Kay xoay chìa khóa cửa ra vào nhưng không được. Cô cố rút ra rút vào ổ khóa rồi thổi vào nó. Chuyện này chưa từng xảy ra: Chìa khóa tra vừa vào ổ nhưng lại không chịu xoay. Cô muốn đấm đá cánh cửa và dùng vai húc đổ nó.
Cô dừng lại để hít một hơi và tự nhủ mình phải cẩn trọng. Vì đêm hôm trước mà cô đã thấm mệt. Lúc ba mẹ con về đến nhà, cô phải sang nhà hàng xóm để đón Marie và John, đưa tất cả về nhà, bắt bọn trẻ lên thẳng giường ngủ. Rồi cô thức đến tận 5 giờ sáng, hút thuốc ở trước cái ti vi. Cô cũng biết bọn nhỏ đang nằm chớp mắt trong bóng tối. Cô đã nghe tiếng Joe và Frankie thì thầm khi đi vệ sinh lúc 4 giờ kém 10. Cô đã ngồi hút thuốc và uống trà thảo dược, quá xấu hổ không ngủ nổi khi nghĩ về gia đình mình và tình cảnh của họ trước mặt đám cảnh sát.
Cô biết là trông họ giống tầng lớp lao động, bản thân cô đôi lúc hơi nhếch nhác nhưng cô luôn nghĩ mình và các con vẫn khá tươm tất. Có lẽ là không. Có lẽ trông bọn họ có vẻ ghen ghét và thèm muốn và hạ cấp. Có lẽ trông cô giống bà già bốn mươi lăm đến sáu mươi tuổi, Frankie có vẻ kỳ quặc còn John thì cứ như là thời niên thiếu của kẻ hiếp dâm. Có lẽ Marie béo ú và Joe thì xun xoe. Cô chưa bao giờ khủng hoảng lòng tin đối với bọn trẻ của mình. Hành động đó khiến cô buồn nôn.
Để chứng tỏ với bản thân là mình còn tươm tất, Kay thức dậy sau giấc ngủ ba tiếng và bắt cả bọn nhóc dậy hết rồi ăn sáng và đến trường trong những bộ quần áo sạch sẽ, là lượt cẩn thận. Rồi cô mặc đồ, chải tóc và bắt xe buýt tới Thorntonhall. Ngồi trên bục cao nhất, cô dựa đầu vào cửa xe huyên náo trong khi hơi thở đông đặc của những người lạ phả vào tóc mình và cô thề rằng sẽ lắng nghe Margery nói chuyện mà không hở một lời về tối hôm trước. Cô sẽ vỗ vào tay Margery và bảo bà ta đừng lo lắng. Cô sẽ quên bản thân mình, làm việc chăm chỉ và nhẹ nhàng.
Nhưng chìa khóa của Margery không khớp. Khi lại mở mắt ra, cô hít vài hơi thật sâu và thư giãn cơ thể một chút, xoay eo để đối mặt với cánh cửa kiểu Pháp của nhà bếp.
Margery đang nhìn cô. Hai tay bà ta khoanh lại. Bà ta đang mặc chiếc quần màu vàng, cái quần đắt tiền mà bà ta rất hối hận vì đã mua nhưng vẫn yêu thích. Hiếm khi bà ta mặc nó, chỉ dành cho những dịp đặc biệt. Quần loe màu vàng chuối, đã lỗi thời đến ba mươi năm rồi.
Kay giơ tay lên vẫy nhưng Margery không cử động. Bà ta đứng chôn chân ở cửa sổ, nhìn thẳng vào cô. Kay chờ bà ta chỉ vào ổ khóa hay mời cô đi qua cánh cửa kiểu Pháp. Thay vào đó, Margery duỗi tay ra và chỉ lại cánh cổng.
Kay liếc ngược lại. Cổng vẫn đóng, cô đã đóng nó cẩn thận. Thế nhưng Margery vẫn đứng bất động, chỉ vào nó, miệng nói “không” hoặc là “đi đi”.
Ai đó đang ở trong nhà với bà ta.
Thả chiếc túi nhựa của mình xuống nền rải sỏi, Kay chạy ra chỗ cửa sổ kiểu Pháp và kéo cái tay nắm để cố mở nó trong khi đáng lẽ cô phải đẩy vào. Nhận ra sai lầm, cô xoay nắm cửa và đẩy, làm cửa kính đập vào mặt bàn bếp bên trong.
Margery bị đẩy lùi lại, bám chặt lấy bồn rửa.
“Đi ra!”
“Ai ở đây?”
Kay hướng vào trong phòng khách.
“Không có ai cả.”
Cô dừng bước. Lắng nghe. Cô biết rõ âm thanh trong nhà này và không có ai ở đây ngoài Margery cả.
“Đi ra.”
Kay đổ mồ hôi, hổn hà hổn hển, cảm thấy yếu đuối trước bà Margery, bà ta đang lạnh lùng đứng cạnh cái bồn rửa.
“Tại sao?”
Margery bước sang cái bàn như thể đó là việc khẩn cấp lắm và điều chỉnh lại vị trí cái bình pha lê nhỏ cắm đúng một bông hồng vàng, bà ta chỉnh nó một chút. Bà ta nhìn vào Kay, kéo môi lại để nở nụ cười không thương tiếc.
“Cảnh sát đã trở lại. Cô biết tại sao mà.”
Trong một phút, Kay không thể nghe nổi tiếng nào trên đời ngoài mạch đập của chính mình. Cô cảm thấy máu dồn lên má, lên mắt và lên khắp mặt mình.
Cô nhìn Margery Thalaine đứng trong căn bếp trị giá ba mươi ngàn của bà ta, bạnh môi ra với người giúp việc và cô đã hiểu hoàn toàn thứ Margery đang trông thấy: Một người thất bại và thảm hại.
“Bà sai rồi”, Kay thì thầm trong khi muốn hét lên, “việc đó không đúng”.
“Đi ra”, giọng Margery rất lạnh lùng và ý bà ta là đừng bao giờ trở lại, không phải sau này, cũng không phải trong một năm nữa.
Kay cũng có thể nói những điều làm tổn thương Margery, cô có thể trách cứ rằng mình đã làm bạn với bà ta đã tử tế một cách không cần thiết với bà ta. Cô có thể trách rằng cô vẫn bị nợ tiền khăn lau và chất tẩy rửa. Thậm chí trong một giây phút yếu đuối, cô có thể lôi chuyện chuyến bay từ Berlin của bà Thalaine hồi năm 1938 ra nói và hỏi làm sao bà có thể dễ dàng vào hùa với nhà chức trách như thế.
Nhưng cô không hề làm vậy vì buồn bã không nói nên lời. Thay vào đó, cô đi ra khỏi cánh cửa kiểu Pháp và nhẹ nhàng đóng lại sau lưng, nhìn vào tay nắm cửa chứ không phải căn phòng.
Rồi cô đi ra cửa trước, thò tay qua hai cái quai túi nhựa đang hướng lên như một đứa trẻ. Kay ra ngoài cổng, ngẩng cao đầu cho đến khi tới được chỗ đặt thùng rác ở đằng sau khúc quanh và châm thuốc. Cô quay vào hàng rào để giấu mặt trong lúc hút thuốc.
Một hơi thở sâu rát buốt ngăn lại những giọt nước mắt chực trào ra trong mắt cô. Cô gần như chưa thở ra hết hơi này đã rít một hơi khác. Nỗi hoảng loạn của cô không phải do sự ác ý và xem thường của Margery. Cô hoảng sợ là vì giờ đã không còn việc làm nữa mà lại có đến bốn đứa trẻ cần giày dép, đồ ăn, lại còn tiền thuê nhà và tiền thuế chết tiệt nữa. Tất cả chỉ vì tiền. Chỉ vì tiền thôi. Mình có thể xin một việc khác, cô tự nhủ dù biết rằng mình không mấy khi tìm được những việc trả lương cao mà lại hợp vời giờ giấc. Việc khác có nghĩa là làm ca đêm ở Asda, cô sẽ đi vắng cả đêm và bọn trẻ phải ở nhà một mình. Thậm chí, cô còn không biết bọn chúng có về nhà hay không, ai sẽ về cùng với chúng.
Cô rít một hơi nữa. Không. Sẽ có những công việc khác. Cô vẫn còn nhà Campbell. Có lẽ họ sẽ quen ai đó khác ở đây cần người dọn dẹp. Có lẽ.
Cô thả điếu thuốc, hơi kinh ngạc vì chỉ cần bốn hơi đã hút hết cả điếu. Cô vẫn đứng ở đó, lấy lại bình tĩnh, vuốt tóc và đi vòng theo con đường đến nhà Campbell, băng qua vườn trong lúc tránh khỏi bãi cỏ cho đến khi tới cửa bếp.
Molly Campbell đang ở trong bếp. Cô biết chị ta đang chờ đợi, theo dõi Kay. Margery đã sang đây kể lể về cô và chuyện Molly sẽ sa thải cô, rồi đòi lại chìa khóa.
Molly cười khổ sở và mở cửa.
“Chào Kay.” Chị ta nghiêng đầu sang một bên thở dài, bước lùi lại để Kay vào trong bếp, chỉ vào một cái ghế mà chị đã kéo sẵn ra. Kay ngồi xuống và cố gắng lắng nghe trong lúc Molly Campbell đuổi cô, dông dài về chuyện thuế má của cô, giải thích tại sao Kay không bao giờ trở lại là việc tốt nhất cho tất cả mọi người. Là vì thuế: Margery đã giải thích chuyện Kay “nghỉ” việc chỗ bà và không có việc đó thì việc này chẳng đáng công làm. Tốt cho tất cả mọi người. Chị ta bày ra một đĩa bánh quy.
Kay cố nghe nhưng lại cảm thấy nỗi đau mất Joy Erroll dâng lên đến ngực như một con sóng ấm áp và buồn khổ. Cô cảm thấy một bàn tay xương xẩu nhỏ bé đặt trong tay mình và nhìn thấy hàm răng ố vàng vì trà của bà cười vui vẻ với cô. Đến lúc chết thì bà chỉ còn lại có năm cái răng. Lợi của bà đã sa xuống đến mức không đeo răng giả được nữa. Kay cảm nhận được trọng lượng của Joy khi nhấc bà ra khỏi bồn cầu, cả hai tay cô vòng quanh thân thể trơ xương của Joy, hai cánh tay nhỏ của bà bám vào cổ cô. Hợp lý một cách không ngờ vào lúc ấy, Joy hát lên một bài hát cũ đình đám và giả vờ như họ đang nhảy với nhau.
Kay bật khóc nức nở. Cô gom đồ của mình lại và đứng lên, mở cánh cửa bước ra vườn.
“Ôi không”, Molly Campbell vươn tay ra với cô, “Kay, tôi rất xin lỗi, xin hãy vào...”.
Nhưng Kay đã xua tay.
“Không, tôi không sao.”
“Cô hãy vào đây ngồi nghỉ một chút đã.”
“Không, không.” Kay lúng túng với túi xách của mình trong lúc vẫn còn đang khóc và mơ về hơi ấm cơ thể Joy chạm vào người mình, mơ về tình yêu sâu sắc mà mình đã đánh mất. Cô tìm được chìa khóa và đặt nó vào bàn tay đang đưa ra của Molly.
“Không phải là vì chuyện này đâu”, cô nói, cảm thấy kỳ quặc vì cô chỉ đến đây có hai buổi sáng một tuần thôi, vì Chúa, “không phải vì công việc đâu”.
Cô vội vã bỏ đi, lại phải tránh bãi cỏ, tha thiết mong được trốn đi và giấu mặt mình.
Kay hút thuốc ở trạm xe buýt dù chưa bao giờ làm thế. Margery Thalaine có thể lái xe ngang qua và thấy cô nhưng cô không thèm quan tâm nữa. Cô sẽ không bao giờ gặp lại bà ta.
Cô cố gắng không khóc, đẩy ý nghĩ đây là lần cuối cùng mình đến nơi này vào tận sâu trong tâm trí. Cô sẽ không còn việc gì mà làm và thậm chí không thể xin được việc chỗ Asda vì không có thư giới thiệu. Có lẽ Molly sẽ thấy hối hận đủ để cho cô một lá thư.
Trong lúc chờ đợi với khuôn mặt đờ ra vì cơn mưa, điện thoại đổ chuông nhưng Kay không trả lời mà chờ đến khi xe buýt tới và cô tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ.
Donald Scott mời cô vui lòng gọi lại cho anh ta, liên quan đến việc thu xếp tài sản nhà Erroll. Cô phải cố mới nhớ ra cái tên đó. Anh ta là luật sư của nhà Erroll. Anh ta thường đến nhà để gặp Joy. Lúc nào cũng đòi có bánh quy để dùng với trà nhưng lại không bao giờ ăn. Giọng anh ta trong lời nhắn có vẻ khinh khỉnh, anh ta còn nói gì đó về cảnh sát, cái bát và đồng hồ. Kay tặc lưỡi với điện thoại của mình. Cứ như là một cái bát và một cái đồng hồ liên quan gì đến chuyện thu xếp chung cuộc về tài sản vậy. Nhưng đột nhiên, cô nhớ ra mình có thể gọi Scott và xin anh ta thư giới thiệu. Anh ta biết cô làm việc cho bà Erroll rất tốt. Có lẽ cô sẽ được đề cử tử tế và nhận được việc làm ở nhà của người già nào đó. Có khi cô còn được đào tạo.
Niềm hy vọng cứ lớn dần lên: Scott còn là luật sư nữa, đề cử của anh ta sẽ có trọng lượng. Kay lại nhìn con đường, lần này thấy những hàng rào, khúc quanh và những cái cây quen thuộc. Sau khi bình tĩnh lại, cô có thể thấy sai lầm của mình ở đâu: Margery hối hận vì đã tâm sự với Kay. Kay lắng nghe bà ta và vượt qua ranh giới chủ tớ để tiến về phía bạn bè và bao giờ đối xử tồi tệ với người thân quen cũng dễ được tha thứ hơn. Có lẽ Margery vốn đã tìm cớ để đuổi cô, cứ như có thể cho Kay vào túi buộc lại rồi vứt vào sọt rác vậy.
Đằng nào công việc này cũng chẳng kéo dài lâu. Margery đã phá sản và chỉ mỗi chỗ làm ở nhà Campbell sẽ khó mà trả nổi chi phí đi lại cho cô, thế nên cô cũng sẽ phải nghỉ việc ở đó.
Kay ngồi dựa vào ghế, cảm thấy cơn bỏng rát do thuốc và do nỗi tiếc thương trong lồng ngực mình. Một sự khởi đầu mới. Cô lại cảm thấy mình tháo vát và có năng lực. Mẹ của bốn đứa con. Cái bóng duy nhất trong tâm trạng của cô là đêm qua. Mẹ con cô sẽ lại bị mang đến đồn để thẩm vấn. Việc đó có thể xảy ra bất kỳ giờ nào trong ngày hay trong đêm. Cảnh sát có thể đến trường bọn trẻ và đưa chúng đi. Họ có thể xuất hiện ở nhà một người bạn rồi đưa chúng đi, và những vết nhơ như thế gắn chặt với đời bọn chúng. Cô nghĩ về cái nhìn khác của giáo viên với con mình, về chuyện chúng được yêu cầu không đến nhà bạn nữa, chúng sẽ bị cô lập.
Kay quyết định sẽ phải làm điều gì đó bởi cô chưa bao giờ học được cách sống bị động.
Cô về nhà thì thấy Frankie và Joe đang ngồi túm tụm với nhau bên chiếc bàn bếp bé tí. Joe và Kay chiếm hai chiếc ghế, khiến Frankie phải ngồi ghé lên một cái thang gấp đẩy nó lên rất sát bàn.
“Chiều nay mẹ sẽ ra ngoài”, cô nói rành mạch, biết rằng giọng mình có vẻ chỉ huy và chắc chắn. “Mọi người đều biết hết việc mình cần làm rồi chứ?”
Frankie nhìn vào danh sách nhiệm vụ của mình.
“Con không nghĩ mẹ cần phải lôi bọn con từ trường về để làm mấy việc này đâu ạ.”
“Đúng đấy”, Joe nói khi nhìn vào danh sách của mình. “Hầu hết bọn này đều đang ở trường. Đằng nào con cũng phải chờ bọn nó tan học mới nói chuyện với chúng được.”
“Các con”, cô nói, “đừng nói với hai đứa bé nhưng đêm qua mẹ sợ chết khiếp và hôm nay mẹ cần phải xử lý chuyện này. Mẹ đã gọi cho cảnh sát và chúng ta phải trở lại vào giờ trà chiều nên các con cần về đây lúc 4 giờ 30 để gặp mẹ và lên xe buýt”.
Joe chớp mắt với danh sách của mình, nhìn vào mẹ khó hiểu:
“Bọn con biết mẹ sợ mà, mẹ”.
“Ai mà chẳng sợ”, Frankie lẳng lặng nói
“Sao mẹ lại không đi làm?”, Joe hỏi.
Frankie vẫn còn chưa nhận ra là giờ này Kay thường ở nhà bà Thalaine.
Kay với tay lấy điếu thuốc nhưng đổi ý và nhìn lại cả hai:
“Mẹ sắp đổi nghề. Mẹ sẽ làm y tá”.
Kay ra khỏi chiếc xe buýt ở cầu Squinty và đi bộ qua sông tới Broomielaw. Một cơn gió mạnh thổi ngang mặt sông từ đường Govan, dâng lên các tầng cao của chung cư. Kể cả khi đứng sâu trong cửa, đuôi áo của Kay và tóc cô vẫn bị thổi tốc lên. Xe ô tô chạy qua vù vù để đón trước đoạn đường cao tốc cách đó năm trăm yard1.
1 1 Yard = 0,9144 mét.
Kay tự nói với mình rằng đây là một sai lầm nhưng cô vẫn bấm chuông.
Có người nhấc máy và giọng phụ nữ vang lên:
“Ai đấy?”.
Kay nói tên và người phụ nữ bảo cô nhắc lại. Cô ta treo máy và Kay chờ. Một chiếc xe buýt đi qua và chậm lại, dừng cách nhà ấy khoảng một trăm yard. Kay cân nhắc đến chuyện chạy ra đó nhưng chiếc máy liên lạc lại bật:
“Mời lên”.
Cô nhìn vào cánh cửa kính, chờ một tín hiệu nhưng không có gì. Cô dùng đầu ngón tay ấn cửa và nó mở vào một hành lang.
Đây là khu chung cư cao cấp, đắt tiền, nhưng hành lang khu này còn bẩn hơn nhà cô. Cô thấy mình tặc lưỡi trước những vết cáu bẩn trên sàn và đầu mẩu thuốc lá trong chậu cây cảnh. Đáng lẽ họ không nên hút thuốc ở đây, không gian công cộng mà. Ai đó thậm chí còn gí đầu thuốc cháy dở vào một chiếc lá giả. Bọn trẻ trong khu nhà cô sẽ không làm thế. Chúng sẽ bị đuổi.
Cô bấm nút thang máy và bước vào, chọn tầng, quay ra nhìn hai cánh cửa đóng lại. Trong lúc cầu thang đi lên cô hắng giọng và vuốt thẳng tóc, nhìn thấy hình phản chiếu của mình trong cửa và thấy rằng mình vừa già vừa lạc mốt và mệt mỏi, cứ như bốn mươi năm đến sáu mươi tuổi rồi. Thang máy dừng lại, cánh cửa do dự một lát rồi mở ra và cô bỗng ước gì mình chưa đến đây.
Đầu tiên Kay nghĩ đây lại là một cái sảnh khác vì nó vừa to vừa rộng như một cái sân bay.
Một bức tường toàn cửa sổ cao đến hai tầng nhà nhìn xuống dòng sông, đối diện với biển. Những bức tường còn lại thì sơn màu vàng cát và hầu như trong phòng không có đồ đạc gì, chỉ có một cái trường kỷ to. Nhưng rồi cô trông thấy một phụ nữ. Cô ta đang đứng chênh chếch với cô trong phòng, cách đó mười feet. Đứng ở đó để chào một người đi từ thang máy ra thì có phần kỳ lạ, chỗ ấy không phải điểm dừng của mắt bạn. Cô ta muốn người ta phải đảo mắt tìm mình.
Tóc tẩy trắng, môi hồng, giày cao gót. Cô ta giơ cánh tay vẫy qua vẫy lại như một đứa trẻ.
“Chào.”
Kay gật đầu và nhìn quanh tìm một người khác.
“Tôi là Crystyl.”
“Được rồi.” Kay không có thời gian cho chuyện quái quỷ này. Cô chỉ muốn phạm một sai lầm rồi ra ngoài và về nhà hút thuốc trong yên bình.
“Danny ở trong này.” Crystyl giơ tay chỉ vào một cánh cửa ở bên mặt tường có chứa thang máy và Kay bước ra đó. Cửa đã mở sẵn một chút nên cô đẩy và cô gái kia vội vã lao đến, loạng choạng vì đôi giày cao gót, làm ra vẻ như chuyện ghê gớm lắm.
“Để tôi bảo anh ấy...”
Kay giơ hai tay lên.
“Tôi không sao.” Cô bước vào phòng để tránh xa chuyện trời ơi đất hỡi ở ngoài.
Căn phòng này thì thấp, giống một cái hang. Những bóng đèn halogen sáng rực được gắn vào trần nhà. Thảm trải sàn dày dặn, những cái giá gỗ thông ốp kín mặt tường, một trong số đó còn chứa cả quầy rượu bằng kính nữa. Chiếc ti vi lớn nhất mà Kay từng nhìn thấy được treo ở bức tường phía xa. Các cầu thủ bóng đá trên màn hình trông to như người thật.
Danny McGrath không hề già đi. Anh ta đâu phải trải qua nhiều đêm trường chăm sóc cho bọn trẻ lên cơn sốt vô nghĩa, hay thức đêm để khâu cho kịp bộ đồ biểu diễn ở trường. Anh ta không bao giờ phải làm ca đúp liên tục, một ca để trả tiền trông trẻ, một ca để trả tiền thuê nhà. Anh ta chẳng phải làm những công việc như thế. Anh ta tự phục vụ bản thân và làm việc để có được những thứ mình muốn, giống như chiếc ti vi to đùng anh ta đang ngồi xem kia, giống như chiếc ghế tựa bằng da anh ta đang thượng mông lên. Tất cả những chai rượu đắt tiền đều đang sáng lấp lánh trong chiếc tủ kính đằng sau anh ta. Trông anh ta vừa trẻ, vừa tươi mới lại vừa thảnh thơi.
Anh ta dựng thẳng lưng ghế khi trông thấy Kay và dùng điều khiển từ xa để ngưng trận bóng đang xem. Danny không buồn đứng dậy và cũng không mời cô ngồi xuống. Anh ta không nghĩ cuộc nói chuyện này sẽ kéo dài.
“Kay à, cô thế nào?”
Cô tiếp tục đút tay vào túi áo và gật đầu với mọi thứ trong phòng.
“Đẹp thật.” Nhưng Kay có cặp mắt tinh tường và biết rằng đồ đạc ở đây đều kém thẩm mỹ và là hàng công nghiệp, chúng sẽ không thọ được lâu.
“Tôi có thể làm gì cho cô?”
Đây là một sai lầm, cô đang mắc sai lầm. Cô nín thở.
Kay nhìn tới bức tường xa nhất và nói ra điều cô đã tập đi tập lại trong đầu trên đường đi xe buýt tới đây:
“Tôi cần xin anh một ân huệ”.
Họ nhìn nhau. Danny gật đầu.
“Là gì?”
“Em gái anh”, cô nói, nhìn vào cái gò trắng toát nổi lên ở chỗ bụng anh ta dưới lần áo sơ mi. “Tôi cần anh nói chuyện với cô ấy. Cô ấy muốn bọn trẻ nhà tôi vì lý do gì đó nhưng chúng đều rất ngoan, chúng chẳng làm gì cả.
Danny hắng giọng:
“Tôi không gặp Alex”.
“Cô ấy muốn kết tội chúng giết người. Chúng không làm việc đó.”
“Kay, tôi không gặp nó. Tôi mặc kệ nó, nó thì cố ý tránh mặt tôi.”
Nhưng Kay đã sắp khóc. Cô thật ngu ngốc vì tới đây. Cô hoảng sợ vì đã có những suy nghĩ ngốc nghếch.
“Anh sẽ tưởng là với việc cô ấy mang thai...”. Cô bắt đầu khóc. Cô sẽ che giấu tốt hơn nếu đang ở trước mặt một người cô kính trọng.
Danny nhìn cô khóc.
“Nó lại có thai à?”
“Song thai.”
“Tôi không để ý...”
“Cô ấy có bụng rồi mà.”
Đôi mắt anh ta liếc về phía màn hình.
“À thì, nó mặc áo khoác.”
“Anh sẽ không nói gì với cô ấy phải không?”
Danny tắc lưỡi, nhấc mông một chút khỏi ghế da.
“Alex chẳng liên quan gì đến tôi cả. Nếu giúp được thì tôi sẽ giúp cô. Nếu có việc gì khác tôi làm được... Tôi sẽ trả tiền cho luật sư nếu bọn trẻ bị khởi tố, thế thì sao?”
Kay gắng gượng hít vào. Dưới chân cô, lớp thảm dày khẽ cựa khi các sợi vải bị tác động. Kay muốn ra khỏi đây. Cô chưa bao giờ hỏi Danny việc gì và việc đến đây là một sai lầm.
“Được rồi.” Cô bước lùi về phía cửa ra vào.
“Mười sáu phải không?”
Kay ngừng thở.
“Sao?”
“Nó mười sáu rồi phải không?”
Cô đã đặt tay lên cửa.
“Ai cơ?”
“Joseph. Nó mười sáu à?”
Cô quay sang đối mặt với Danny:
“Phải, nó mười sáu”.
Họ nhìn nhau. Cặp lông mày của Danny nhướng lên chậm rãi.
Kay tặc lưỡi.
“Đừng tâng bốc mình quá, Danny, Joe rất đẹp trai.”
Nhưng Danny không dễ lừa. Cô chưa bao giờ nói ra nhưng bằng cách nào đó anh ta biết Joe là con anh ta. Anh ta nhìn đi chỗ khác, hắng giọng:
“Nó là đứa như thế nào?”.
Anh ta đang nghĩ về JJ. Đột nhiên Kay nhìn kỹ anh ta. Đôi mắt đỏ hoe, bụng chảy xệ, mắt cá chân có vẻ sưng. Danny: Từ bốn mươi lăm đến sáu mươi tuổi.
Kay bước về phía anh ta và nâng má anh ta trong tay mình, làm anh ta giật mình khi cô nói:
“Danny, Joe là một chàng trai vô cùng đáng yêu. Cô đưa hai tay giữ lấy khuôn mặt anh ta khi anh ta cố đấu tranh để không bật khóc như một đứa trẻ”.
Hổ thẹn, Danny đứng dậy, gạt tay cô ra và quay đi, vừa dùng ống tay áo để chùi mắt vừa sụt sịt.
“Cưng à”, Kay nói, “cưng?”.
Anh ta không thể quay mặt lại với cô:
“Gì?”.
“Đáng lẽ tôi không nên đến đây.”
“Không, tôi không sao.”
Cô mở cửa, muốn rời khỏi đây trước khi anh ta bình tĩnh lại, nhưng anh ta đã đến bên cạnh cô. Anh ta cầm một nắm tiền hai mươi bảng, cố ấn nó vào trong tay cô.
Kay nhìn chỗ tiền, ép chặt tay trong túi áo.
“Tránh xa chúng tôi ra”, cô nói và bỏ đi.