Kay ngồi chờ cạnh Frankie bên một chiếc bàn. Cô nhìn quanh căn phòng lạnh lẽo cả về màu sắc và đồ đạc. Vị kiến trúc sư của cả tòa nhà này có vẻ như kiên quyết giao tiếp một cách ác ý, từ những cột trụ trên phố cho đến căn phòng thô sơ như buồng giam mà họ đang phải ngồi chờ này.
Frankia ngồi gò lưng xuống, lưng nó cong đến nỗi trông như một hình tròn không tự nhiên. Cô di tay theo đường sống lưng nó, cứ như đang kiểm tra xem tất cả người nó có còn ở đó không, từ cái gáy cho đến hai tảng mỡ ở hông. Tại pizza hết. Hiện giờ thằng bé phải ăn ba bữa tối một tuần với bánh pizza trong lúc tận hưởng công việc và tiền lương, cảm nhận làm đàn ông thực thụ và tự kiếm sống thì như thế nào. Nó là một thằng bé ngoan. Cô xoa lưng nó, chỉnh lại dáng ngồi của nó trong lúc mạo danh một cử chỉ yêu thương. Thằng bé lắc tay cô ra và nhìn vào chiếc máy quay phim ở góc phòng.
“Không.” Cô chỉ, “đèn chưa bật con ạ. Camera chưa bật”.
Chắc chắn là tay Kay đã hạ xuống, thằng bé lại bò ra bàn xa thêm, hai bàn tay vươn ra.
“Hãy cùng làm việc này cho xong”, Kay nói và chính cô cũng hơi tin vào điều đó, “rồi chúng ta có thể về nhà và tiếp tục với cuộc sống của mình”.
Lúc đó thằng bé nhìn cô, tìm kiếm trên mặt cô xem có thật là cô tin như thế không, thấy ra không phải. Cô nhún vai bực tức.
“Chính mẹ muốn vào đây.”
Kay giơ hai tay lên:
“Con biết không, mẹ chỉ nghĩ là chúng ta cứ ngồi nhà mà đút tay vào miệng lo lắng chờ đợi rồi bị lôi đi lúc 10 giờ đêm, hoặc là có thể đến đây vào một giờ thích hợp và giải quyết mọi chuyện cho xong”.
Nhưng sự việc không như vậy. Cô mang bọn trẻ đã tắm giặt sạch sẽ đến đây cùng với những giấy tờ họ chuẩn bị trước và các lời khai cô thu thập được để chứng minh với ai đó rằng họ là những người lương thiện. Cô đủ thông minh để biết mình đang cố chứng minh với ai.
“Con sẽ bị lỡ việc.”
“Mẹ biết, con ạ.” Cô yêu thằng bé vì điều đó. “Mẹ biết. Chỉ một tối nay thôi.”
Họ nghe thấy tiếng động ngoài hành lang sau lưng mình và quay sang nhìn Bannerman, cùng với Alex Morrow đi đằng sau, đôi mặt cô ấy cụp xuống, một chồng giấy mỏng ôm trước mặt. Kay đứng dậy gặp cả hai và gật đầu với Frankie để thằng bé cũng đứng dậy. Hôm nay Alex trông có vẻ lùn và mập khi đứng đằng sau vị cấp trên gày gò, cao lớn của mình, Kay tự hỏi ông ta có biết việc cô ấy đã đưa cả nhà cô về bằng xe riêng không. Có lẽ là không.
Ông ta ngồi xuống rồi Alex Morrow cũng ngồi, nhưng không ai trong hai người nhìn vào mắt Frankie hay chào hỏi, cảm ơn vì họ đã đến hoặc nói điều gì cả. Họ bận rộn với việc đút băng cát-xét vào. Một người phụ nữ đi vào và kiểm tra máy quay phim rồi gật đầu với họ và đi ra mà không nhìn vào mắt Kay.
Họ là những kẻ bất lịch sự. Đó là lý do duy nhất cô có thể đổ lỗi để giải thích sự thiếu thiện cảm và thiếu phép tắc cư xử của họ.
Margery Thalaine, Molly Campbell, Alex Morrow và cái ống đang ngồi ở bàn đây. Toàn lũ bất lịch sự.
Người đàn ông tự giới thiệu lần nữa, ông ta là Bannerman, làm như họ có thể quên được. Ông ta nói đây là một buổi thẩm vấn chính thức và cảm ơn vì họ đã đến nhưng trông ông ta chẳng có vẻ biết ơn hay thân tình gì cả. Mặt Frankie ửng đỏ và thằng bé đang gãi mu bàn tay. Trông nó có vẻ tội lỗi.
Kay thúc vào sườn nó, khiến nó phải cúi về phía cô và cô ra hiệu cho nó ngồi thẳng lên. Nó bắn cho cô cái nhìn giận dữ làm cô thấy hài lòng, thế tốt hơn.
“Đầu tiên”, Bannerman nói cứ như chuyện chẳng có gì to tát, “cậu đi giày cỡ số mấy?”.
Frankie nhìn sang Kay.
“Số bảy”, cô nói với nó.
Thằng bé nhắc lại cho họ:
“Cháu đi cỡ số 7”.
Bannerman viết. Ông ta muốn được nghe nhắc lại về cái đêm Sarah Erroll chết, Frankie đã ở đâu, mỗi việc diễn ra trong bao lâu. Frankie đưa ra một tập hồ sơ mới tinh màu đỏ mà Kay đã đưa cho nó.
“Cái gì đây?”, Alex hỏi.
“Ừm.” Frankie lại nhìn mẹ, cô ước gì nó chỉ việc nói ra. “Ừm, đây là mấy thứ mẹ bảo cháu lấy...”
Frankie đã đến tiệm Pizza Magic chiều nay để lấy một bản copy tất cả những hóa đơn giao hàng đêm đó. Tam béo đã cho nó một lời khai bằng văn bản, thực ra giống bức thư hơn, nói rằng Frankie ở cùng cậu ta suốt đêm và không hề ra khỏi xe lâu hơn mười phút. Điều này được viết ra ở mặt sau của tờ phiếu đặt hàng, trên loại giấy rẻ tiền thường được đặt lên trên một tờ giấy than, và trông không có vẻ chính thức gì cả. Nhưng Tam đã vẽ vào đó một bông hoa to, cứ như nó là một phần không thể tách rời của lời chứng. Anh ta cũng ghi bên dưới bông hoa rằng anh trai của Frankie không hề ở trên xe cùng họ và họ không thấy thằng bé suốt đêm hôm đó.
Bannerman nhìn vào lời khai của Tam, môi ông ta cong lên ở một bên mép. Ông ta mở nó ra và đọc một lượt. Đến đoạn cuối, mắt ông ta trợn lên khi nhìn thấy chữ ký to tổ chảng của Tam béo.
Ông ta giơ nó lên:
“Cái này thực ra còn tệ hơn cả vô dụng. Cậu không thể đi loanh quanh mà bảo mọi người viết ra lời khai làm chứng cho cậu được”.
Frankie ôm ấp tập hồ sơ:
“Tại sao không?”.
“Bởi vì người ta có thể hiểu là cậu đang chi phối một nhân chứng.”
“Vậy thì cháu phải làm gì mới được?”
“Cứ để chúng tôi làm việc của mình.” Ông ta cười cay đắng khi nói thế, đầu tiên là với Frankie, rồi quay sang Kay.
“Cảnh sát ở chỗ chúng cháu không đàng hoàng”, Frankie nói với Alex, giờ thì giọng nó đã có vẻ khó chịu, giống bản chất nó hơn.
Alex vươn tới, khuyến khích nó và liếc nhìn sang bên trái, ở chỗ chiếc máy quay phim đang làm việc như một cách để bảo nó cứ nói tiếp.
“Có lần, ở chung cư xảy ra một vụ đột nhập, họ đã cử một cảnh sát lên lấy lời khai và xem xét mấy cánh cửa, đại loại thế, và bọn cháu phát hiện ra như thế nghĩa là thậm chí họ còn không buồn ghi lại lời phàn nàn ấy vì nó sẽ làm các con số thành tích của họ tệ đi.”
Bannerman không muốn nghe chuyện này, đôi mắt ông ta mở lớn.
“Chuyện này thì có liên quan gì...”
“Vậy nên ông phải thứ lỗi cho cháu”, Frankie chen ngang, mới mười lăm mà nó đã ra dáng quý ông lắm rồi, “nếu cháu có vẻ hơi lo lắng về chuyện ông ‘cứ làm việc của mình’, bởi vì kinh nghiệm của cháu với cảnh sát hầu hết là tồi tệ”.
Alex ngồi lùi lại:
“Có hồ sơ nào ghi lại chuyện đó không, Frankie?”.
Cái cách cô ấy nói khiến Kay cảm thấy rằng cô ấy đã từng hỏi chuyện này và biết là có. Đột nhiên, cô thấy vô cùng biết ơn Alex.
“Có hồ sơ ạ, đồn cảnh sát địa phương...”
Bannerman chen người vào giữa cả hai:
“Đó không phải là lý do chúng ta có mặt ở đây”.
Frankie tắc tịt và nhìn sang Kay. Thằng bé tin cô về chuyện mang hồ sơ đến và chuyện đã không nên cơm cháo gì. Cô không biết phải làm gì nữa.
Bannerman bắt đầu lại:
“Cậu có thân thiết với anh trai không?”. Ông ta hỏi như lời dọa nạt.
Frankie lại tỏ ra lo lắng:
“Có ạ”.
“Có thể nói là hai anh em rất gần gũi?”
Câu hỏi nghe rất đáng ngờ nên thằng bé ngại ngần:
“Vâng, đúng ạ”.
“Hai anh em đi chơi cùng nhau chứ? Cùng làm nhiều việc với nhau?”
“Bọn cháu ngủ cùng phòng. Không có lựa chọn nào khác.”
“Suy nghĩ cũng giống nhau?”
Frankie so vai lên và trông có vẻ bối rối:
“Cháu nghĩ vậy”.
Bannerman gật đầu và viết xuống cái gì đấy. Alex liếm môi.
“Các cậu cùng mặc một kiểu quần áo phải không?”
Frankie nhìn ông ta. Nó nhìn sang Alex rồi nhìn mẹ và đột nhiên vẻ lo lắng biến mất. Thằng bé cười phá lên, nụ cười trẻ con rất vui vẻ.
Bannerman không hiểu:
“Chuyện đó có gì buồn cười?”.
“Ý ông là mấy đôi giày ông lấy của bọn cháu, giày thể thao ấy?”
“Đúng, các cậu có hai đôi giày giống nhau. Các cậu có ăn mặc giống nhau không?”
Frankie lại cười phá lên.
“Cháu mười lăm tuổi”, thằng bé nói và nhìn sang Kay để trì hoãn. Lúc này thì cô cũng đang cười, không phải vì chuyện có gì buồn cười mà chỉ vì cô quá vui khi thấy thằng bé cười.
“Ông Bannerman”, cô nói, “tôi là mẹ của chúng. Tôi mua quần áo cho chúng”.
Ông ta có vẻ xấu hổ:
“Cô mua những đôi giày đó ở đâu?”.
“Tôi mua bốn đôi ở Costco, mỗi đứa một đôi.”
Ông ta viết điều đó xuống. Kay nói:
“Thực ra chúng hơi hớn hở vì ông đã mang những đôi giày đi vì cả bốn đứa đều ghét chúng”.
“Mẹ, trông chúng cứ như đồ bệnh viện”, Frankie bảo cô.
“Chúng được may cẩn thận”, Kay bảo thằng bé, “và lại còn không thấm nước”.
“Bọn teen không quan tâm đến việc không thấm nước đâu mẹ. Mấy đôi giày ấy bé tí.”
“Được rồi.” Hai mẹ con cười với nhau và Kay thấy Alex cũng cười với họ. “Bé cũng không làm ướt chân.”
“Mẹ chẳng có phong cách gì cả. Đó là lý do con đi làm, để mua cho bọn con bộ cánh oách hơn.”
Hai mẹ con cười với nhau. Thằng bé không hề tiêu tiền vào quần áo. Nó tiêu hết lương mỗi tuần khi đưa anh em trai hay đứa em gái đi chơi, hay mua đĩa phim lậu, nhưng thật nhẹ nhõm khi lại được nói chuyện với nhau thế này.
Bannerman lái câu chuyện, tiếp tục hỏi về các chi tiết một cách rất khó chịu, nhưng câu thần chú đã bị bẻ gãy. Frankie đã lấy lại vẻ tự tin vốn có.
Không, thằng bé chưa từng tham gia băng nhóm. Nó đi học cực kỳ chuyên cần. Nó sẽ hợp tác hết sức mình. Nó rất sẵn lòng mời họ về nhà nếu cần, họ có thể xem qua đồ đạc của nó nếu muốn, nói chuyện với bất cứ ai về nó.
Alex hỏi đã bao giờ Frankie đến Perth chưa, Kay thấy câu hỏi rất lạ. Rõ ràng cả Bannerman cũng thấy thế vì ông ta lắng nghe những câu hỏi của Alex về vấn đề này và quan tâm đến câu trả lời của Frankie.
Frankie chưa bao giờ đến Perth. Nó không đi nhà thờ, mặc dù hai năm trước, nó đã đến buổi khiêu vũ ở Orange Lodge gần nhà chỉ vì bạn nó có vé, như thế có tính là đi nhà thờ không? Alex bảo không. Frankie thấy xấu hổ và nói giờ nó sẽ không đi nữa, nó nghĩ thế là không phải phép. Giờ thực sự là nó đang cổ vũ đội Celtic, họ có thể hỏi bất cứ ai.
Kay chen ngang:
“Cô có được phép hỏi về tôn giáo không?”.
“Có”, Alex tử tế nói, “cô đang nghĩ về buổi phỏng vấn xin việc: Chính họ mới không được hỏi cô về tôn giáo”.
Bannerman hỏi Frankie đã bao giờ đến Glernavon chưa? Chỉ một lần thôi, thằng bé nói. Khi nào? À, đó là hồi giữa kỳ khi bà Erroll đã chết và nó được nghỉ học. Nó đến đám tang và họ xuất phát từ nhà đó vì trên ô tô vẫn còn chỗ. Bà ấy không có nhiều họ hàng mà mẹ nó lại quá buồn nên nó muốn đi cùng mẹ.
Bannerman làm như đây là việc gì ghê gớm lắm:
“Cậu đi đến chỗ nào trong nhà?”.
Frankie không nhớ. Hầu hết thời gian họ chỉ ở phòng khách...
“Cậu có lên gác không?”
Nó gật đầu.
“Cái gì?”, Kay hỏi, “con lên gác khi nào?”.
“Con đi vệ sinh.”
“Sao?”
“Con không tìm được nhà vệ sinh khác.”
Bannerman hỏi những câu rất riêng tư: Nó sử dụng bồn cầu như thế nào, ngồi hay là đứng? Frankie xấu hổ vì có mặt mẹ ở đó nhưng nó vẫn trả lời: Đứng. Nắp bồn cầu có đóng khi cậu đi vào không? Nó không thể nhớ được. Cậu có thường nhấc nắp lên mỗi lần đi tiểu không? Nó cho là có. Kay thấy bàn tay phải của thằng bé đẩy dưới gầm bàn khi nghĩ về việc đó.
Đột nhiên, họ dừng lại và mang Frankie ra ngoài, Joe được đưa vào và ngồi xuống cạnh Kay.
Cô có thể nói thằng bé đang cảm thấy không an toàn vì nó đang diễn màn tỏ ra hấp dẫn để tự vệ. Nó bắt tay cả Alex và Bannerman và hỏi họ có khỏe không? Alex mỉm cười và nói cô ấy khỏe, còn Joe thì sao? Joe hiểu lầm câu hỏi tu từ nên nói rằng hơi lo lắng và cảm thấy hơi mệt sau tối hôm qua. Nó phải nghỉ học sớm vì hơi chóng mặt.
Họ cũng hỏi thằng bé những câu đã hỏi Frankie: Joe biết cỡ giày của mình, là cỡ số 9. Đêm đó nó đi chơi với bạn và cũng có một tập hồ sơ màu xanh chứa những lời khai đã bị đạo diễn có thể sẽ chống lại nó nếu vụ việc được đưa ra tòa. Bannerman cũng bảo rằng nó đã làm sai.
“Chúng tôi chỉ cố giúp ông tiết kiệm thời gian”, Kay giải thích, hy vọng nghe giọng cô có vẻ biết điều.
Bannerman lạnh băng đóng sập tập hồ sơ vào và đẩy nó lại chỗ Joe:
“Đừng bao giờ làm thế nữa”.
Thằng bé chưa bao giờ vào băng nhóm, mẹ nó sẽ giết nó.
Morrow hỏi:
“Cháu đến Perth bao giờ chưa?”.
Nó chắc chắn:
“Rồi”.
Kay nhìn nó.
“Khi nào?”
“Vài tháng trước”, nó nói với mẹ, “có một trận đấu xa cho đội lớp bảy”.
“Mẹ không nhớ trận đó.”
“Có chứ. Mẹ làm sandwich cho bọn con mà. Mẹ có nhớ mẹ con mình đã cãi nhau về vé tàu vì con không đặt trước và trên xe buýt không còn chỗ không?”
“Không.”
“Con đã phải trả tiền cả vé vì đã không đặt trước và mẹ nói là đáng lẽ con phải biết con sẽ không có chỗ trên xe buýt...”
“Đấy là đi Carlisle.”
“Cháu đã đến Perth chưa?”
Thằng bé nhìn Kay tìm câu trả lời. Cô lắc đầu.
“Chưa”, nó nói, “cháu chưa đến đó”.
“Có quen ai ở đấy không?”
“Không.”
Nó chưa bao giờ dính đến bất kỳ loại tôn giáo nào, mặc dù nó cổ vũ cho đội Gers và từng thích một cô bé Công giáo, thế có tính không? Không, Alex nói là không tính. Joe nói tốt vì thậm chí nó còn chưa bao giờ nói chuyện với con bé và thật là nhục nếu bạn bị kết tội giết người chỉ vì trót tơ tưởng đến một người chỉ gặp trên phố. Nó cười phá lên, hy vọng họ cũng cười theo và trở nên buồn bã, sợ hãi khi không ai cười.
Kay ngồi im lắng nghe, chạm vào cánh tay thằng bé khi nó tỏ ra yếu đuối hay lo lắng. Cơn giận của cô bắt đầu nhạt dần. Cô từ từ nhận ra rằng Margery sẽ hất cẳng cô cho dù Alex có gặp bà ta hay không; Margery là mụ già kênh kiệu và nực cười. Có lẽ đằng nào bà ta cũng sớm sa thải cô. Bà ta không đủ tiền trả cho người lau dọn nữa, năm ngày một tuần lại càng không.
Cô thấy đôi lúc Alex chạm vào bụng mình, thấy cô ấy ngồi ghé trên một bên mông và mỉm cười với mình khi lũ trẻ cử động. Đôi mắt Kay lướt qua bàn về phía cái bụng lùm lùm của cô ấy. Cô không thể ép mình ghét Alex được nữa. Và Joe nói đúng: Cô ấy đã rất tử tế khi đưa mẹ con cô về nhà đêm qua.
Đến khi các cuộc thẩm vấn kết thúc và họ được đưa ra khỏi đồn, được chỉ dẫn tuyến xe buýt trên phố, Kay đã quyết định hôm sau sẽ đến gặp Danny và bảo anh ta quên hẳn chuyện này đi.