Morrow và Harris bước cẩn thận qua thi thể nạn nhân trong lúc đi lên gác. Máu bắn tung tóe khắp nơi, dấu giày nhoe nhoét và đẫm máu, giống như bị một đứa trẻ nghịch ngợm đóng dấu lên vậy.
Cầu thang gắn vào tường thẳng và rộng, được làm từ loại gỗ rất đẹp.
Bản thân các bậc cầu thang cũng rộng và sâu, bề rộng mỗi bậc có thể chứa tới hai đôi giày cỡ số 5 của Morrow. Đây là loại cầu thang mà bạn phải đi từ từ, không nên vội vã. Lớp thảm trải rất dày và xù xì được ép sát vào bậc cầu thang bằng dây, để ngăn người ta bị trượt ở bậc cuối và tay vịn có thể đỡ được những chấn thương ở phần đầu. Nếu cô gái chết vì một vết thương ở đầu do ngã và bị kẻ đột nhập làm tổn hại đến thi thể thì họ lại đang có một kiểu tội phạm khác hẳn.
Khi lên đến bậc trên cùng, Morrow nhìn xuống. Thi thể gần như bị khuất đằng sau cột trụ to tướng ở chân cầu thang, chỉ nhìn được hai bên đầu gối. Bất chấp tiếng giấy sột soạt của những nhân viên khám nghiệm hiện trường và tiếng xì xào của đám cảnh sát, cô vẫn cảm thấy bầu không khí tĩnh lặng, một phần của lịch sử rộn rã đang khiến ngôi nhà thu mình vào bên trong. Không có nhiều cô gái trẻ chịu ở lại nơi này nếu như họ có sự lựa chọn. Nó quá lớn, quá cũ, quá nặng nề.
Đầu cầu thang có một cái bàn nhỏ được đặt giữa hai cánh cửa với rất nhiều bức ảnh xen lẫn nhau trong khung bạc bên trên. Nó giống như một vở kịch chỉ có ba diễn viên: Một người đàn ông luống tuổi cùng bà vợ hơi trẻ hơn trong các đám cưới, trong vườn, trên thuyền và chỉ có một người trẻ duy nhất trong vở kịch - cô ấy có một bức ảnh từ hồi còn bé và một bức nữa khi đã là thiếu nữ.
Cô bé con trong ảnh đang nở nụ cười khổ sở trong bộ váy hồng vì dải thắt lưng màu da cam quá chật.
Cô bé ấy gầy gò và cao ráo, người nghiêm như tượng nhưng không đẹp. Cằm cô yếu đuối, mũi hếch, đôi mắt nhỏ. Cô đứng bên ngoài trời nắng, có thể là trên bậc thềm ở trước mặt ngôi nhà này, cầm một ly rượu màu vàng và mỉm cười kỳ lạ. Nhìn vào chiếc áo khoác điệu đàng và đôi giày trên hiên, Morrow đoán đây không phải là bức ảnh chân dung yêu thích của Sarah và cô nghĩ điều đó cho thấy bức ảnh chẳng có gì tôn dáng này là do gia đình chọn lựa để đại diện cho cô ấy.
Cô quay sang chuyên viên khám nghiệm và thấy anh ta đang nhìn chằm chằm vào một vật nhỏ màu xanh lá cây trên sàn nhà. Một khối lập phương bằng da với ba chiếc khóa kéo nặng nề trên đầu, mỗi cái đều gắn với một mảnh da xanh đặc biệt: Một cái có vòng bạc, một cái có núm to hình vuông, một cái tán lỗ. Mặt trước của nó là một logo D&G lớn. Đó là một chiếc ví, đã bị mở toang và trống rỗng, bị vứt bỏ trên sàn nhà.
“Lấy vân tay chưa?”, cô hỏi và ngăn mình lại. “Tôi biết là anh lấy rồi, chỉ hỏi lại cho chắc...”. Anh ta gật đầu biết ơn. “Rỗng không à?”
“Đúng.”
Cô ra hiệu cho Harris.
“Thẻ tín dụng?”
“Đã gọi điện hỏi”, anh ta nói. “Chưa từng được dùng đến.”
Morrow cau mày.
“Vì lý do gì đó mà tôi không nghĩ chuyện này liên quan đến tiền.”
“Ừ, nhiều quá.” Harris nhăn mũi và gật đầu với thi thể máu me.
Họ cùng nhau rẽ sang chỗ cửa phòng ngủ. Một luồng ánh sáng màu hồng hắt ra từ bên trong. Cánh cửa hé mở và cô đẩy bản lề để tránh lưu lại dấu vân tay.
Căn phòng hình ô van vừa thấp vừa ấm cúng. Những cửa sổ nhỏ được đặt khắp các chỗ tường vòng, mành cửa bằng gỗ trắng đều đang kéo xuống, giấy dán tường hoa lá màu hồng và một chiếc lò sửa tí xíu màu trắng có chấn song sắt đen. Đối diện với nó là chiếc giường đôi lộn xộn, một cái chăn màu trắng xa hoa bị lật lên. Bầu không khí trong phòng rất ngột ngạt, giống như có người vừa mới ngủ ở đây vài phút trước và đã hít hết oxy trong phòng.
Trên sàn nhà là một chiếc váy liền màu đen với phần lưng váy không móc khóa đã bị chủ của nó cởi bỏ và thả xuống. Một chiếc quần lót ren màu hồng rực với dải ruy băng xanh nhạt luồn qua phần eo, hai vòng tròn ống quần hoàn hảo cho thấy nó đã được tuột xuống một cặp chân hoàn hảo.
Cô gái đó chẳng hợp với ngôi nhà này một chút nào. Morrow nhìn vào Harris và anh ta lắc đầu, bản thân anh ta cũng ngạc nhiên, nhưng lại đang hơi mải mê với vẻ xinh đẹp của chiếc quần lót.
“Cái này... có vẻ hơi lẳng lơ, đúng không nhỉ?”
“Cái gì?”, cô hỏi, “quần lót ấy à?”.
“Phải. Nó có thể đem đến ấn tượng sai lầm.” Dường như anh ta không dứt mắt nổi. “Hoặc là không.”
Morrow lại nhìn vào nó. Cô cũng có một chiếc quần hơi giống thế này và thường mặc chúng để tự động viên tinh thần vào những ngày u ám. Nó cũng mang lại cảm giác thích thú tản bộ mỗi khi cô thấy phiền.
“Anh nghĩ cô ấy là...”, nhất thời cô không nghĩ ra từ nào khác thay từ điếm. Từ ấy không hay, song vì lý do gì đó, sử dụng từ lao động tình dục thì không được. Bức bách, cô chỉ vào chiếc quần lót. “Đang làm việc à?”
Anh ta nhìn chằm chằm vào cái quần, đôi mắt đảo quanh cặp đùi:
“Có thể. Có thể tiền từ đó mà ra?”.
Cô lại nhìn vào chiếc quần lót xinh đẹp:
“Rất nhiều phụ nữ mặc đồ lót hở hang để động viên bản thân”.
Harris đỏ mặt và vội quay mắt khỏi chiếc quần lót trên sàn nhà.
“Đúng vậy.”
Cô đã ám chỉ đến thói quen mặc đồ lót của chính mình, phá vỡ nguyên tắc phi giới tính trong lực lượng. Sai rồi. Có thể đó là do hoóc môn, đó cũng có thể là vì cô chợt nhận ra thật ngu ngốc khi chỉ lỡ hé lộ một chút thông tin về đồ lót của mình mà cũng gây ra vấn đề, nhưng cô khẽ cười, mặc dù nếu là trước đây thì cô sẽ tức giận với bản thân vì đã lỡ lời như thế. “Hoặc có thể nó là chiếc quần sạch duy nhất ở chỗ này. Có thể lắm, ý tôi là thế.”
Harris gật đầu và lo lắng nhìn khắp phòng, mong cô tiếp tục. Cô thích Harris, nhưng có vẻ như anh ta đụng chuyện gì cũng nghĩ đến tình dục. Cô sẽ chẳng đi tới đâu nếu anh ta bị kìm nén quá mức hay có dục năng không bình thường.
Quay lại với chiếc giường, Morrow có thể thấy chỗ lõm trên ga trải giường nơi chủ nhân của nó hẳn đã nằm nghiêng một bên và thả đôi chân xuống sàn. Cô nhìn vào chiếc chăn sạch sẽ và đắt tiền, tự hỏi liệu có phải loại vải lanh mấy trăm sợi1 gì gì đó không và cụ thể là mấy trăm. Phát hiện một luồng ánh sáng mờ mờ ở giữa các nếp gấp, cô bước tới, nhấc mép chăn và kéo nó lên. Đó là một chiếc điện thoại có phần lưng ốp màu bạc, bản rộng nhưng mỏng dính đang nằm úp xuống giường.
1 Số lượng sợi trong một inch vải, thông thường số sợi càng cao thì vải càng tốt và đắt tiền, nhưng chất lượng sợi vải cũng rất quan trọng.
“iPhone”, Harris mỉm cười. “Hẳn cả cuộc đời cô ấy đều nằm trong đó.”
Morrow cau mày với vật màu bạc:
“Tôi tưởng chúng chỉ có màu đen hay trắng”.
“Bản gốc đấy.” Anh ta định lôi ra một chiếc túi ni lông để đựng nó nhưng nghĩ lại và gọi chuyên viên khám nghiệm lên để lấy dấu vân tay trước.
Trong lúc họ bận rộn với việc ấy thì Morrow nhìn vào chiếc túi xách trên sàn nhà. Lại là da hảo hạng, màu vàng mù tạt sắc nét, thiết kế lạ với những chiếc khóa kéo quá khổ. Morrow cúi xuống hơi khó khăn và lật mở nắp túi bằng chiếc bút của mình. Có một chùm chìa khóa nằm ở đáy túi: Bốn chìa chụm quanh một vòng tròn màu bạc đơn giản. Cô hài lòng khi nhìn thấy những hóa đơn vứt lung tung trong túi. Hầu hết các ngăn kéo đựng tiền tự động đều in ngày giờ và địa chỉ cửa hàng trên hóa đơn. Họ sẽ lần theo được dấu vết của cô nàng Sarah từ đây.
Morrow đứng dậy nhìn họ cẩn thận lấy dấu vân tay trên chiếc iPhone làm bụi bay khắp chiếc chăn lanh trắng.
Cô nhìn ra cửa phòng, nghĩ lại con đường đi qua cầu thang ra hiên và tưởng tượng cảnh Sarah Erroll đi vào một căn nhà trống trải. Khuôn mặt cùng thân hình thon thả và dẻo dai của cô trong chiếc váy đen ôm sát chỉ còn là một màn máu me hỗn loạn.
Sarah đặt chiếc vali ở cạnh tường, thả chìa khóa vào trong túi và tuột giày cao gót ra. Morrow tưởng tượng tiếng “cộp” khẽ khi những gót giày nhọn rơi xuống sàn nhà lát gạch. Cô nhìn thấy Sarah vươn tay vào trong chiếc túi to, lục trong đáy túi một lúc để lôi chiếc súng phóng điện trá hình điện thoại ra, bước qua hành lang và thả bừa nó xuống một bức tường khác. Hay đứng ở đỉnh cầu thang và ném nó xuống.
Morrow lại bắt đầu lần nữa với khẩu súng phóng điện: Nó nằm ở gần chỗ cô gái đã chết. Cô ấy đã lao theo nó hoặc kẻ nào đó đoạt mất và thả nó rơi xuống đấy. Có thể nó được đặt trong túi cô ấy và kẻ đó đã lấy được, rồi hắn nghĩ lại và thả rơi nó trên đường bỏ đi.
“Lấy dấu vân tay trên khẩu súng điện đi.”
“Vâng.”
“Kiểm tra cả sợi thớ vải nữa”, cô nói, “xem có phải nó được lôi ra từ trong chiếc túi này hay không”.
Cô nhìn thấy người phụ nữ không đầu thả rơi đôi giày và trèo lên cầu thang, tưởng tượng ra những chỗ đau nhức trên người cô ấy vì ngồi suốt bảy giờ liền trên một chuyến máy bay, tưởng tượng niềm khoan khoái của cô ấy khi được cởi chiếc quần lót ren ra, mặc áo thun vào và đắm mình trong chiếc giường lớn.
Hai người đi xuống cầu thang, rịn tay vào tường trong lúc bước cẩn thận qua thi thể. Lần này Harris đi trước, Morrow thấy anh ta đã thực sự nhìn thẳng vào đống hỗn độn đó trong giây lát, không nhăn mặt và hy vọng đó là nhờ tấm gương của mình. Anh ta nhón chân đi giữa các vệt máu và dừng ở chân cầu thang, giơ một tay ra giúp cô. Cô gạt tay anh ta ra.
“Dấu giày?”
“Vâng”, anh ta nói, “tìm được những sợi màu đen trong đó, có thể là giày da lộn”.
Harris ngẩng đầu và nhìn lại khi Morrow đến bên cạnh anh ta. Các dấu chân đều đẫm máu, nhoe nhoét khắp các bậc cầu thang, một vài dấu thì rất sắc nét, vài dấu lỗ chỗ do bị màu xanh đậm của tấm thảm chen vào.
“Khoảng cỡ số 8 đúng không?”, Morrow hỏi.
Cả hai nhìn một phút, cùng nghiêng đầu, bước chân theo các dấu vết để tìm ra kiểu mẫu.
Cuối cùng Harris nói:
“Hai cặp?”.
“Đúng không?”, cô bước đến chỗ anh ta đang đứng và trông thấy một dấu chân hoàn hảo bên cạnh một dấu khác, cả hai đều là dấu chân phải, một bên to hơn bên kia nhưng đều cùng một kiểu đế giày. “Ôi trời, anh nói đúng. Chết tiệt thật.”
Sự thể tệ hại hơn rồi. Nếu có hai thủ phạm thì chỉ chứng minh bọn chúng đã ở hiện trường và vấy đầy máu thôi không đủ. Thế có nghĩa là họ phải chứng minh với bồi thẩm đoàn là từng tên trong đám đồng phạm này đều phải tích cực tham gia vào hành động bạo lực. Chúng sẽ bị kết vào tội thông đồng giết người, mà tội này thì lại có khung hình phạt nhẹ hơn. Việc đó không đáng mừng một chút nào, đặc biệt là nếu một người chỉ đứng sang bên và gào thét bảo người kia dừng lại. Nếu luật sư bào chữa có thể gợi ý chỉ một nghi ngờ thôi thì cả hai tên đều có khả năng trắng án. Morrow cảm thấy việc ấy sẽ biến một phiên tòa trở thành trận đấu: Kẻ chiến thắng sẽ là kẻ mạnh hơn chứ không phải kẻ vô tội. Hy vọng tốt nhất của họ là sẽ tìm được bằng chứng vật thể để chứng minh cho vụ án.
Cô lại nheo mắt nhìn bậc cầu thang.
“Chết tiệt. Chúng giống nhau. Chúng ta sẽ phải tìm cái gì đó, dấu vết trên đế giày hay đại loại thế.”
“Mặc dù vậy chúng rất giống nhau. Có phải là đồng phục không nhỉ?”, Harris nói.
“Có thể.” Cô chỉ tay về phía bậc cầu thang, ”chúng ta có thể phân tích các bước chân này, tái lập cử động được không? Đem bộ câu hỏi phỏng vấn ra”.
“Không biết. Tôi sẽ hỏi xem.”
Morrow lắc đầu và nhìn kỹ hơn.
Cả hai dấu giày đều có cùng một kiểu hoa văn: Ba vòng tròn ở các huyệt và những đường sọc dẫn tới chỗ chúng.
“Chúng ta có lần theo kiểu đế giày này được không?”
Có vẻ như Harris vẫn chưa tin.
“Chúng tôi có thể hỏi các cửa hàng giày.”
“Đi xem chỗ tiền nào.”
Anh ta dẫn cô đi qua tử thi, quay ra sảnh chính, đưa cô qua một cánh cửa nhỏ và xuống một cầu thang để tới bếp. Một kệ bếp đúc bằng thép đặt trên tường bao ống khói. Căn phòng này rất lạnh vì toàn bộ tường và mái đều là bê tông cứng và cửa sổ đằng sau vừa dài vừa rộng, nhìn thẳng xuống một đám bụi cây trơ trọi quấn quít vào nhau.
Một chuyên viên khám nghiệm hiện trường trong bộ đồng phục trắng đang đi lại xung quanh, thu thập sợi trên bậu cửa sổ và bồn rửa rồi cho chúng vào túi. Gobby đứng ở một góc, tránh hẳn khỏi đường đi. Anh ta chào cô bằng cái gật đầu im lặng, giữ nguyên ánh nhìn trên bàn bếp.
“Chào Gobby.”
Gobby vốn ít nói nên không đáp lời.
Morrow nhìn quanh căn bếp.
Đây là một căn phòng rộng, lớn hơn cỡ họ thường xây thời bây giờ nhưng không có gì là hoành tráng. Vải nhựa đỏ đã bạc màu được phủ trên sàn, những chỗ bị nứt đã được cẩn thận vá lại bằng băng dính điện màu bạc. Đồ đạc trong này cũng chẳng có gì đáng chú ý: Một cái chạn bát bằng gỗ thông, sơn màu trắng nhưng đã bị nứt nẻ nhiều, một trong các khung kính cũng được vá bằng băng dính bạc - một công việc khác cho một ngày khác. Chiếc tủ lạnh kiểu cũ phát ra tiếng rừm rừm to tướng. Cái bếp điện bình thường không hỏng hóc chỗ nào nhưng trên mặt kính đã phủ một lớp bụi mỏng. Chẳng có ai nấu nướng ở đây cả. Chính giữa căn phòng được đặt một chiếc bàn ăn bằng gỗ tếch cũ, đầy vết dao cứa dưới đáy cốc, ở giữa bàn có một đường nối cho thấy chiếc bàn này có thể kéo dài thêm được. Một loạt ghế được kê sát sạt vào bàn trừ những chiếc ở mé bồn rửa đã bị kéo ra.
Harris đằng hắng sau lưng cô. Cô quay lại và nhìn thấy anh ta khẽ ra dấu cảnh báo về phía góc phòng.
Cô đã không trông thấy anh ta, người đàn ông ngồi trên ghế tựa ở cạnh kệ bếp trong lúc ôm chặt cặp táp của mình và úp mặt vào góc nhà. Anh ta còn trẻ, cỡ khoảng ngoài ba mươi nhưng trông già dặn trong bộ com lê kẻ sọc tối màu với áo khoác ngoài màu vàng và cà vạt đỏ. Anh ta có thân hình tròn trịa, tuy được bộ quần áo tâng bốc ít nhiều nhưng vẫn còn thấy rõ những chỗ béo, mặt anh ta cũng tròn, đôi mắt mở lớn và nhìn cô cảnh giác.
“Xin chào”, cô nói.
Anh ta đứng dậy rất nhanh, bước tới chỗ cô và giơ tay ra, cúi về phía cô như thể anh ta đang bị treo trên một mỏm đá và mong cô kéo mình lên.
“Donald Scott.”
Cô bắt tay anh ta.
“Thanh tra Alex Morrow. Anh đã bị sốc.”
Anh ta thở hắt ra chữ vâng, mắt liếc ra ngoài sảnh, tới chỗ chiếc bàn rồi trở lại chỗ cô, kéo mạnh tay cô và siết chặt.
“Anh có quen biết nạn nhân không?”
“Có, có. Có.” Anh ta cân nhắc câu hỏi và nói thêm. “Có?”
“Anh là luật sư của cô ấy?”
“Ừm.” Anh ta nhìn đôn đáo khắp phòng, thở hổn hển, chuẩn bị bộc phát cảm xúc một cách không cần thiết. Morrow phải can thiệp ngay:
“Được rồi, chúng tôi sẽ mang anh về sở và nói chuyện với anh ở đó. Khi nào anh đến đó tôi muốn anh ăn một vài cái bánh quy, thứ gì đó có đường ấy, để chống lại cơn sốc. Anh hiểu không?”.
Cô không chắc đường có giúp ích gì không nhưng biết rằng việc ăn nó sẽ cho người ta một nhiệm vụ, một cái gì đấy để tập trung suy nghĩ, một việc nhỏ bé để hoàn thành.
“Anh hiểu không?”
“Vâng.” Nhưng anh ta đang nhìn qua vai cô vào ngưỡng cửa, sợ rằng họ sẽ mang anh ta ra ngoài qua hướng ấy, đi qua cái xác một lần nữa.
“Đi cửa sau”, cô nói với Harris.
Harris cầm khuỷu tay người đàn ông dẫn ra ngoài để đảm bảo anh ta không dẫm chân lên thứ gì quan trọng rồi đóng cửa sau lại.
Mọi người ở trong bếp đều thả lỏng, trái ngược với nhân vật đó. Nỗi kinh hoàng rành rành của một người ngoài đã khiến họ hổ thẹn đến mức sùng kính. Cảm giác ấy hết sức khó chịu, nó nhắc nhở họ rằng tất cả bọn họ đều rất khiếp sợ. Morrow xoay đầu ra sau để giải tỏa căng thẳng cho phần cổ. Vai cô bị căng đến tận mang tai kể từ lúc rẽ ở khúc quanh và trông thấy đống bầy hầy ở chân cầu thang.
Cô nhìn quanh. Một cửa sổ phía trên bồn rửa đã bị kẻ nào đó nạy ra bằng xà beng một cách cẩu thả, uốn cong thanh kim loại ra ngoài ở chỗ cái chốt và cứ mặc nó mở ra như thế. Không phải cách làm của dân chuyên nghiệp. Thậm chí việc này còn được thực hiện một cách thiếu cẩn thận. Kẻ có ít nhiều kinh nghiệm đột nhập vào nhà riêng sẽ cố gắng che đậy đống lộn xộn hắn gây ra và làm cho cái cửa có vẻ như đã đóng một khi chúng chui vào nhà. Nhìn ra khu vườn cỏ dại mọc cao, cô có thể thấy chỏm đầu một cảnh sát đang kiểm tra bên dưới cửa sổ để tìm dấu chân. Một trong những lợi ích của việc có các cảnh sát không màng đến thăng tiến là: Họ luôn thông minh hơn đám bị bỏ lại trước đây, luôn nghĩ về công việc trước cả khi được sai bảo.
Cô hít một hơi trước khi bước qua bức tường trước mặt. Vừa bước vào phòng vừa tưởng tượng đường đi của kẻ xâm nhập: Xuyên qua cửa sổ, qua bồn rửa kim loại và giá úp bát, trườn xuống mặt đất. Nếu biết rõ căn nhà, bọn chúng sẽ đi thẳng ra ngoài hành lang, nhưng cửa phòng kho lại đang hé mở, bên cạnh nó lại là một cánh cửa mở dẫn vào phòng để đồ nhỏ chứa máy giặt, máy sấy và bàn là hoen rỉ. Đối diện là một cánh cửa đang mở khác dẫn vào tủ bếp rất sâu chứa đầy đồ hộp.
Morrow đi vào kho và đứng trước ngưỡng cửa. Một căn phòng để cất trữ thức ăn trước khi tủ lạnh được đưa tới. Cô có thể cảm nhận hơi ẩm đậm đặc bám vào mắt cá chân mình. Người sống ở đây luôn cẩn thận đóng cánh cửa này lại. Kẻ đột nhập đã mở nó để tìm đường ra khỏi bếp.
Ở kệ cạnh bếp điện là một chiếc đài cũ đã bị rút phích cắm, sợi dây đang được thả thõng thượt từ trên kệ chứ không phải để dưới ổ cắm gắn tường như cách một người sẽ làm nếu còn có ý định bật lại nó. Chúng đã tắt chiếc đài đi để định hướng.
“Lấy dấu tay trên cái phích cắm kia đi”, cô nói với một chuyên viên.”
Có vẻ buồn bực, cô quay sang Gobby và hỏi:
“Thế nó ở đâu?”.
Anh ta cười toe và chỉ vào bàn.
Morrow nhìn vào nó:
“Gầm bàn à?”.
“Vâng.”
“Chết tiệt.” Morrow nhìn vào cái bàn, định hình hướng đi của mình. Cơ thể cô thay đổi nhanh chóng đến mức mỗi một cử động mới lại là một thử nghiệm.
Cô hỏi chuyên viên khám nghiệm:
“Thế này có được không...?”. Cô đặt tay lên mặt bàn, hỏi xem có thể tựa vào đó không.
“Không, tốt hơn là...” Anh ta giơ tay ra và Morrow miễn cưỡng cầm lấy, nặng nề dựa vào anh ta để quỳ xuống một đầu gối rồi quỳ tiếp bên kia. Cô không thể vặn người một bên mà không làm xương sườn chọc vào bọn trẻ: Cô sẽ phải bò trên mặt đất và ghé mắt nhìn như kiểu một chú chó xin bánh quy vậy.
Cô không nghĩ mọi chuyện có thể đáng hổ thẹn hơn nhưng đúng lúc ấy Harris trở vào bếp... Cô có thể thấy chân anh ta bên cạnh mình.
Đầu tiên ánh sáng đèn pin của cô chạm phải một mảnh gỗ ép bị cắt ẩu. Nó được đặt ngang hai thanh giằng chân bàn, nằm ở đó giống kiểu một lần sửa bàn thất bại. Nhưng rồi cô trông thấy cái gì đấy màu hồng tươi như một vết thương hở nằm ở trên nó, kẹp giữa mặt bàn và lớp ván gỗ xấu xí.
“Hãy mang cái đó ra đây.”
Cô lúi húi đứng lên trong lúc Gobby và Harris bước tới và cúi xuống, mỗi người nắm một đầu tấm ván, trượt nó ra ngoài để Harris giữ yên cho đến khi Gobby đi vòng qua và giúp anh ta. Tấm ván rất nặng và họ cố không làm lật nghiêng nó hay di chuyển đống tiền.
Họ đặt nó lên một bề mặt đã được chuyên viên khám nghiệm đồng ý và nhìn vào nó. Morrow mỉm cười: Toàn là màu hồng, cứ như cái chăn ghép vậy, từng cọc tiền xếp cạnh nhau nối dài mẫu hoa văn ra mãi.
Tiền đã được đặt cẩn thận ở giữa tấm ván. Hẳn Sarah đã lôi tấm ván ra để đặt tiền vào trước khi trượt nó trở lại, nhưng Morrow có thể trông thấy các cọc tiền ở ngoài rìa hơi lộn xộn, như thể Sarah có thói quen cất tiền trong tư thế quỳ, còn bàn tay thì quờ quạng để xếp chúng vào chỗ.
Một đống tiền màu hồng ngon mắt. Morrow nhận ra miệng cô đang há hốc, chảy nước miếng. Đồng tiền lạ khiến cho nó có vẻ bất tận, giống cách một đứa trẻ trông thấy tiền vậy, và các tờ tiền lại lớn gần bằng kích cỡ một cuốn sách bìa mềm.
“Ai sẽ giữ chỗ này?”, cô hỏi bâng quơ.
Gobby cười toe:
“Chưa có ai”.
Morrow nhìn theo tấm ván. Nó dài khoảng bốn feet, các cọc tiền được xếp thành sáu hàng, tám cột. Cô cố nhân nhẩm xem chỗ đó là bao nhiêu tiền, cố nhớ trong hàng triệu có mấy số 0.
“Gobby, anh không được nhận lương để đứng đấy đâu. Bắt đầu nhận đặt cược và ghi tên cho tôi mười bảng đi.”
“Cô đoán sao?”
“Gần một triệu.”
Gobby liếm đầu bút chì.
“Đồng Euro hay đồng bảng?”
Đột nhiên, Harris sôi nổi hẳn lên:
“Quy hết ra đồng bảng đi, dùng tỷ giá hối đoái của ngày chúng ta đếm tiền”.
Morrow gật đầu.
“Vậy thì tôi đổi ý: Quy ra cho tôi là bảy trăm năm mươi ngàn bảng.”
Gobby ghi xuống một biên lai anh ta vừa lôi ra khỏi túi áo và Harris nhìn:
“Ghi cho tôi sáu trăm năm mươi, cược mười bảng”.
Gobby cau mày với tấm ván:
“Vậy thì tôi sẽ lấy số chẵn bảy trăm ngàn”.
“Được rồi, được rồi, tốt lắm”. Harris đang mỉm cười. “Chừng nào tiền được đếm nhỉ?”
Cô chưa bao giờ nhìn thấy Harris đột nhiên sôi nổi thế này và biết đây là vẻ mặt của một kẻ máu cờ bạc:
“Có thể là ngày mai”.
“Mai đúng không.” Harris gật đầu với Gobby. “Anh xem có ai muốn cá nữa không.”
Gobby cũng để ý thấy anh ta có vẻ như thế thật.
“Này, anh không phải tín đồ đỏ đen đấy chứ?”.
Harris hơi đỏ mặt một chút:
“Chả hiểu anh đang nói gì”.
Gobby cười gian như thể vừa bắt được một con mèo để tra tấn.
Hình ảnh đống tiền làm Morrow phân tâm tới mức cô phải bắt đầu lại: Bọn chúng đi vào qua cửa sổ ở trên giá úp bát, mở nhiều cánh cửa khác nhau. Tất cả các cánh cửa đều cùng một cỡ, đều là mặt gỗ phẳng, đây là một cải tiến từ những năm 60 cho các căn nhà cổ để chúng không bị bám bụi và trông sạch sẽ hơn. Chúng rút phích cắm đài và lắng nghe, không hề trông thấy tiền...
“Thưa chị”, là Tamsin Leonard ở cửa hậu. “Thanh tra trưởng Bannerman...” Cô ta giơ điện thoại ra và Morrow nghe tiếng Harris gầm gừ phản đối cái tên.
Morrow quay sang lườm anh ta khiển trách, khiến anh ta phải cụp mắt xuống. Gobby thì nhướng mày lên vô tội như thể chuyện chẳng liên quan gì đến mình.
Cô chậm rãi cầm điện thoại từ tay Leonard.
“Sếp?”
“Ở đấy có chuyện gì?”
“Một chủ nhà đã chết, nhiều chồng tiền bị giấu trong bếp. Rất nhiều điều kỳ lạ ...”
“Ví dụ như thế nào?”, giọng ông ta có vẻ háo hức. Ông ta sẽ không có cái giọng đó nếu trông thấy cô gái dưới chân cầu thang.
“Mặt bị đập nát, theo nghĩa đen ấy ạ, đột nhập cẩu thả, không chuyên nghiệp một chút nào...”
“Vậy là kẻ nào đó có quen cô ta. Rõ là thế rồi. Điều cơ bản trong sách thám tử, các vết thương lộ rõ ở vùng mặt thường có nghĩa là kẻ tấn công quen biết nạn nhân”, nhưng Bannerman không cố tình ra vẻ với cô, ông ta đang dùng cô để tập nói kết luận trước mặt các sếp.
“À...” Cô nhìn Harris ra lệnh cho Leonard đặt cược vào số tiền, giải thích luật quy đổi. Leonard có vẻ miễn cưỡng. “Thực sự chúng tôi vẫn đang kết nối sự việc.”
“Vậy là giết người liên quan đến tình dục à?”
“Vẫn đang thu thập chứng cứ, sếp ạ.” Cô thích cái ý tưởng ông ta phải ghen tị với cô vì được ở đây, được nhìn thấy. “Có cả một đống tiền ở đây. Tiền mặt. Bằng Euro. Tôi không biết có phải tiền thật không nhưng chúng tôi cần một chiếc xe bọc thép tới mang nó đi.”
“Bao nhiêu?”. Ông ta có vẻ không bận tâm, ám chỉ rằng “rất nhiều” với cô có thể chẳng có ý nghĩa lắm với ông ta.
Cô đã có thể mường tượng ra cảnh Bannerman trong bức hình chụp một bàn đầy tiền màu tím, trông có vẻ nghiêm nghị nhưng đẹp trai.
“Tôi không tin vào khả năng tính toán của mình lắm đâu sếp. Hàng triệu thì có sáu chữ số đúng không nhỉ?”
“Tôi tới ngay. Tôi sẽ mang xe bọc thép tới.” Và ông ta gác máy.
“Tạm biệt”, Morrow nói với không khí theo thói quen. Bản thân cô cũng hơi sững sờ. Cô đưa lại điện thoại cho cảnh sát viên và bắt gặp ánh mắt Harris, nhìn thẳng vào anh ta trong lúc thông báo tin mới.
“Bannerman đang đến.”
“Tốt thôi, tôi ổn cả”, anh ta nói, giữ cho khuôn mặt trung lập. “Ông ta có thích cá cược không nhỉ?”