?”
“Đúng thế thật.” Họ đã bắt đầu vào guồng làm việc, nói vắn tắt, nửa nói chuyện nửa suy tư, nhìn sự việc qua con mắt của người còn lại. Cô lại nghĩ chuyện Harris không chịu đăng ký xin thăng cấp đúng là đáng hổ thẹn. Với anh ta, đó không chỉ là chuyện tiền nong mà còn là vấn đề cá nhân: Anh ta ghét cay ghét đắng Bannerman. Cô đã thấy Harris ngần ngại khi tên của ông ta được xướng lên trước mặt mình, và khi mỗi khi có ai đó trong lực lượng bị Bannerman làm bẽ mặt như thường lệ họ lại tìm tới Harris. Cô hy vọng mình sẽ thoát khỏi văn phòng khi mọi chuyện lên đến đỉnh điểm.
Đi qua một cánh cửa nữa là tới tiền sảnh, đường bệ nhưng lại không có cửa sổ. Hai cánh cửa gỗ sồi lớn dẫn ra khỏi đó: Một cánh mở vào phòng khách mênh mông trống trải với lớp giấy dán tường màu xanh dương mờ xỉn, một cách mở vào thư viện tồi tàn. Bức tường bên phải đã được đục thành một cửa vòm dẫn tới khu nhà cơi nới theo kiểu Victoria và cầu thang.
Vẻ u ám càng tăng thêm bởi lớp ván ốp tường cao tới eo và giấy dán tường màu sô cô la lấm chấm vàng. Tất cả ánh sáng trong phòng đều đến từ chỗ cửa vòm. Lớp giấy dán tường màu nâu ở bức tường bên trái bị nắng chiếu vào tạo thành một vạt chéo da cam rực: Một dấu vết mờ mịt của thời gian ngang qua bức tường.
Sàn nhà lát gạch ca rô đen trắng cáu bẩn và gồ ghề. Giống trên hành lang, tiền sảnh này cũng thiếu hẳn đồ đạc và ánh sáng. Cô có thể thấy những chỗ trống, những viên gạch lát sáng màu hơn, những mảng giấy dán tường sẫm hơn phần còn lại, nơi đã từng có đồ gỗ cùng tranh ảnh, nay đã bị di dời hay tháo xuống. Cô chỉ vào chúng.
“Bị mất cắp chăng?”, Harris gợi ý.
Morrow nhìn vào mảng giấy sáng màu vuông vức, có chiều cao đến gần hai mét trên tường. Một chiếc tủ quần áo khổng lồ đã được đặt ở đó một thời gian dài.
“Chắc bọn chúng phải cần đến cả một cái xe tải.”
Nó làm cô chú ý bởi trông rất không hợp lý: Nhìn qua ngưỡng cửa dẫn đến cầu thang, một chiếc điện thoại di động màu đỏ, cục mịch, kém sang trọng đang nằm nghiêng trên sàn nhà. Nó không hợp với đôi giày cao gót bằng nhung ở ngoài sảnh một tí nào.
“Cái gì kia? Điện thoại của mẹ cô ấy à?”
Harris mỉm cười:
“Đó là một khẩu súng phóng điện làm giả hình chiếc điện thoại: 900.000 vôn”.
“Bọn chúng bỏ lại nó à?”
Anh ta nhún vai:
“Cũng có thể là của cô ấy, chúng tôi không chắc. Mấy thứ này có bán ở Mỹ”. Anh ta gật đầu về phía chiếc túi xách. “Cô ấy đến đó nhiều lần lắm, gần như mỗi tháng một lần, theo như hộ chiếu của cô ấy.”
Morrow thấy ngạc nhiên.
“Tiền từ đó mà ra à?”
“Có vẻ như cô ấy không đi nơi nào khác.”
Chiếc điện thoại phóng điện cũng có thể là do bọn đột nhập bỏ lại. Những vật chứng đầu mối ở hiện trường đôi lúc bị giấu đi khi rơi xuống dưới ghế ngồi ô tô, trượt vào gầm một đồ gỗ nặng nề nào đó hay rơi xuống cạnh trường kỷ, nhưng có khi người ta vẫn tìm thấy chúng ở chỗ trống bất kỳ. Hầu hết mọi người đều nhìn khắp lượt căn phòng mỗi khi bỏ đi, nhưng trong những thời điểm cảnh giác cao độ như sau khi phạm một tội ác nào đó, con người ta thường nhớ phải mang đi đầu mẩu thuốc lá của mình nhưng lại quên cả một chiếc xe to đùng ở bên ngoài.
Cô lùi lại và nhìn quanh sảnh một lần nữa, lia ánh mắt về phía chiếc điện thoại như chưa nhìn thấy nó. Rất dễ thấy. Không có nhiều khả năng bọn chúng làm rơi vật này rồi không trông thấy trên đường ra. Chỉ cần liếc lại một cái là nhìn ra ngay. Trong sảnh đâu có đồ vật gì che chắn nó.
“Tôi nghĩ có thể nó là của cô ấy. Trước đây có mối nguy hiểm nào với nơi này không, có vụ đột nhập nào gần đây không?”
“Tôi sẽ tìm ra.”
Cô cho người mang nó đi, cảm thấy thật bình tĩnh trước việc phát hiện ra một điều bất hợp lý. Cô ghi nhớ chúng và kiên nhẫn chờ đến khi ý nghĩa của chúng bật ra. Vụ này trông có vẻ phức tạp và hay ho đây, đúng là loại vụ án sẽ làm cô phải trầm tư trong lúc tắm, trong lúc xoa dầu lên bụng mỗi đêm, trong lúc cô lẩn tránh cuộc điện thoại của bác sỹ tâm lý để đánh giá về thằng cháu hiếp dâm của mình. Cô ấm lòng trước viễn cảnh ấy, y như cách mọi người vẫn phấn khởi trước mỗi trận bóng đá, mỗi buổi hòa nhạc hay một đêm say túy lúy. Đó là niềm say mê tuyệt đối được báo trước.
Morrow tới chỗ cửa vòm dẫn vào khu cơi nới theo kiểu Victoria và một căn phòng rộng sáng tới mức nó làm cô chóng mặt sau khi đi qua tiền sảnh u tối kia.
Đội khám nghiệm vẫn còn đang tiến hành kiểm tra hiện trường. Cô có thể thấy những cái bóng của họ hắt lên tường, nghe tiếng sột soạt của những bộ áo choàng bằng giấy ở đằng sau bức tường.
Cô dẫn Harris đi về phía thi thể và cảm thấy anh ta trốn ở điểm mù của mình, cố tránh đằng sau cô. Anh ta đang gồng mình lên để đối mặt với điều đã biết trước.
Lại một căn phòng khác rất rộng và trống trải, lần này được dán giấy màu ngà đã ngả vàng theo thời gian, viền màu xanh, chấm phá những chú chim đã mờ đi thành một vệt màu hồng khó nhận ra. Rẽ ở khúc quanh, họ trông thấy cạnh của một cái ghế nâng hạ người lên xuống2 bằng nhựa màu trắng được gấp gọn lại sát tay vịn ở bậc cuối cùng của cầu thang bằng gỗ rộng rãi. Chiếc ghế còn mới, sạch sẽ và điều khiển từ xa được gắn vào tay ghế, sẵn sàng cho người sử dụng.
2 Một loại ghế được gắn vào đường ray cố định dọc theo cầu thang, dùng để nâng người già/người khuyết tật lên/xuống cầu thang.
“Cẩn thận...”, Harris thì thầm đằng sau lưng cô.
Morrow định quay lại mắng anh ta thì trông thấy hai bàn chân phụ nữ, bên nọ cách xa bên kia, móng chân sơn màu đỏ chóe. Cô dịch người một phân và nghẹt thở khi đối diện với toàn cảnh. Cô đã trông đợi nhìn thấy sự việc tồi tệ, đã được trang bị tinh thần chống lại nó, nhưng ngoài nỗi thương tiếc chân thành và nghẹt thở, chẳng còn cảm xúc gì khác.
Người phụ nữ này đã vội vã lao xuống cầu thang, có lẽ tay nắm lấy thành cầu. Chắc hẳn cô đã ngã ngửa ra đằng sau và rồi chúng đã giết cô tại chỗ. Hai chân cô choãi rộng từ chỗ đầu gối, bông hoa lan ở chỗ kín đập vào mắt người quan sát. Cần cổ vẫn còn gắn liền với thân, phần thân dưới không hề bị đụng đến. Đó là một cơ thể đẹp. Cặp chân dài màu nâu, cặp đùi thon thả rám nắng.
Nhưng điều tồi tệ nhất đối với Morrow là cô ấy đã không bị kẻ khác cố tình sắp đặt nằm trong tư thế hai chân bất đối xứng như thế này. Sarah Erroll đã bị ngã như thế, chết như thế và bị để mặc như thế. Kẻ giết người đã không nhìn xuống, nghĩ cách hạ nhục cô và sắp đặt cô nằm hớ hênh như vậy. Chúng đã để mặc cô ở đây một cách vô lương tâm. Cô đã bị xúc phạm không thể tưởng tượng được. Giờ thì Morrow đã hiểu câu đùa lạnh nhạt về đôi chân cô gái: Chẳng bao lâu nữa các cảnh sát sẽ khinh bỉ Sarah Erroll, cứ như là cô ấy chọn việc bị phát hiện trong tư thế này, bởi câu chuyện thực tế quá đỗi đau thương.
Cô bước chân qua hiện trường, hít một hơi và cố không nhìn vào những vết thương, thay vào đó cô quan sát tay vịn: Thanh chống mảnh mai, làm bằng gỗ tối màu. SOCO3 đang tìm các mẫu sợi của bộ đồng phục màu trắng trong vũng máu khô ở các bậc thang, những chiếc hộp đồ nghề, loạt hộp vô trùng bằng nhựa trắng của họ đặt rải rác trên cầu thang.
3 Scenes of Crime Officer: Chuyên viên khám nghiệm hiện trường.
Morrow cố gắng một lần nữa nhưng ánh mắt cô không chịu ở nơi cô muốn. Nó cứ trượt từ chỗ khuôn mặt lên cửa sổ cao phía trên cầu thang, lên một bức tranh vẽ con chó săn màu xám treo trên tường, tới một dấu chân đẫm máu ở bậc thang ngay cạnh chân cô.
Cô biết nhu cầu tìm kiếm trật tự trên một khuôn mặt chỉ là điều tự nhiên. Khi các vết thương khủng khiếp đến nhường này thì ánh mắt người ta không còn biết neo vào cái gì để bắt đầu phác thảo bản đồ mặt người. Cần phải có ý chí mới ép được mắt bạn nhìn qua chúng và cần một quyết tâm lạnh lùng mới có thể dẫn đường cho bạn.
Cô nhớ đến bức ảnh chụp hiện trường của một vụ rơi trực thăng trên sườn đồi ở Western Isles4 (Các đảo phía tây). Mặt trước của chiếc trực thăng bị xẻ ra nên người ta nhìn rõ được thi thể của viên phi công khi bức ảnh được đưa lên máy chiếu trong phòng tối của trường Đại học Cảnh sát Tulllyallan. Anh ta đang ngồi thẳng, bàn tay phải vẫn đặt hờ trên cần số. Cô nhớ đã bối rối khi nhìn vào khuôn mặt đó như thế nào: Đỏ nhưng không đẫm máu, không mắt, không mũi nhưng răng thì vẫn còn, một cái mũi bị xẻo ngắn kỳ lạ. Cô nhớ cảm giác mất phương hướng khi đảo ánh mắt quanh bức ảnh cho đến khi đột nhiên trông thấy bức The Scream của Munch5 rơi bên cạnh người phi công như một quả bóng bay bị xịt hơi. Khuôn mặt anh ta đã bị cánh quạt cắt mất một nửa.
4 Vùng đất nằm ở phía tây Scotland, cách biệt với đảo chính.
5 Họa sỹ trường phái biểu hiện.
Morrow hít một hơi và buộc mình nhìn xuống đống bầy hầy đỏ lòm dưới chân mình, buộc mắt cô phải lưu lại để thể hiện sự tôn trọng đối với cô gái, để làm gương. Dái tai của cô ấy đã bị rời ra và đang nằm dưới vai như một dấu phẩy, một cái đốm đỏ tươi.
Sự việc sẽ dễ dàng hơn nếu cô ngồi ở sở mà nhìn vào các ảnh chụp, nó cũng giúp cô tìm kiếm manh mối hay dấu vết hiệu quả hơn, nhưng các cảnh sát trong sảnh sẽ trông thấy cô nhìn xoáy vào cô gái, họ sẽ bảo nhau và điều này sẽ quy vào thái độ. Không nói vớ vẩn, không kích động, nhìn thẳng vào sự việc và nói ra điều mình thấy.
Nỗ lực nhìn kỹ khiến cô phải thở dốc, tim đập chậm lại và máu trong người bị rút hết khỏi tứ chi. Cô đang đứng bất động đến nỗi cặp song sinh trong bụng nhầm tưởng nỗi kinh hoàng là giờ ngủ và cùng nhau biểu diễn những màn nhào lộn tai hại.
Cô đang nhìn vào vết rạch xấu xí trên da, cảm nhận bọn trẻ chậm chạp nhảy múa nhân danh đống lộn xộn này thì một thớ thịt đột nhiên giật lên làm Morrow phải nhảy lùi lại, tưởng rằng thứ ấy vẫn còn sống.
Cô nhìn lên. Một bóng ma SOCO đang đứng ở đỉnh cầu thang, khuôn mặt mờ tỏ, đôi mắt tội lỗi. Một cánh cửa ở bậc nghỉ thứ nhất vừa được mở ra và ánh sáng hắt vào thi thể.
Mọi chuyện bắt đầu từ một tiếng cười khúc khích lo lắng. Ai đó trong sảnh cười phá lên và cô nhìn quanh. Đột nhiên, tất cả mọi người trong sảnh đều cười, họ thấy xấu hổ vì tình cảnh ấy, và tiếng cười trở thành một cách xả hơi, hành động bình thường hóa nỗi kinh hoàng và ghê tởm, nó rộ lên thành những tràng cười ha hả, vang vọng quanh đại sảnh và vẳng lên cầu thang, xuyên qua lớp màn yên lặng ngột ngạt của căn nhà cũ.
Morrow tặc lưỡi khó chịu:
“Bình tĩnh đi, vì Chúa. Cứ làm như các anh chưa bao giờ trông thấy một mẩu bánh pudding ấy”.