Họ đã thuê tôi. Có lẽ không có nhiều người ứng tuyển; thậm chí không có bất kỳ ai cả. Và rồi tôi, lúc mười một giờ đêm vào bốn ngày sau, đang ngồi ở văn phòng của Sun Down với một người đàn ông khốn khổ tên là Chris, đang học những công việc phải làm của một nhân viên ca đêm. Chris khoảng năm mươi tuổi, ông ấy nói rằng mình là con trai của chủ sở hữu đầu tiên của nhà nghỉ. Ông ấy mặc một chiếc áo sơ mi flannel kẻ sọc màu xanh lam và quần bò cạp cao, trông ông ta có cái vẻ khốn khổ hơn bất kỳ người đàn ông nào tôi từng gặp, ngay cả khi còn học trung học. Sự khốn khổ tỏa ra trong ông ấy như một thứ mùi.
“Chìa khóa ở đây,” ông ấy vừa nói vừa mở ngăn bàn. “Chúng tôi không bao giờ đổi sang hệ thống thẻ điện tử, vì như thế tốn rất nhiều tiền. Dù sao thì chúng tôi cũng có vấn đề với thiết bị điện tử ở nơi này. Chúng tôi đã thử làm việc trên máy tính trong một thời gian, nhưng nó không bao giờ hoạt động, và cuối cùng nó ngừng bật. Vì vậy, chúng tôi vẫn sử dụng sổ sách.” Người đàn ông chỉ vào cuốn sổ bìa da lớn trên bàn có ghi tên của khách.
“Được rồi,” tôi nói. Công việc của tôi với tư cách là một nhân viên pha chế còn công nghệ thì hiện đại hơn thế này. “Điện thoại cố định, phải không?” Tôi chỉ vào chiếc điện thoại cũ.
Chris liếc nhìn nó. “Cô có thể sử dụng di động của mình ở đây nếu cô được nhận. Chúng tôi không có wi-fi, nhưng cô có thể câu trộm ở đâu đó nếu thời tiết thuận lợi và đường truyền tốt. Một lần nữa, vẫn là vấn đề chi phí. Nancy sẽ đến vào buổi trưa mỗi ngày để dọn dẹp những phòng đã được sử dụng – cô sẽ không bao giờ thấy cô ấy. Đồ bẩn cần giặt bỏ vào thùng ở phía sau. Đồ giặt được nhận và trả hàng tuần, một lần một ngày. Cô cũng sẽ không nhìn thấy chúng.”
Tôi vẫn bị mắc kẹt trong những suy nghĩ về Internet. “Không có Internet? Không có gì ư?” Điều đó khiến tôi phải nhận lại một cái nhìn khinh bỉ. “Tôi đoán đó là một vấn đề đối với một người ở độ tuổi của cô, phải không? Chắc cô muốn được trả tiền để lướt Twitter cả đêm.”
Tôi đã tỏ thái độ với ông ta bằng khuôn mặt lạnh lùng. “Đúng vậy,” tôi nói. “Ước mơ của tôi là kiếm được mức lương tối thiểu để ngồi trong văn phòng nhà nghỉ và lướt Twitter. Kiểu… đương nhiên, nếu được, tôi còn muốn lướt Facebook.”
Chris nói: “Đất nước này sẽ trở thành đống đổ nát trong gang tấc.”
“Thực ra đó là địa ngục trong gang tấc. Họ thường nói như vậy.”
“Sao cũng được. Mặc cái này vào.” Ông ta đưa cho tôi một chiếc áo vest màu xanh đậm có logo trên ngực. “Thành thật mà nói, tôi không biết cô có thực sự mặc nó hay không, nhưng cô phải làm vậy. Chúng tôi sẽ nâng cấp chúng dần, nhưng…”
“Điều đó rất tốn tiền,” tôi bổ sung.
Tôi mỉm cười, nhưng ông ta đáp lại với vẻ buồn tủi. “Cha mẹ tôi đã trả tiền chỉ bằng một bài hát cho nơi này,” người đàn ông nói. “Bố mua đất của một vài người nông dân và xây nhà trọ với giá rẻ. Khu đất ban đầu là để đầu tư thực sự, việc xây nhà nghỉ chỉ là một cách kiếm tiền để trả thuế. Tôi đoán họ sẽ bán khi được giá.” Ông ta thở dài. “Điều đó không bao giờ được thực hiện, bởi vì họ không bao giờ xây dựng công viên giải trí chết tiệt đó. Bây giờ cha mẹ tôi đã mất và nơi này thuộc về tôi. Tôi đã cố gắng bán nó trong khoảng 2000, nhưng chẳng có người mua. Vì thế nên chúng ta ở đây. Vài nghìn đô-la mà nó kiếm được mỗi năm còn rẻ hơn so với việc trả tiền cho đại lý để bán nó.”
Tôi cầm lấy chiếc áo vest bằng chất liệu polyester, cảm nhận được kết cấu dày và dẻo của nó giữa các ngón tay. “Vậy ông kiếm sống bằng cách nào?” Tôi hỏi.
“Tôi bán bảo hiểm xe hơi. Luôn luôn có. Stateline Auto trong thị trấn. Nếu cô cần bảo hiểm, hãy gọi cho tôi.” Ông nhìn quanh, đôi mắt mệt mỏi. “Thành thật mà nói, tôi ghét nơi này. Tôi muốn ra đây càng ít càng tốt. Mọi ký ức của tôi về nơi này đều tồi tệ.”
Tôi muốn hỏi điều đó có nghĩa là gì, nhưng biểu hiện trên khuôn mặt ông ta đã tắt ngúm. Vì vậy, tôi nói: “Nếu muốn tiết kiệm tiền, tại sao lại thuê một nhân viên trực đêm?”
“Chúng tôi đã thử vận hành mà không có nhân viên trực đêm trong những năm chín mươi, và thẳng thắn mà nói những cô gái điếm đã thống trị nơi này. Họ ở đây cả đêm, gây hỏng hóc khiến tôi phải sửa chữa, và bỏ đi mà không trả tiền. Lợi nhuận thực sự đã giảm, cô có thể hiểu được mà. Hóa ra phải có người ở đây mới khiến người ta biết cách cư xử, dù chỉ một chút.” Ông chỉ vào một cái bảng ghim trên tường cạnh bàn làm việc với một tờ giấy bạc trên đó. “Hãy gọi cảnh sát nếu cô cần. Hầu hết mọi người chỉ là những kẻ ngu ngốc và biết rút lui khi cô bảo họ dừng lại. Chúng tôi chưa bao giờ để ai có hành vi bạo lực với nhân viên trực đêm.”
“Ngoại trừ một người đã mất tích,” tôi nói.
Chris chớp mắt với tôi. “Gì?”
“Một nhân viên trực đêm đã mất tích vào năm 1982.”
“Làm thế quái nào mà cô nghe được về điều đó?”
“Nó xuất hiện đầy trên các tờ báo,” tôi nói một điều mà đó không phải là một lời nói dối.
“Ôi, Chúa ơi,” ông nói, đưa tay vuốt qua mái tóc mỏng của mình. Ông ta có vẻ kinh hoàng. “Đừng lôi chuyện đó lên, được không? Tôi nghĩ rằng mọi người đã quên về điều đó. Đó là thời của cha mẹ tôi. Cô thậm chí còn chưa được sinh ra.”
“Ông có biết cô ấy không?” Tôi hỏi ông ấy.
“Hồi đó tôi là một đứa trẻ, vì vậy là không.”
“Ông nghĩ điều gì đã xảy ra với cô ấy?”
“Ai biết? Chuyện đó lâu lắm rồi. Xin đừng mang nó quay lại. Chúng tôi cần khách hàng.”
Đó là phần cuối của cuộc phỏng vấn của tôi với Chris về sự biến mất của bác tôi. Điểm số 0 cho Nancy Drew.
Khi Chris rời đi, tôi thả chiếc áo vest màu xanh xuống ghế và đi làm. Tôi bắt đầu với bàn làm việc, mở tất cả các ngăn kéo và xem xét chúng. Ngoại trừ chìa khóa phòng, mỗi chiếc đều được móc vào chiếc móc tròn cùng chiếc quai da có đóng dấu số, không có gì thú vị.
Tiếp theo, tôi chuyển sang mặt bàn. Đó là một mặt gỗ bị sứt mẻ với lớp Formica phía trên. Có một chiếc bút lông, bút chì và bút mực, chiếc điện thoại cũ với các nút vuông lớn ở phía dưới để liên hệ tới các số điện thoại khác nhau. Không có nút nào sáng vào lúc này. Ở góc là cuốn sổ lưu bút, một bìa da lớn với các trang bên trong. Tôi đưa tay lướt qua cuốn sổ lưu bút, rồi dừng lại.
Trong một phút điên rồ, dường như thời gian đã tự cuốn lại, giống như không có khoảng cách giữa năm 1982 và thời điểm hiện tại. Đây là bàn mà Viv Delaney đã ngồi; đây chính là chiếc điện thoại mà bác ấy từng sử dụng. Chiếc áo vest màu xanh lam có thể là bộ mà bác ấy đã mặc. Bác ấy từng ngồi trong cái ghế này, nhìn cái bảng ghim này với số điện thoại của cảnh sát được ghim trên đó. Là năm nào? Một giọng nói trong tâm trí tôi hỏi. Nó là năm 1982 hay 2017? Mình có phân biệt được không?
Tôi cầm cuốn sổ theo dõi khách và mở nó ra. Có bốn phòng có người vào tối nay: hai người đàn ông, một cặp vợ chồng và một người phụ nữ. Tôi không nhận ra bất kỳ cái tên nào. Tôi tìm thấy một cuốn sổ tay cũ và một cây bút, viết vội chúng xuống và rút điện thoại ra. Tuy biết ở đây không có tín hiệu, nhưng tôi mặc áo khoác, bước ra khỏi cửa văn phòng và đi trên lối đi, sau đó là bãi đậu xe, nhìn vào màn hình để xem có tín hiệu xuất hiện hay không.
Khi tôi đứng gần biển báo “CÒN PHÒNG TRỐNG. CÓ TRU YỀN HÌNH CÁP!” biểu tượng tín hiệu hiện lên. Tôi nhanh chóng thử tìm kiếm trên Google những cái tên trên bài báo của mình, nhưng ngay cả tìm kiếm đầu tiên cũng không tải được. Tín hiệu quá yếu.
Tôi nhét tờ giấy vào túi. Tôi nhắn tin cho Heather, biết rằng cô ấy chưa ngủ. Chúng tôi đã thức suốt hai đêm qua, xem phim và chuẩn bị cho tôi làm ca đêm sau khi tôi biết mình đã nhận được việc.
Không có tài liệu, không có máy tính, không Internet, và sếp của tôi nói rằng đừng hỏi ông ấy về Viv. Tôi đã đi quá xa rồi, tôi đã nhắn tin cho cô ấy.
Cô ấy trả lời ngay lập tức. Carly, bây giờ là 11 giờ 30 phút.
Phải, tôi chỉ ở đây để làm việc một vài ca làm và tìm những gì tôi có thể tìm thấy trước khi nghỉ việc. Tôi còn rất nhiều thời gian trong đêm. Tiếp tục, tôi nhắn tin, và cất điện thoại vào túi khi tín hiệu lại tắt.
Gió táp xuống cổ tôi, và tấm biển phát ra âm thanh kỳ lạ trên đầu. Tôi rời xa nó và đi đến bãi đậu xe, nhìn lên nhà nghỉ. Các phòng đều tối, ngoại trừ hai phòng đã bật đèn, kéo rèm. Bản thân nhà nghỉ trông như đang ngủ quên trong bóng tối, nhưng nó lại mang một cảm giác kỳ lạ mà tôi cảm thấy khi lần đầu tiên đến đây. Tôi xoa hai tay vào nhau và tự hỏi mình sẽ trải qua bảy tiếng rưỡi tiếp theo ở đây như thế nào. Tôi tự hỏi mình đang làm cái quái gì thế này.
Ở tầng thứ hai, cánh cửa của một trong những căn phòng không có người ở mở toang, cho thấy bóng tối bên trong.
Tôi nheo mắt. Chắc chắn không có ai ở trong phòng, không có ai ở ngưỡng cửa. Vậy mà giờ đây cánh cửa vẫn mở toang, đập nhẹ trong gió.
Khóa hoặc tay vặn chắc đã bị hỏng. Tôi băng qua bãi đậu xe và leo lên cầu thang, rúc người sâu vào áo khoác vì ở trên này có vẻ lạnh hơn. Mùa thu muộn ở ngoại ô New York không phải là chuyện đùa. Tai tôi đau nhói và mũi tôi bắt đầu chảy nước mũi.
Tôi cầm lấy tay nắm cửa phòng, đó là phòng 218, và kéo nó đóng lại. Tôi đã thử xoay tay nắm và thấy nó đã được mở khóa, và tôi không có chìa khóa. Tôi mở cửa một lần nữa và thấy nó có một cái ổ khóa tròn ở bên trong núm khóa. Tôi xoay ổ khóa và đóng cửa lại.
Hai cánh cửa đã đóng, phòng 216 mở ra.
Chính nó - chỉ là tiếng khe khẽ của cánh cửa mở, sau đó không có gì. Gió thổi và cánh cửa cót két, chao đảo.
Có điều gì đó bên trong tâm trí tôi nói, Điều này không đúng.
Tuy nhiên, tôi bước đến ngưỡng cửa và nắm lấy cái tay nắm, lần này tôi quét mắt một lượt qua căn phòng tối. Giường, tủ, ti vi, cửa phòng tắm. Không có gì khác ở đó.
Tôi xoay khóa và đóng cửa lại, đảm bảo nó được đóng hết cỡ. Nhưng nó lại mở ra một lần nữa, mặc dù núm xoay không quay. Tôi nắm lấy nó và dập lại lần nữa, lần này khó hơn. Cửa đóng trong khoảng mười giây, sau đó lại mở ra.
Có một âm thanh yếu ớt từ sau cánh cửa, như thể có ai đang đứng đó. Tiếng vải sột soạt. Tiếng gõ nhẹ của một bước chân. Tôi bắt gặp một làn hương nước hoa bay bổng.
“Này,” tôi nói và đưa tay ra. Trước khi tôi có thể chạm vào cánh cửa, nó đã đóng sầm lại, đến nỗi khung cửa gần như rung lên.
Hơi thở của tôi trở nên nặng nề. Cánh tay tôi vẫn dang ra, bàn tay tôi đưa lên, những ngón tay tôi lạnh ngắt. Một luồng không khí lạnh buốt phả vào mặt tôi, xuống cổ. Tôi không thể nghĩ ngợi gì.
Trong khi tôi đứng đơ ra, cánh cửa phòng 210 mở ra.
Ngực tôi ép chặt bên trong áo khoác. Tôi di chuyển chân, va vào lan can. Cơn đau âm ỉ chạy dọc sống lưng. Tay của tôi giống như tảng băng khi tôi cố gắng quay người lại một cách vụng về, để lùi lại. Có tiếng bước chân nặng nề.
Một người đàn ông bước ra khỏi phòng 210 và đi vào hành lang. Có lẽ anh ấy hơn tôi vài tuổi. Tóc nâu, đã được cắt ngắn. Quần bò rách và một chiếc áo phông cũ màu xám đậm. Quai hàm cứng rắn. Mắt xanh. Tóc dựng lởm chởm như vừa ngủ dậy.
Tôi nhìn trân trân vào anh ta, gần như chết lặng. Anh ta có thật, nhưng tôi đã xem sổ lưu bút, và anh ta không phải khách ở đây. Phòng 210 không có người ở. Điều đó có nghĩa là tôi không hề biết anh ta là ai.
“Này,” người đàn ông nói với tôi như thể anh ta thuộc về nơi này. “Cô là đứa nào?”
***
Hơi thở của tôi hóa khói trong không khí lạnh. Tôi lùi lại một bước. “Ừm,” tôi nói.
“Tôi...”
“Đập cửa vào lúc nửa đêm,” anh kết thúc. “Tôi đang cố ngủ ở đây.”
Đó không phải là tôi. Ít nhất, tôi không nghĩ vậy. “Anh không nên ở đây,” tôi nói với người đàn ông. Tôi chỉ vào ô cửa phía sau anh ta. “Trong căn phòng đó.”
Anh ta cau có với tôi. “Cô đang nói cái quái gì vậy?”
“Tôi sẽ gọi cảnh sát,” tôi nói. Tôi bất ngờ về cách mình nói, nỗi sợ hãi đang dâng lên tột độ. Quá muộn, tôi nhớ ra rằng bình xịt hơi cay mà Heather đưa cho tôi ở trong túi của tôi, ở văn phòng. Tôi quay lưng bỏ đi.
“Chờ đã,” người đàn ông nói sau tôi. “Tôi đang ở đây. Hoàn toàn hợp pháp. Tôi có chìa khóa và mọi thứ.” Có tiếng leng keng, và tôi quay lại thì thấy anh ta đang giơ một chiếc quai da quen thuộc với chiếc chìa khóa lủng lẳng trên đó.
Tôi tạm dừng. “Anh tên là gì?”
“Nick Harkness.”
“Anh không có tên trong sổ đăng kí.”
“Tôi chưa bao giờ ký vào sổ đăng kí. Điều đó cũng hợp pháp.” Anh cất chìa khóa và thò tay vào túi sau. “Cô muốn kiểm tra tôi? Đây.” Anh ta rút ví và ném nó xuống đất giữa chúng tôi, nơi nó tạo ra một âm thanh nặng nề trên nền bê tông. “Thẻ căn cước của tôi, tất cả mọi thứ,” anh nói. “Tôi không có ý làm khó cô.”
Tôi tạm dừng. Có phải là một sai lầm khi cúi xuống và nhặt ví? Mọi người đều biết một kẻ giết người hàng loạt có thể tấn công bạn trong một khoảnh khắc lơ là. Tôi hướng chiếc ví về phía mình và nắm lấy nó nhanh nhất có thể. Căn cước của anh ta ở trong đó, như đã nói trước. Anh ta cũng có sáu mươi đô-la.
“Được rồi,” tôi nói, chủ yếu là nói với bản thân. Tôi nhắm mắt và xoa sống mũi bên dưới cặp kính của mình. “Đúng, được, tốt. Điều này nằm trong tầm kiểm soát.”
Nick Harkness theo dõi tôi, nhưng anh ấy không di chuyển. “Cô không sao chứ?” anh ta hỏi.
“Chắc chắn rồi, tôi thấy ổn,” tôi nói. “Tôi ổn mà. Tôi là nhân viên trực đêm.”
Nick chớp chớp đôi mắt xanh đầy vẻ ngờ vực. Tôi nhớ rằng tôi đã mặc áo khoác và tôi chưa mặc áo vest màu xanh lam. “Cô là nhân viên trực đêm,” anh ta nói. Đó không phải là một câu hỏi.
“Đúng vậy. Xin lỗi về tiếng ồn. Tôi không biết là anh đang ngủ.”
“Cô không nghĩ rằng cô có thể khiến người khác mất ngủ bằng cách đập cửa vào nửa đêm à!?”
Anh ta nói với giọng chầm chậm đầy mỉa mai, và tôi muốn ném chiếc ví ngu ngốc vào đầu anh ta. Có thứ gì đó đã mở và đóng sầm cửa lại, đồ ngốc, và tôi đã có một đêm kinh hoàng. Nhưng tôi không thể nổi điên lên khi nhìn lại anh ta, đứng đó trong cái lạnh tháng Mười một mà trên người có độc cái áo phông. Một cái gì đó về khuôn mặt anh ta. Đó là một khuôn mặt ưa nhìn. Trông cũng khá mệt mỏi, cứ như thể anh ấy ngủ ít như tôi vậy. Tôi nói với anh ta: “Anh có thể cố gắng đừng làm phiền tôi, tôi chỉ đang làm công việc của mình.”
Một thớ cơ vằn lên ở quai hàm, và anh ta nhìn đi chỗ khác.
“Những cánh cửa,” tôi nói. “Mà, anh có nhận thấy bất kỳ vấn đề với chúng không?” Khi anh ấy vẫn không nói gì, tôi nói tiếp: “Chúng cứ mở ra và đóng lại, tôi nghĩ vậy… Nó thực sự rất kỳ lạ.”
Bây giờ tôi cảm thấy buồn tẻ và bất an, nhưng anh ta dường như không nhận ra. Anh vẫn ngoảnh mặt đi và lơ đãng gãi bụng. Động tác đó khiến áo phông của anh ta được nâng lên. Dưới lớp áo phông, bụng anh rất phẳng. “Chúa ơi,” anh gần như nói với chính mình.
“Đúng vậy,” tôi nói. “Anh đang ngủ. Ví của anh đây. Tôi sẽ đi.”
“Cô là người mới ở đây à?” Anh ta hỏi, không với tay để lấy chiếc ví mà tôi đưa ra.
“Đại loại vậy.” “Cô là người mới,” Nick Harkness nói. Anh bỏ tay xuống bụng và chiếc áo lại phủ xuống. “Chúa ơi, tôi không nghĩ rằng họ thực sự thuê được một ai đó. Người cuối cùng đã rời đi vào vài tuần trước, và Chris thậm chí không bao giờ ra đây. Tôi nghĩ anh ấy đã bỏ cuộc.”
“Đó là tạm thời. Ít nhất thì tôi nghĩ vậy. Anh có… Anh đã ở đây nhiều tuần rồi?”
“Chris và tôi có một kế hoạch.”
“Kế hoạch nào?”
Nick lại ném về phía tôi một ánh mắt nữa – anh ấy giỏi việc đó – và nói: “Một sự sắp xếp để tôi ở lại đây và gọi cảnh sát nếu có rắc rối, và anh ta để tôi yên. Như vậy đã đủ chi tiết cho cô chưa?”
Chúa ơi. Bây giờ tôi thực sự đã quăng chiếc ví, làm rơi nó xuống sàn như cách anh ấy đã làm với tôi. “Chà, ai đó có thể nói với tôi thay vì làm tôi sợ hãi,” tôi nói. “Nó sẽ rất tốt. Tôi có thể hiểu tại sao anh lại ở đây một mình. Chúc anh một buổi tối vui vẻ.”
Tôi quay lại, nhưng anh ấy đã gọi theo tôi. “Hãy để tôi cho cô một lời khuyên, nhân viên trực đêm mới. Nếu cô nghĩ rằng cô nghe thấy tiếng cửa ở đây, đừng đến và sửa nó. Ở trong văn phòng và đừng ra ngoài. Trên thực tế, đừng ra khỏi văn phòng vì bất cứ điều gì. Chỉ cần đóng cửa và ngồi đó cho đến khi hết giờ. Được chứ?”
Tôi quay lại để nói với anh ấy rằng anh ấy thật thô lỗ, rằng điều đó là không đáng có, rằng anh ấy không nên đối xử với mọi người theo cách đó. Nhưng trong một giây, tôi có thể nhìn thấy anh ta đi vào phòng của mình. Lời nói đó ngừng lại trong cổ họng tôi. Tôi chỉ nhìn chằm chằm.
Anh ấy không nhận thấy. “Được rồi, đi đi,” anh ta nói với tôi. “Đi đi.”
Tôi quay lại và đi xuống cầu thang, đôi tay tê cứng của tôi nắm chặt tay vịn để không bị vấp ngã trên đường đi xuống. Mắt tôi ngấn nước vì lạnh, máu chảy rần rật trong huyết quản.
Có hai điều cứ luẩn quẩn trong đầu tôi khi tôi quay trở lại văn phòng: Một, anh ta biết về những cánh cửa. Anh ta biết.
Và hai, khi tôi nhìn thấy anh ta vào phòng, tôi đã thấy một chiếc giường, một chiếc tivi, một ngọn đèn sáng. Chiếc giường đã được dọn, nhưng chiếc gối có một vết lõm, như thể anh ấy đang nằm ở đó.
Và trên tủ đầu giường là một khẩu súng, lấp lánh trong ánh đèn. Như thể ai vừa đặt nó xuống đó và anh ta đã cầm nó trước khi ra mở cửa.