Đây là một khu vực đất công hiện đại, những ngôi nhà nhỏ ngăn nắp khớp với nhau như một bức tranh ghép, tất cả đều được xây bằng loại đá xám giống như các căn nhà cổ trong thành phố.
Một chàng trai trẻ với mái tóc cắt rất ngắn và đôi mắt đáng sợ ra mở cửa. Cậu ta mặc quần dài và áo sơ mi, cả hai đều không vừa vặn mấy. Cậu ta chào và mời họ vào bếp, khăng khăng phục vụ trà trong ấm thép và mang một cái đĩa Happy Shopper nhân kem trứng ra. Cha Sholtham đang ở trên gác và sẽ xuống ngay. Ông ta đã biết họ đến.
Hai người được để lại với nhau.
Một lát sau họ nghe tiếng bước chân trên cầu thang, tiếng loẹt xoẹt của đôi chân đi dép lê. Đôi chân ngừng lại bên ngoài cánh cửa mở. Cha Gabriel Sholtham bước vào và tự giới thiệu về mình.
Morrow đứng dậy gặp ông ta, giới thiệu về mình rồi Harris và bắt tay ông ta. Cô nhìn xuống: Hai bàn tay ông ta to và mềm, cô thấy một vết màu xanh phồng lên ở mu bàn tay phải. Hẳn ông ta đã đánh vào cái gì mạnh lắm.
Ông ta có khuôn mặt vuông, các nét to, kiểu mặt của một người đàn ông khỏe mạnh đòi hỏi được tin cậy và nghe lời, khuôn mặt của cảnh sát. Nhưng ông ta không chịu nhìn vào cả hai người và cứ cụp mắt xuống bàn, rót cho mình một cốc trà đen từ trong ấm, thêm hai viên đường trong lúc họ giải thích mình đến từ Glasgow.
Ông ta mặc một chiếc áo khoác bên ngoài áo thun xám, quần đen và đi dép màu xanh. Đôi dép kể cả một câu chuyện. Chúng làm bằng da lộn và lấm chấm những vệt nước khô. Morrow không muốn đoán chúng bị cái gì bắn lên.
Ông ta kéo chiếc ghế thứ ba ở bàn và ngồi xuống.
“Chúng tôi là cảnh sát điều tra vụ án mạng của Sarah Erroll”, Morrow nói. “Chúng tôi nghe nói ông có vài thông tin về chuyện đó.”
Linh mục nheo mắt với cốc trà của mình trong lúc khuấy, đó là một cú giật rất nhẹ. Cô không biết nó là cơn đau nhói do hậu quả của cơn say hay là vì cô đã nhắc đến cái tên đó. Khi lên tiếng, giọng ông ta trầm trầm mang âm hưởng bờ tây với một chút dấu vết Ai- len. Những gì ông ta nói có vẻ đã cân nhắc kỹ càng, cứ như ông ta đang làm chứng tại tòa.
“Tôi có đọc về vụ đó trên báo. Tôi đã nói về nó và cư xử ngốc nghếch. Tôi đã làm mất thời gian của các vị, khiến các vị phải tới đây. Tôi xin lỗi.”
“Tôi hiểu”, Morrow nói. Cô không biết phải cứng rắn như thế nào. Dường như ông ta rất dễ suy sụp. “Nói thế không đủ đâu Cha ạ, bởi vì ông biết vài điều về cái chết của cô gái mà chúng không hề có trong báo.”
Ông ta đã biết rồi. Ông ta húp lấy húp để cốc trà, cố không nhìn lên họ.
“Cho nên”, cô khẽ nói, “hoặc ông dính líu đến cái chết của cô ấy hoặc ông biết kẻ nào có liên quan”.
Linh mục liếc nhìn cô rồi vội lảng đi chỗ khác, giấu mặt sau cốc trà.
“Có lẽ tôi dính líu đến tội ác ấy”, ông ta nói. Một nỗi buồn sâu sắc lóe lên trong mắt ông và ông uống trà nóng để đẩy lùi nó.
“Dính líu à?”
“Vâng”, ông ta nói với cốc trà của mình.
Thú vị đây. Morrow có tài đánh hơi thấy những lời nói dối và kẻ nói dối. Cô biết cách bẫy người đang giả vờ kể sự thật, hỏi thật chi tiết rồi nhắc lại lần nữa sau đó khi người ta đã quên mất điều họ vừa nói, đem sự bất nhất của họ ra đối chất. Cô biết cách phát hiện một người dễ bị ảnh hưởng, kẻ đang nói dối mà không hề biết mình nói dối, cô sẽ hỏi những câu ngoài lề để xem họ có đồng ý là mình đã bắn Kennedy hay không. Nhưng người đàn ông này lại đang thực hành một kiểu giả dối khác. Ông ta dùng một cách tiếp cận kiểu thần học với sự thật, đề cập nó hết sức dè dặt, ông ta đang rón rén đi vòng quanh một lời nói dối trắng trợn và sẵn sàng bị xử vì tội giết người còn hơn phải khai ra. Cô cảm thấy ông ta có thể nói thật nếu cô hỏi đúng câu hỏi.
“Ông đã làm gì?”, giọng Morrow rất khẽ, tôn trọng thể trạng sau khi say rượu của vị linh mục. “Cha à, Cha đã làm gì?”
Ông ta cau mày và lắc đầu.
“Ông ‘dính líu’ đến phần nào của tội ác?”
Cha Sholtham không chuẩn bị trước cho câu hỏi đó.
“Tôi không biết.”
“À, vậy thì ta đi từ đầu nhé: Ông có đột nhập vào nhà cô ấy không?”.
“Không.”
“Ông có lén đi trong nhà cô ấy và lên phòng trẻ cũ của cô ấy không?”
“Không”, giọng ông ta đều đều nhưng đôi mắt lại đảo quanh bàn, cố mường tượng ra các góc độ của câu hỏi để xem cuộc phục kích sẽ nằm ở đâu.
“Vậy ông có tìm được cô ấy đang ngủ say sưa trên giường sau một ngày dài di chuyển và đánh thức cô ấy rồi đe dọa cô ấy không?”
“Không, tôi cũng không làm việc đó.”
“Ông có đuổi theo cô ấy xuống cầu thang cho đến khi cô ấy ngã không?”
“Không.”
“Ông có đứng trên đầu cô ấy và dậm gót giày xuống mặt cô ấy hết lần này đến lần khác không?”
“Không.”
“Ông có dùng trọng lượng của mình để đập gãy mũi cô ấy, dẫm xuống đầu cô ấy mạnh đến nỗi đôi mắt cô ấy phải lồi...”
Ông ta vừa khóc vừa nói khẽ:
“Không, tôi không làm những việc đó. Không”.
Cô để ông ta khóc. Harris bóp chặt hai tay trên bàn. Cô đưa Cha Sholtham một chiếc khăn giấy. Ông ta cầm lấy nó và cảm ơn cô rồi hỉ mũi. Cô lại tiếp tục.
“Được rồi. Ông có lái xe đưa những kẻ làm việc đó rời khỏi nhà cô ấy không?”
“Tôi không thể lái xe, tôi mất bằng rồi...”
“Bọn chúng vừa mới giết hại một cô gái vô tội một cách dã man. Tôi không nghĩ chúng sẽ dừng lại để kiểm tra bằng lái của ông đâu.” Morrow cầm một chiếc bánh nhân kem trứng rồi cắn một miếng. Trong lúc nhai cô vẫn hướng mặt về phía ông ta, vẻ vô tội. “Ông có lái xe chở chúng...”
“Không. Tôi không chở chúng đi. Tôi không... khi mọi chuyện xảy ra tôi đang ở trong bệnh viện. Đi nhổ răng.”
“Ông có rời bệnh viện một lần nào trong cái ngày...”
“Không, tôi nhổ đến tám cái răng. Họ đã gây tê toàn thân cho tôi. Hôm đó là ngày làm thủ thuật và tôi ra viện lúc 8 giờ tối.”
“Sau đó ông đi đâu?”
“Về nhà giáo sĩ. Lúc đó tôi vẫn sống ở đấy.”
Morrow lại cắn miếng bánh, lại nhai, nhìn ông ta lau mặt. Ông ta ấn chiếc khăn giấy vào mắt mình mạnh đến nỗi nó bị vo lại nhỏ như chiếc lá bạc hà.
“Tôi hỏi về chuyện nghiện rượu được không?”
Ông ta gật đầu.
“Trước đây ông có gặp vấn đề này chưa?”
“Rồi.” Dường như vị linh mục thấy xấu hổ về chuyện đó một cách sâu sắc và thành thực hơn cả chuyện ám chỉ mình liên quan đến tội mưu sát. Giọng ông ta chỉ còn là tiếng thì thào và trông ông buồn đến mức không cất lên lời.
“Nhưng ông đã không uống say trong một khoảng thời gian dài?”
“Đúng. Rất dài.”
“Bao lâu.”
“Tám năm rưỡi.”
“Đó là một nơi tăm tối phải không?”
Ông ta nhìn vào mắt cô tìm kiếm sự cảm thông nhưng không thấy gì hết. Thất vọng, ông ta liền quay lại nghiên cứu cái mặt bàn.
“Ông bắt đầu uống lại từ khi nào?”
“Vài ngày trước.”
“Bao nhiêu ngày?”
Cha Sholtham cố gắng trả lời nhưng không nhớ ra.
“Hôm nay là thứ mấy?”
“Thứ Năm.”
Cô có thể thấy ông ta đang đếm lùi.
“Tôi nghĩ bắt đầu từ thứ Ba.”
“Sau hôm Sarah bị giết?”
“Thế à? Tôi nâng một ly vì phải làm thủ thuật... Họ cho tôi thuốc giảm đau... Tôi đã rất lo lắng.”
Ông ta biết lời biện minh cho chuyện uống rượu chỉ là chối quanh và ông ta biết đó là ngày hôm sau ngày Sarah bị giết. Morrow nhìn ông ta quở trách và ông ta cụp mắt xuống đầy hổ thẹn.
Cô quan sát Cha Sholtham một lát và ông ta cảm nhận được cái nhìn của cô, hớp một ngụm trà và bặm môi vì vị đắng của nó. Rõ ràng người đàn ông này bị lương tâm trói buộc, ông ta đang bảo vệ ai đó. Cô không biết tại sao ông ta phải làm vậy và cô thấy chuyện đó rất khó chịu.
Morrow gõ ngón tay lên mặt bàn và nói:
“Ông chờ ở đây”. Cô đứng dậy, ra hiệu cho Harris theo cô.
Họ đi qua sảnh. Chàng trai đã mở cửa cho họ đang đi qua phòng khách và vẫy tay, cô bắt ánh mắt họ, cậu ta muốn nói chuyện nhưng Morrow đóng cửa lại sau lưng hai người. Họ trở lại ô tô và vào trong.
“Ông ta đang nói dối để bảo vệ ai đó”, cô nói, “tôi nghĩ là một linh mục khác”.
“Không”, Harris nói rất chắc chắn. “Ai đó đã xưng tội với ông ta, ông ta say rượu, buột miệng và giờ đang cố cứu vãn linh hồn mình bằng cách nhận trách nhiệm.”
“Sao anh biết?”
Harris mỉm cười.
“Tôi là người Công giáo mà.”
Cô không biết phải nói gì. Rất dễ nói sai trong những chuyện thế này mà cô thì đã có đủ những câu chuyện cư xử kém tinh tế rồi. “À... tốt cho anh đấy.”
Harris cười phá lên vì nói thế thì thật là kỳ cục và anh ta có thể thấy cô đã cố gắng đến thế nào.
Cô giơ hai tay lên:
“Tôi không biết phải nói gì cả”.
“Vâng”, anh ta lúng túng nói. Anh ta cũng không biết phải nói gì.
“Tốt cho anh”, cô lại nói, “vậy... chuyện này là thế nào? Ông ta phải nhận trách nhiệm vì ai đó đã xưng tội với ông ta à?”.
“Không. Ông ta đã thề sẽ không bao giờ nhắc lại điều người ta kể với ông ta trong một buổi xưng tội. Nhưng giờ ông ta đang phạm phải lỗi đó và vi phạm lời thề ấy là một tội lỗi kinh khủng. Tội chính. Ông ta đang cố chuộc lỗi bằng cách tử vì đạo.”
“Chuyện ông ta say rượu không biện hộ được à?”
“Từ khi nào say rượu biện hộ được cho tội lỗi?”
Họ cùng nhìn lại ngôi nhà và thấy Cha Sholtham đang đứng ở cửa bếp và nhìn họ trong ô tô.
“Không, nhưng cũng giảm tội được chứ?”
“Trong những chuyện như thế này thì không.”
“Vậy, thưa ngài Công giáo, giờ chúng ta làm gì?”
Harris vươn tay ra sau lấy dây an toàn.
“Tìm xem ai là người xưng tội.”
Morrow nhìn lại khi họ lái xe qua và thấy Sholtham đang nhìn họ bỏ đi: Một người đàn ông to lớn buồn bã trong khung cửa sổ cao đến đầu gối ông. Hai bàn tay ông để thõng hai bên người, ngón tay yếu ớt cụp lại, chờ đợi sự phán quyết đổ xuống đầu mình.
Ngôi nhà giáo sỹ nhìn chung tử tế hơn nhà công nhiều. Nằm cạnh nhà nguyện ở một con phố trung tâm, nó bắt chước những cột hình mũi giáo trong các cửa sổ hẹp và đỉnh nhọn của cánh cửa. Mặc dù vậy loại đá xây nhà không hợp nhau. Nhà nguyện được làm bằng đá xám ở địa phương còn ngôi nhà nhỏ cạnh nó thì màu đỏ với những viền vàng quanh các cửa sổ.
“Anh nói chuyện với Leonard bao giờ chưa?”, cô hỏi khi họ ra khỏi xe.
“Đôi lần.”
“Anh nghĩ gì về cô ấy?”
“Tốt bụng. Thông minh.” Anh ta không nhắc đến Leonard về phương diện tính dục và Morrow thích điều đó. “Cô ấy hiểu rõ về các tòa nhà và đồ cổ.” Morrow đi ngay đằng sau Harris, chờ băng qua một con phố đông đúc. “Cô ấy rất thông minh.”
Cửa trước có hai bậc tam cấp rất cao và có thành chống người tụ tập. Harris vươn tay lên bấm chuông. Nghe nó như tiếng chuông báo tử.
“Anh nghĩ cô ấy có khả năng được thăng chức không?”
Harris không muốn trả lời.
“Chắc là có.”
“Bannerman sẽ bị đình chỉ công tác để điều tra và chúng ta sẽ cần ai đó đứng ra thế chỗ thanh tra trưởng”, cô nói, nhắc đến cuộc nói chuyện của họ ở trạm xăng. “Tôi muốn anh lên nhưng anh biết đấy...”
Họ nhìn cánh cửa.
Harris hắng giọng:
“Tôi đang hưởng lương cao hơn... cô biết đấy, với tiền làm ngoài giờ”.
“Ừ.” Họ nghe tiếng ai đó đang đi dọc hành lang bằng đá về phía họ. “Anh lo chuyện sẽ náo loạn khi không ai cầm trịch à?”
“Ý cô là sao?”
“À, tôi sẽ nghỉ thai sản. Chúng ta cần một thanh tra trưởng. Điều đó... yêu cầu nhiều thứ.” Có tiếng ổ khóa lạch cạch sau cánh cửa. “Họ sẽ cử ai đó thế vào. Không biết người đó sẽ thế nào, đúng không? Lại tạo ra một khoảng trống quyền lực.”
Harris mỉm cười.
“Chính xác từng từ như Leonard nói. Cô ấy nói đó là chuyện đã xảy ra khi Napoleon lên nắm quyền.”
Anh ta chỉ nói lại một câu nhận xét thú vị của Leonard, nhưng cũng vừa thừa nhận mình đã nói với các cảnh sát khác về Cuộc gọi an toàn. Thế là thành chiến dịch rồi. Họ nhìn nhau.
“ Thế là anh thừa nhận có náo loạn?”, cô hỏi.
Harris có vẻ sợ hãi.
Cửa mở ra.
“Tôi giúp gì được hai vị?” Một người phụ nữ lớn tuổi mặc chiếc áo sợi to nhân tạo và váy xếp nếp rộng rãi nhìn vào họ.
“Cảnh sát Strathclyde đây”, Morrow nói. Chúng tôi muốn hỏi vài điều về Cha Sholtham.
Bà quản gia rất sẵn lòng kể cho họ mọi chi tiết về việc di chuyển của Cha Sholtham một ngày sau khi Sarah chết. Bà ta rất giận ông linh mục, mặc dù có vẻ như bà vốn dĩ là người tức giận từ khi ngủ dậy. Bà ta cứ hỏi họ suốt là cái gì làm một người có đức tin uống say như thế? Tại sao ông ta lại làm thế? Làm mình trở nên kỳ quặc như thế?
Buổi sáng hôm đó, Cha Sholtham đã tỉnh táo ăn sáng và làm lễ Misa ở nhà bên cạnh lúc 8 giờ. Ông không nhận lời xưng tội sau lễ Misa nên đến mãi chiều sau 5 giờ họ mới đến, và ông ta bắt đầu uống từ sáng hôm đó. Bà quản gia có thấy linh mục hành xử kỳ lạ nhưng ông ta nói mình bị cảm. Ông ta rời nhà đi tham dự một buổi họp nhóm ở ngôi trường gần đó và bà tưởng ông ta bị cảm thật. Ông ta đi đứng xiêu vẹo. Linh mục ăn trưa ở trường. Rồi ông về nhà và cầu nguyện thêm trong phòng mình. Ông ta không nhận bất kỳ cuộc gọi nào, bà biết bởi vì điện thoại nằm ở ngoài sảnh. Morrow tha thiết muốn nghe các chi tiết buổi lễ xưng tội vào giờ trà chiều nhưng bà quản gia lại lan man về lần ông linh mục cầu nguyện trong phòng, có thể lúc đó đã kích động ông ấy, tại sao người ta lại uống say đến mức tự hại mình như thế... Morrow cắt ngang lời bà ta.
“Ai đến buổi lễ xưng tội?”
“Cha Haggerty.”
“Thế thôi à?”
“Không”, Harris chen ngang, “ý cô ấy hỏi là những ai đến xưng tội với Cha Sholtham?”.
“Không có ai cả”, bà quản gia nói, “làm gì có ai. Cha Haggerty nhận lời xưng tội mà”.
“Cha Sholtham không nhận à?”
“Không. Theo lịch ông ấy phải nghe xưng tội lúc 5 giờ chiều, nhưng ông ấy ra ngoài đi dạo và khi trở về thì rõ ràng là đã rất say. Chẳng có chuyện cảm sốt gì ở đây sất. Lúc trước, ông ấy đã nói dối. Cha Haggerty tìm thấy ông ấy đang thay đồ để nghe xưng tội và đã mang ông ấy về đây. Chúng tôi đặt ông lên giường. Ông ấy say suốt từ lúc ấy.”
Họ không thể lấy được danh sách những người đến dự lễ Misa sáng hôm đó trước khi linh mục uống rượu từ chỗ bà quản gia. Bà chỉ đến từ 9 giờ sáng và mặc dù thường tham dự lễ Misa vào buổi sáng trước khi làm việc, sáng đó bà đã không dự.
Khi họ ra ngoài Harris bảo Morrow rằng thường có một nhóm người tới dự lễ Misa mỗi buổi sáng và họ có thể hỏi những người đó xem có ai kéo vị linh mục ra một chỗ riêng sau đó hay nói chuyện dài với Sholtham không.
Họ đến ngôi trường chỉ để hỏi hú họa.