ỞTRƯỜNG, CHÚNG TÔI CÓ MỘT TIẾNG NGHỈ GIẢI LAO để dùng bữa trưa. Vì mẹ không đi làm và căn hộ của chúng tôi rất gần trường nên tôi thường đi bộ về nhà cùng bốn hay năm đứa con gái khác. Trên đường về, chúng tôi sẽ nói chuyện không ngừng và chuẩn bị về đến nhà là nằm ườn trên sàn bếp để chơi trò chụp banh jacks(1) và xem bộ phim nhiều tập All my Children trên ti-vi trong lúc mẹ tôi phát cho mấy ổ bánh mì kẹp. Với tôi, chuyện này đã trở thành một thói quen mà tôi duy trì đến tận bây giờ, đó là luôn có một nhóm bạn gái thân thiết và yêu đời để có thể chia sẻ những chuyện-con-gái với nhau. Trong lúc ăn trưa, chúng tôi sẽ bàn tán bất kỳ chuyện gì đã diễn ra ở trường vào sáng hôm đó, những lời than vãn về thầy cô của mình, hay bất cứ bài tập nào mà chúng tôi cảm thấy chẳng mang lại ích lợi gì. Quan điểm của chúng tôi chủ yếu hình thành từ quan điểm chung của cả nhóm. Chúng tôi tôn thờ nhóm nhạc The Jackson 5 và không biết nói sao về nhóm nhạc nhà Osmonds. Vụ bê bối Watergate đã xảy ra và chúng tôi không hiểu gì về nó. Dường như có rất nhiều người lớn đang nói vào micro ở Washington, D.C., nơi mà đối với chúng tôi chỉ là một thành phố xa xôi đầy những tòa nhà màu trắng và người da trắng.
Trong khi đó, mẹ tôi rất vui vì được “phục vụ” chúng tôi. Việc đó giúp bà dễ dàng tiếp cận thế giới của chúng tôi. Khi chúng tôi ăn trưa và tán gẫu, bà thường yên lặng đứng cạnh bên, vẫn làm việc nhà nhưng không hề che giấu chuyện mình đang lắng nghe từng chữ một. Dù sao thì chúng tôi cũng không có không gian riêng tư khi cả nhà bốn người phải sống gói gọn trong tám mươi mét vuông. Chỉ thỉnh thoảng điều đó mới trở thành vấn đề. Chẳng hạn như từ lúc đột nhiên có hứng thú với đám con gái, anh Craig đã phải chuồn vào nhà tắm để nghe điện thoại, khi đó dây điện thoại xoắn tít sẽ bị kéo căng từ vách tường trong bếp và giăng ngang qua hành lang trong nhà.
Trong số những ngôi trường ở Chicago, Bryn Mawr nằm đâu đó giữa mức “trường dở” và “trường giỏi”. Sự phân biệt về chủng tộc và kinh tế ở khu South Shore tiếp tục diễn ra suốt những năm 1970, đồng nghĩa với lượng học sinh da đen và học sinh có hoàn cảnh khó khăn mỗi năm một tăng. Từng có cả một phong trào toàn thành kêu gọi đưa đón học sinh từ vùng này sang học trường mới ở vùng khác nhằm thúc đẩy hòa hợp sắc tộc, nhưng những bậc phụ huynh ở Bryn Mawr đã đấu tranh thành công, với lập luận rằng số tiền đó nên được dùng vào việc cải thiện trường lớp. Là trẻ con, tôi không biết điều nào có ảnh hưởng hơn - cơ sở vật chất xuống cấp hay việc gần như không còn đứa trẻ da trắng nào theo học ở trường. Trường Bryn Mawr dạy từ mẫu giáo đến lớp tám, đồng nghĩa với việc khi lên đến các lớp trên thì tôi đã biết rõ từng công tắc bóng đèn, từng tấm bảng và từng vết trám tường ở hành lang. Tôi biết gần như tất cả các thầy cô và quen mặt hết đám học sinh. Với tôi, Bryn Mawr đúng là phiên bản mở rộng của nhà mình.
Năm tôi vào lớp bảy, tuần báo phổ biến đối với độc giả Mỹ gốc Phi Chicago Defender đã đăng một ý kiến cay độc cho rằng chỉ trong vòng vài năm, Bryn Mawr đã tuột dốc từ một trong những trường công tốt nhất Chicago thành một “ổ chuột rách nát” được điều hành bởi một “tư duy ổ chuột”. Hiệu trưởng của trường, Tiến sĩ Lavizzo, lập tức phản pháo bằng một lá thư gửi đến biên tập viên của tờ báo. Ông bảo vệ cộng đồng phụ huynh và học sinh của mình, nhận định bài viết đó là “một lời nói dối trắng trợn, dường như được viết ra chỉ để gieo rắc cảm giác thất bại và khiến người ta muốn trốn chạy”.
Tiến sĩ Lavizzo có vóc người mập mạp, vui tính, mái tóc Afro xoăn rậm phồng lên ở hai bên vùng đầu hói và là người dành phần lớn thời gian ở trong văn phòng gần cổng trước của trường. Qua bức thư đó, có thể thấy rõ là ông biết chính xác mình đang chống lại điều gì. Ông biết là khi liên tục bị gieo vào đầu cảm giác thất bại thì người ta sẽ thất bại thật. Cảm giác đó bắt nguồn từ sự tự nghi ngờ bản thân, và sau đó, thường là cố tình, được đẩy lên cao bởi nỗi sợ. Những “cảm giác thất bại” mà ông đề cập đã hiện diện ở khắp nơi trong khu phố tôi sống, ở những bậc cha mẹ không thể cải thiện thu nhập, ở những đứa trẻ bắt đầu ngờ rằng cuộc sống của chúng sẽ không khác gì hơn, ở các gia đình đang chứng kiến những người hàng xóm dư dả của mình chuyển đến vùng ngoại ô hoặc chuyển con cái của họ sang học tại các trường Công giáo. Những tay môi giới nhà đất bắt đầu rảo khắp South Shore để săn mồi, rỉ tai dụ các chủ nhà nơi đây hãy bán nhà trước khi quá muộn, rằng họ sẽ giúp gia chủ thoát ra khi còn có thể. Ý của những tay môi giới đó là ngày tàn đang đến, ngày đó là không thể tránh khỏi và nó đã đến rất gần rồi. Bạn có thể để mình mắc kẹt giữa đống đổ nát, hoặc bạn có thể tránh được cảnh đó. Người ta dùng cái từ mà ai cũng dè chừng - “ổ chuột” - như một mồi lửa thả vào đám dầu đang sôi sục.
Mẹ tôi không quan tâm những chuyện này. Bà đã sống tại South Shore mười năm, và sẽ còn sống thêm bốn mươi năm nữa ở đây. Bà không tin những kẻ gieo rắc hoang mang, đồng thời cũng có vẻ miễn nhiễm đối với bất kỳ hình thức nào của chủ nghĩa lý tưởng tốt-đẹp-nhưng-phi-thực-tế. Bà là người thực tế điển hình. Bà sẽ kiểm soát những gì mình có thể kiểm soát.
Ở Bryn Mawr, bà trở thành một trong những thành viên năng nổ nhất của Hội phụ huynh học sinh và giáo viên. Bà luôn hăng hái hỗ trợ gây quỹ mua trang thiết bị mới cho lớp học, tổ chức những bữa tối tri ân giáo viên và vận động thành lập một lớp đa cấp học chuyên biệt cho học sinh có thành tích xuất sắc. Lớp đa cấp học này là ý tưởng của Tiến sĩ Lavizzo, người đã học ca tối để hoàn tất chương trình tiến sĩ giáo dục và nghiên cứu xu hướng mới về việc phân nhóm học sinh theo năng lực thay vì độ tuổi - về cơ bản là xếp những đứa trẻ sáng dạ chung một nhóm để chúng có thể học nhanh hơn.
Ý tưởng này đã gây nhiều tranh cãi và bị chỉ trích là không dân chủ - cũng như bất kỳ chương trình “chuyên và năng khiếu” nào khác. Nhưng đồng thời ý tưởng này cũng nhận được sự ủng hộ như một phong trào cải cách trên khắp nước Mỹ, và tôi chính là người hưởng lợi từ nó trong suốt ba năm cuối ở trường Bryn Mawr. Tôi gia nhập một nhóm khoảng hai mươi học sinh đến từ nhiều cấp lớp khác nhau, học trong một lớp riêng biệt và có thời khóa biểu riêng cho giờ giải lao, ăn trưa, lớp âm nhạc và thể dục. Chúng tôi được trao những cơ hội đặc biệt, bao gồm những chuyến đi hàng tuần đến một trường cao đẳng cộng đồng để tham gia khóa dạy viết nâng cao hoặc giải phẫu chuột trong phòng thí nghiệm sinh học. Còn ở lớp học, chúng tôi thực hiện rất nhiều bài tự học, tự đặt ra mục tiêu riêng và có thể học theo bất kỳ nhịp độ nào mà mình cảm thấy thích hợp nhất.
Chúng tôi có những giáo viên tận tâm, đầu tiên là thầy Martinez và sau đó là thầy Bennett, cả hai đều là những người Mỹ gốc Phi lịch thiệp và hóm hỉnh, luôn tập trung lắng nghe ý kiến của học sinh. Rõ ràng nhà trường đã đầu tư cho chúng tôi, và tôi nghĩ chính điều này đã khiến tất cả chúng tôi cố gắng nhiều hơn và cảm thấy bản thân tốt đẹp hơn. Hình thức tự học càng châm lửa cho tính ưa cạnh tranh của tôi. Tôi học bằng hết các bài học và âm thầm theo dõi thứ hạng của mình so với các bạn trong lớp - từ lúc học cách làm phép chia trên giấy cho đến khi học môn đại số căn bản, từ lúc học viết những đoạn văn đơn cho đến khi hí hoáy các bài nghiên cứu hoàn chỉnh. Đối với tôi, chuyện này giống như một trò chơi. Và cũng giống đa số những đứa trẻ khác, khi chơi bất kỳ trò chơi nào khác, tôi hạnh phúc nhất khi dẫn đầu.
TÔI KỂ MẸ NGHE mọi chuyện xảy ra ở trường. Bà được “cập nhật tin tức” một lần vào buổi trưa và sau đó là một lần nữa vào buổi chiều, khi tôi lao vào nhà và vội kể ngay với bà trong lúc quẳng cặp xuống sàn và lục lạo đồ ăn vặt. Tôi nhận ra mình không biết chính xác là mẹ làm gì trong lúc hai anh em tôi đi học, chủ yếu là vì tôi chưa bao giờ hỏi. Tôi không biết bà nghĩ gì và cảm thấy ra sao khi trở thành một người nội trợ truyền thống thay vì làm một công việc khác. Tôi chỉ biết mỗi khi tôi về nhà thì sẽ có thức ăn trong tủ lạnh, không chỉ cho riêng tôi mà còn cho bạn bè của tôi nữa. Tôi biết khi lớp sắp có chuyến tham quan, mẹ luôn xung phong tham gia làm người hướng dẫn, diện bộ đầm xinh xắn và son môi sẫm màu, cùng ngồi xe với chúng tôi để đến thăm trường cao đẳng cộng đồng hoặc sở thú.
Ở nhà, chúng tôi sống tiết kiệm nhưng không thường nhắc đến hạn mức chi tiêu. Mẹ luôn có cách để cân đối. Bà tự làm móng, tự nhuộm tóc (từng có lần bà vô tình nhuộm tóc thành màu xanh lá), và chỉ có quần áo mới khi cha tôi mua tặng bà nhân dịp sinh nhật. Bà chưa bao giờ giàu có, nhưng bà rất khéo tay. Hồi chúng tôi còn bé, bà đã biến những chiếc vớ cũ trở thành những con rối trông y hệt những nhân vật trong loạt phim hoạt hình The Muppets(2). Bà tự móc khăn trải bàn. Bà tự may rất nhiều quần áo cho tôi, ít nhất là đến khi tôi vào trung học và kiên quyết đề nghị bà đừng may đồ cho tôi nữa, vì lúc này bỗng nhiên việc có được một chiếc quần jeans thêu ký hiệu thiên nga của Gloria Vanderbilt(3) ở túi trước có ý nghĩa hơn hết thảy mọi thứ.
Thỉnh thoảng mẹ thay đổi cách bài trí phòng khách, trải tấm phủ mới lên sofa, đổi các tấm ảnh và tranh treo tường khác. Khi thời tiết ấm lên, bà sẽ tổng vệ sinh nhà cửa để đón xuân như một nghi thức hàng năm mà trong đó bà sẽ “tấn công” trên mọi mặt trận, từ hút bụi, giặt màn cửa và tháo hết các cánh cửa chống bão xuống để lau chùi rồi thay chúng bằng cửa lưới để không khí mùa xuân có thể tràn vào căn hộ nhỏ bé và chật chội của chúng tôi. Sau đó bà sẽ xuống căn hộ của ông bà Robbie và Terry để dọn dẹp cho họ, đặc biệt là khi họ đã cao tuổi và không còn đủ sức. Nhờ mẹ mà đến tận hôm nay, cứ mỗi lần nghe thấy mùi hương nước tẩy rửa Pine-Sol, tôi sẽ bất giác thấy cuộc đời trở nên dễ chịu hơn rất nhiều.
Đến mùa Giáng sinh, mẹ càng trở nên đặc biệt sáng tạo. Một năm nọ, bà nghĩ ra cách bọc giàn sưởi của chúng tôi bằng giấy bìa cứng có in hình những viên gạch đỏ, rồi bà tiếp tục dùng bìa cứng làm một ống khói giả, bắt lên trần nhà và một cái lò sưởi giả, sau đó trang trí lò sưởi giả đó như thật. Rồi bà yêu cầu cha tôi - một nghệ sĩ tại gia - vẽ những đốm lửa màu cam trên giấy mỏng, để khi rọi đèn từ đằng sau thì sẽ tạo cảm giác khá giống những ngọn lửa thật. Vào đêm Giao thừa, như một truyền thống gia đình, bà sẽ sắm một giỏ quà đặc biệt đựng đầy các viên phô mai đủ loại, hàu hun khói đóng hộp và nhiều loại xúc xích salami khác nhau. Bà sẽ mời cô út Francesca đến nhà để cùng chơi board game. Chúng tôi gọi pizza cho bữa tối rồi ăn lai rai đến hết ngày. Mẹ tôi sẽ bưng ra các khay bánh cuộn xúc xích, tôm chiên và bánh Ritz phủ phô mai đặc biệt. Khi gần đến Giao thừa, mỗi người chúng tôi sẽ có một ly sâm-banh nhỏ.
Mẹ tôi có lối tư duy dạy con mà giờ đây tôi mới nhận ra là thật khác thường và hầu như ít có phụ huynh nào làm được - nó trung lập và mang tính điềm tĩnh đậm chất thiền. Tôi có những người bạn mà tâm trạng của mẹ họ cứ trồi lên sụt xuống theo những vấn đề của con cái, như thể đó là vấn đề của chính mình, và tôi biết nhiều đứa trẻ có cha mẹ bị quá tải với những khó khăn của bản thân nên gần như không để tâm nhiều đến con cái. Mẹ tôi chỉ đơn giản là trầm ổn. Bà không vội phán xét cũng không vội hòa giải. Ngược lại, bà dõi theo tâm trạng của hai anh em chúng tôi và điềm tĩnh chứng kiến mọi khó khăn và những gì chúng tôi đạt được trong ngày. Khi chuyện trở nên tồi tệ, bà chỉ an ủi chúng tôi một chút. Khi anh em tôi làm được chuyện gì đó ra trò, mẹ cũng chỉ khen ngợi vừa đủ để chúng tôi biết là bà đang hài lòng, chứ bà không bao giờ khen quá lời đến mức biến lời khen trở thành động lực để chúng tôi làm hay không làm một việc nào đó.
Lời khuyên của bà, nếu có, thường là kiểu lời khuyên vừa thực tế vừa cứng rắn. “Con không cần phải thích giáo viên của con”, bà nói khi nghe tôi càu nhàu. “Nhưng cô giáo đó có những kiến thức toán học mà con cần. Hãy tập trung vào chuyện đó và bỏ qua những chuyện râu ria khác.”
Dù rất yêu thương anh Craig và tôi, nhưng bà không bao giờ bảo bọc thái quá. Mục tiêu của bà là đẩy chúng tôi ra thế giới bên ngoài. “Mẹ không nuôi dạy trẻ con”, bà nói với anh em chúng tôi. “Mẹ đang nuôi dạy người trưởng thành.” Cha mẹ tôi thường đưa ra các hướng dẫn chứ không phải là các quy tắc. Điều đó có nghĩa là hồi còn là những đứa trẻ vị thành niên, chúng tôi chưa bao giờ có giờ giới nghiêm. Thay vào đó, họ sẽ hỏi, “Con về nhà vào lúc nào là hợp lý?” và rồi tin tưởng chúng tôi sẽ giữ đúng lời hứa.
Có một lần, anh Craig kể chuyện về cô gái mà anh ấy thích hồi lớp tám và chuyện một ngày nọ cô ấy mở lời mời mọc anh ấy sang nhà chơi, cố tình nhấn mạnh là cha mẹ của cô ấy không có ở nhà và như vậy thì cả hai sẽ được thoải mái bên nhau. Sau đó anh đã khổ sở giằng co giữa việc đi hay không đi; anh bị kích thích bởi cơ hội có được, nhưng cũng biết chuyện đó là vụng trộm và đáng hổ thẹn, là kiểu hành vi mà cha mẹ tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Lúc đó anh có kể với mẹ tôi một nửa sự thật, tức là anh cho bà biết về cô bạn kia nhưng lại nói rằng cả hai sẽ gặp nhau ở công viên. Nhưng rồi có lẽ là do có chút cắn rứt lương tâm, sau cùng anh Craig đã thú nhận với mẹ tôi toàn bộ kế hoạch kia với hy vọng mẹ sẽ tức giận và cấm anh đi.
Nhưng không, mẹ không nổi giận. Đó không phải là cách của mẹ.
Bà lắng nghe, nhưng không tháo dỡ gánh nặng lựa chọn cho anh Craig. Trái lại, mẹ trả lại anh ấy sự giằng co bằng một cái nhún vai. “Hãy xử lý theo cách mà con nghĩ là tốt nhất”, bà nói trước khi quay lại với đống chén đĩa trong chậu hoặc mớ quần áo cần được xếp vào tủ.
Đó là một cú hích nhẹ để đẩy chúng tôi đến gần với thực tế. Tôi chắc chắn trong thâm tâm mẹ đã biết anh Craig sẽ đưa ra lựa chọn đúng đắn. Bây giờ tôi nhận ra mỗi quyết định của bà đều được củng cố bởi một niềm tin thầm lặng là bà đã nuôi dạy hai anh em chúng tôi thành người trưởng thành. Chúng tôi là người quyết định. Đây là cuộc đời của chúng tôi, không phải của bà, và sẽ luôn như vậy.
KHI MƯỜI BỐN TUỔI, về cơ bản thì tôi đã nghĩ mình đi được nửa chặng đường để trở thành người lớn - thậm chí có lẽ là hai phần ba. Tôi có kinh nguyệt, và tôi ngay lập tức háo hức thông báo với mọi người trong nhà, vì đơn giản đó là cách của gia đình tôi. Tôi không còn mặc áo lá mà chuyển sang mặc một chiếc áo ngực khiến tôi trông có vẻ nữ tính hơn một chút, và điều này cũng làm tôi phấn khởi. Thay vì về nhà để dùng bữa trưa, giờ đây tôi ăn với bạn học tại phòng của thầy Bennett trong trường. Thay vì sang nhà ông Southside vào các ngày thứ Bảy để nghe mấy đĩa nhạc jazz của ông và chơi với chú chó Rex, tôi đạp xe ngang qua nhà ông, thẳng về phía đông để đến căn bungalow trên Đại lộ Oglesby, nơi chị em nhà Gore sinh sống.
Chị em nhà Gore là bạn thân của tôi và tôi cũng hơi thần tượng họ. Diane học cùng lớp với tôi, còn Pam thì học sau một lớp. Cả hai đều là những cô gái xinh xắn - Diane có màu da sáng, và da Pam thì sậm hơn - mỗi người đều toát lên vẻ đẹp riêng. Kể cả em gái Gina, người nhỏ hơn họ vài tuổi, cũng sở hữu vẻ đẹp nữ tính mà tôi cho là đặc điểm của nhà Gore. Nhà của chị em họ ít khi có đàn ông. Cha họ không sống ở đó và ít khi được nhắc tới. Họ có một người anh lớn hơn rất nhiều tuổi chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện. Bà Gore là một phụ nữ vui vẻ, lôi cuốn và bà làm việc toàn thời gian. Bà có một bàn trang điểm đầy những chai nước hoa, hộp phấn trang điểm và đủ loại dầu làm đẹp được đựng trong những chiếc lọ nhỏ mà tôi cảm thấy cứ như là những món trang sức đẹp lạ - vì mẹ tôi ở nhà rất dung dị. Tôi rất thích đến nhà họ chơi. Pam, Diane và tôi huyên thuyên về những đứa con trai mình thích. Chúng tôi bôi son bóng lên môi và ướm thử quần áo của nhau, để rồi chợt nhận ra một số kiểu quần tây sẽ khiến mông chúng tôi có vẻ cong hơn. Ngày ấy tôi tiêu tốn nhiều năng lượng cho mấy suy nghĩ vẩn vơ, chẳng hạn như tôi thường ngồi một mình trong phòng nghe nhạc, tơ tưởng về điệu nhảy slow với một anh chàng điển trai nào đó, hoặc nhìn ra cửa sổ, hy vọng người mà mình đang để ý sẽ chạy lướt qua. Thế nên thật may khi tôi tìm được những cô chị em gái để cùng trải qua những năm tháng đó.
Bọn con trai không được phép vào nhà Gore, nhưng họ cứ lảng vảng xung quanh. Họ đạp xe tới lui trên vệ đường. Họ ngồi ở bậc thềm trước cửa, hy vọng Diane hay Pam sẽ đi ra ngoài để được dịp tán tỉnh. Thật thú vị khi chứng kiến quá trình ôm cây đợi thỏ này, ngay cả khi tôi không chắc toàn bộ những chuyện này có ý nghĩa gì. Nhìn đâu tôi cũng thấy những cơ thể thanh xuân đang trổ mã. Bọn con trai ở trường bỗng cao lớn như đàn ông và hành xử kỳ quái, năng lượng lên xuống thất thường còn giọng nói thì cứ ồm ồm. Trong khi đó, một số cô bạn tôi trông như đang tuổi mười tám; họ đi dạo trong trang phục quần ngắn cũn cỡn và áo yếm, ra vẻ hiểu đời và vô cùng tự tin như thể các cô nàng biết một bí mật nào đó, như thể giờ đây họ đang ở một trình độ khác - trong khi đám chúng tôi vẫn bối rối và còn có vẻ hơi ngờ nghệch, đợi đến lượt mình được bước vào thế giới của người lớn. Chúng tôi trông như những cô ngựa non đang nhổ giò, non đến độ có bôi bao nhiêu son bóng cũng không thể nào bớt non được.
Như rất nhiều đứa con gái khác, tôi bắt đầu nhận thức về cơ thể mình từ sớm, rất lâu trước khi tôi ra dáng là một phụ nữ. Tôi tự đi lại trong khu phố nhà mình nhiều hơn và ít đi cùng cha mẹ. Tôi tự đón xe buýt nội thành để đến lớp khiêu vũ buổi tối tại Học viện Mayfair trên Đường 79, nơi tôi đang học nhảy jazz và nhào lộn. Thỉnh thoảng tôi chạy việc vặt cho mẹ. Tất nhiên, cùng với sự tự do mới có được của tuổi mới lớn này là những hiểm họa tiềm ẩn mới. Tôi tập nhìn thẳng về phía trước mỗi khi đi ngang qua một nhóm đàn ông tụ tập ở góc đường, vờ không để ý thấy ánh mắt họ đang nhìn vào ngực hay chân tôi. Tôi biết mình phải phớt lờ tiếng huýt sáo trêu ghẹo. Tôi biết chỗ nào trong khu chúng tôi sống được cho là nguy hiểm hơn các nơi khác. Tôi biết không nên ra đường một mình vào buổi tối.
Ở nhà, cha mẹ tôi đã có một sự nhượng bộ lớn trước thực tế là họ đang có hai đứa trẻ tuổi vị thành niên đang lớn trong nhà. Họ cải tạo hành lang phía sau bếp và biến nó thành phòng ngủ cho anh Craig, khi ấy đang học năm thứ hai trung học. Vách ngăn mỏng dính mà ông Southside làm cho chúng tôi nhiều năm trước đã được dỡ bỏ. Tôi dọn sang nơi từng là phòng ngủ của cha mẹ, còn họ dời vào nơi từng là phòng của anh em chúng tôi, và thế là lần đầu tiên trong đời, chúng tôi thật sự có không gian riêng tư. Phòng ngủ mới của tôi đẹp như mơ, có ga giường và ga gối họa tiết hoa lá màu xanh dương và trắng, một tấm thảm màu xanh nước biển mát rượi, và một chiếc giường công chúa màu trắng có tủ và đèn ngủ đồng bộ - một bản sao gần như hoàn hảo của mẫu thiết kế phòng ngủ mà tôi thích trong catalog của Sears. Cha mẹ còn nối cho anh em tôi mỗi người một chiếc điện thoại trong phòng - điện thoại của tôi có màu xanh nhạt để hợp với căn phòng mới của tôi, còn điện thoại của anh Craig thì có màu đen nam tính - điều này đồng nghĩa với việc chúng tôi có thể tương đối tự do làm việc riêng.
Thực tế là tôi đã sắp đặt nụ hôn đầu đời của mình qua điện thoại. Đó là nụ hôn với một cậu bạn tên Ronnell. Ronnell không học cùng trường hay sống cùng khu phố với tôi, nhưng cậu ấy hát cho Dàn hợp xướng thiếu nhi Chicago với cô bạn cùng lớp Chiaka của tôi, và khi được Chiaka giới thiệu thì theo cách nào đó, chúng tôi đã biết là mình thích nhau. Các cuộc gọi giữa chúng tôi có hơi kỳ lạ, nhưng tôi không bận tâm. Tôi thích cảm giác được người khác thích mình. Tôi cảm thấy một chút háo hức mỗi khi điện thoại đổ chuông. Có phải là Ronnell không? Tôi không nhớ ai trong chúng tôi đã đề nghị gặp nhau bên ngoài vào một buổi chiều để thử hôn nhau, nhưng chúng tôi không hề dè dặt với đề nghị đó và không cần phải nói tránh đi. Chúng tôi không “đi chơi” hay “đi dạo”. Chúng tôi sẽ hôn nhau. Và chúng tôi đều sẵn sàng cho chuyện đó.
Đó là lý do tôi ngồi xuống ghế đá bên cửa hông nhà mình, nơi có thể nhìn toàn cảnh các cánh cửa sổ hướng nam cùng với những luống hoa của bà Robbie, và đắm đuối trong nụ hôn nồng nàn với Ronnell. Chuyện chẳng có gì kinh thiên động địa hay cực kỳ phấn khích, nhưng cơ bản là chuyện đó khá vui. Tôi bắt đầu thấy ở quanh đám con trai thật là vui. Dần dần tôi không còn cảm giác mình đang làm nghĩa vụ của một cô em gái khi dành hàng giờ đồng hồ xem anh Craig đấu bóng từ ghế súp ở hết phòng tập này đến phòng tập khác. Vì một trận đấu bóng có thể là gì khác nếu không phải là một cuộc trình diễn của đám con trai? Tôi sẽ chọn mặc chiếc quần jeans bó sát nhất, đeo thêm vài chiếc vòng tay và thỉnh thoảng dẫn theo một chị em nhà Gore để tăng sức hút của mình trên khán đài. Và rồi tôi tận hưởng từng phút của trận đấu bóng nhễ nhãi mồ hôi trước mắt - những cú nhảy hoặc tấn công, tiếng rì rầm và la hét, chất nam tính và tất cả những bí ẩn của nó đang được bày ra trước mắt. Khi một anh chàng ở đội JV mỉm cười với tôi lúc rời sân vào một tối nọ, tôi cười đáp lại ngay. Tôi cảm giác như tương lai của mình vừa bắt đầu mở ra.
Tôi dần dần tách khỏi cha mẹ và ít nói ra mọi suy nghĩ trong đầu của mình hơn. Mỗi khi xem xong các trận đấu của anh Craig, tôi thường ngồi ở băng ghế phía sau chiếc Buick và im lặng suốt quãng đường về nhà. Cảm xúc của tôi quá sâu kín hoặc quá lộn xộn đến mức không thể chia sẻ với cha mẹ. Tôi rơi vào trạng thái cô đơn của một đứa trẻ tuổi dậy thì và tin là những người lớn xung quanh chưa bao giờ trải qua những gì tôi đang trải qua.
Có những buổi tối sau khi đánh răng xong, tôi bước ra khỏi nhà tắm và thấy căn hộ tối đen - đèn đóm trong nhà đã tắt hết và ai cũng an ổn trong không gian riêng. Tôi nhìn ánh sáng hắt ra từ khe cửa phòng anh Craig và biết anh ấy đang làm bài tập về nhà. Tôi thấy ánh sáng ti-vi le lói từ phòng cha mẹ và nghe tiếng họ thủ thỉ, cười đùa với nhau. Tôi chưa bao giờ thắc mắc về ý nghĩa của hôn nhân, cũng chưa bao giờ thắc mắc xem làm một người mẹ và người nội trợ toàn thời gian là như thế nào. Tôi thấy sự gắn kết của cha mẹ tôi là hiển nhiên. Đó là một thực tế đơn giản và rõ ràng, là nền tảng hình thành cuộc sống của cả bốn người chúng tôi.
Rất lâu sau này mẹ tôi mới kể rằng hàng năm khi xuân về và bầu không khí ở Chicago ấm dần lên, bà lại lan man ý nghĩ rời bỏ cha tôi. Tôi không biết những suy nghĩ đó có thật sự nghiêm túc hay không. Tôi không biết bà nghĩ về chuyện đó trong chỉ một giờ, một ngày, hay suốt cả mùa xuân, nhưng đối với bà thì đó thật sự là một ý tưởng kỳ quặc nhưng tích cực, một điều gì đó lành mạnh, mà chỉ cần nghĩ đến thôi cũng có thể mang lại động lực, tựa như một nghi lễ vậy.
Giờ đây tôi hiểu rằng ngay cả một cuộc hôn nhân hạnh phúc nhất cũng có thể trở thành một sự phiền toái, rằng đó là một hợp đồng mà tốt nhất là nên được làm mới liên tục, cho dù là theo cách yên lặng và âm thầm - thậm chí là đơn phương. Tôi không nghĩ mẹ từng thẳng thắn nói ra những nghi ngờ và bất mãn của mình với cha, và tôi cũng không nghĩ mẹ đã chia sẻ với cha về những cuộc đời khác mà mẹ đã mơ đến trong suốt những khoảng thời gian đó. Phải chăng bà đã tưởng tượng mình ở trên một hòn đảo nhiệt đới nào đó? Với một kiểu người đàn ông khác, trong một ngôi nhà khác, hoặc làm việc trong một văn phòng nào đó thay vì ở nhà chăm sóc hai đứa trẻ? Tôi không biết, và tôi nghĩ mình có thể hỏi mẹ, người mà giờ đây đã ngoài tám mươi, nhưng tôi nghĩ chuyện đó không còn quan trọng nữa.
Nếu bạn chưa bao giờ trải qua mùa đông ở Chicago, hãy để tôi miêu tả cho bạn biết: Bạn có thể phải sống suốt một trăm ngày dưới bầu trời xám xịt trông như một cái nắp bao trùm cả thành phố. Những cơn gió buốt giá thổi đến từ phía Hồ Michigan. Tuyết rơi theo hàng chục cách khác nhau - rơi ào ào về đêm, rơi nghiêng nghiêng lất phất vào ban ngày, rơi dưới dạng một cơn mưa tuyết ướt át làm nản lòng khách bộ hành và rơi nhẹ nhàng như trong mấy câu chuyện cổ tích. Thường thì sẽ có rất nhiều băng tuyết cần được lau dọn trên vệ đường và những tấm kính chắn gió ô-tô. Mỗi sáng sớm sẽ có tiếng cạo tuyết rột roạt vang lên khi người ta chuẩn bị lấy xe đi làm. Bạn thậm chí cũng khó nhận ra người hàng xóm, bởi họ sẽ khoác tấm áo dày cộp và cúi gằm mặt để tránh gió thốc. Xe dọn tuyết của thành phố sẽ rảo khắp các con đường và những đống tuyết trắng thì cứ chất cao và ngày càng bám bẩn.
Tuy nhiên, cuối cùng thì sẽ có một chuyện xảy ra. Một quá trình đảo chiều chậm chạp bắt đầu. Nó có thể rất khó nhận ra - một luồng hơi ẩm trong không khí, một chút sáng sủa của bầu trời. Bạn cảm nhận điều đó trước hết trong tim mình, rằng mùa đông hẳn đã qua đi. Thoạt đầu bạn có thể không tin, nhưng rồi bạn sẽ tin. Vì giờ đây mặt trời đã ló dạng, những chồi non bé xíu xuất hiện trên cây, và hàng xóm đã cởi bỏ tấm áo choàng mùa đông nặng nề. Và vào buổi sáng mà bạn quyết định mở mọi cánh cửa sổ trong nhà để lau kính và lau sạch tuyết trên bệ cửa, có lẽ sẽ có một sự thảnh thơi mới mẻ nào đó trong suy nghĩ của bạn. Nó khiến bạn nghĩ ngợi, tự hỏi mình có bỏ lỡ cơ hội nào không khi trở thành vợ của người đàn ông này trong ngôi nhà với những đứa trẻ này.
Có lẽ bạn sẽ dành cả ngày để cân nhắc những cách sống mới, cho đến khi cuối cùng bạn cũng gắn lại mọi cánh cửa vào khung và đổ bỏ xô nước tẩy rửa Pine-Sol vào bồn. Và có lẽ giờ đây bạn đã quay về với hiện thực, vì mùa xuân đã đến, đúng vậy, và một lần nữa bạn quyết định ở lại chốn này.
(1) Trò chụp banh jacks: trò chơi gồm có nhiều miếng nhựa hoặc miếng kim loại lục giác và một quả banh. Người chơi cứ tung banh lên thì nhặt một miếng nhựa để vừa cầm vừa chụp banh. Ai cầm được nhiều miếng nhựa nhất thì thắng cuộc.
(2) The Muppets: một bộ phim thiếu nhi của hãng Walt Disney, có tựa tiếng Việt là “Đại nhạc hội rối”.
(3) Gloria Vanderbilt (1924): nghệ sĩ, diễn viên, tác giả, nhà thiết kế nổi tiếng người Mỹ. Bà cũng là người thừa kế của dòng họ Vanderbilt ở New York và là người giao thiệp rộng trong giới tinh hoa Mỹ.