Fensmore
Gần Chatteris
Cambridgeshire
Mùa thu năm 1824
T
iểu thư Sarah Pleinsworth, người kỳ cựu của ba mùa vũ hội không thành công ở Luân Đôn, nhìn quanh phòng khách của người sắp thành anh họ mình và tuyên bố, “Chị mắc bệnh dịch đám cưới rồi.”
Bạn đồng hành của cô là ba em gái, Harriet, Elizabeth, và Frances, những người mà - ở tuổi mười sáu, mười bốn, và mười một - chưa phải lo về viễn cảnh hôn nhân. Tuy vậy, người ta cứ nghĩ họ sẽ tỏ ra đôi chút thông cảm.
Đấy là nghĩ thôi, nếu họ không quen các tiểu thư nhà Pleinsworth.
“Chị kịch quá đấy”, Harriet đáp lại, liếc mắt nhìn Sarah một cái trước khi nhúng bút vào mực và tiếp tục viết.
Sarah chậm rãi quay về hướng cô bé. “Em đang viết một vở kịch về Henry VIII và ngựa một sừng, thế mà em lại bảo chị quá kịch sao?”
“Đó là một câu trào phúng”, Harriet đáp lại.
“Trào phúng là gì ạ?”, Frances xen vào. “Nó có giống thần rừng1 không?”
1 “Trào phúng” (satire) và “thần rừng” (satyr) phát âm gần giống nhau trong tiếng Anh.
Mắt Elizabeth mở to sung sướng. “Có!”, cô bé kêu lên. “Elizabeth!”, Harriet quát.
Frances nheo mắt nhìn Elizabeth. “Không giống đúng không?”
“Giống chứ”, Elizabeth trả miếng, “cân nhắc đến việc em đã bắt chị ấy đưa một con ngựa một sừng chết tiệt2 vào truyện”.
2 Nguyên văn là “Bloody”: vừa có nghĩa là “đổ máu” và cũng thường được dùng trong câu chửi thề.
“Elizabeth!” Sarah không thật sự để ý việc em gái cô vừa chửi thề, nhưng là chị cả trong gia đình, cô biết mình nên để ý mới đúng. Hay ít nhất thì cũng phải giả vờ là có.
“Em có chửi thề đâu”, Elizabeth phản đối. “Chỉ đang suy tư thôi.”
Cả phòng chìm vào sự im lặng bối rối.
“Nếu con ngựa một sừng chảy máu”, Elizabeth giải thích, “thì ít nhất vở kịch cũng có khả năng sẽ trở nên thú vị”.
Frances thở dốc. “Ôi, Harriet! Chị sẽ không làm ngựa một sừng bị thương chứ?”
Harriet lấy tay che vở kịch. “À, không nặng đâu.”
Tiếng thở dốc của Frances biến thành tiếng kêu kinh hãi. “Harriet!”
“Liệu có khả năng bị mắc bệnh dịch đám cưới thật sao?” Harriet hỏi to, quay lại với Sarah. “Và nếu thế thật thì chỉ hai đám cưới có được tính không?”
“Có chứ”, Sarah đáp lại một cách buồn rầu, “nếu chúng chỉ cách nhau có một tuần, và nếu người ta tình cờ lại có họ hàng với cô dâu đám này và chú rể đám khác, và đặc biệt là nếu người ta còn bị ép phải làm phù dâu ở một đám cưới mà...”.
“Chị chỉ phải làm phù dâu có một lần thôi”, Elizabeth cắt ngang.
“Một là quá đủ”, Sarah lầm bầm. Không nên ép buộc một người đi vào lễ đường với một bó hoa trừ phi người đó là cô dâu, đã từng là cô dâu, hoặc quá nhỏ để làm cô dâu. Còn lại thì đúng là tàn nhẫn.
“Em nghĩ việc Honoria nhờ chị làm phù dâu là một điều thật thiêng liêng”, Frances bộc bạch. “Thật là lãng mạn. Harriet, chị có thể viết một cảnh như thế vào trong vở kịch của chị đấy.”
“Đó là một ý hay”, Harriet đáp lại. “Chị có thể giới thiệu một nhân vật mới. Chị sẽ để cô gái đó trông giống Sarah.” Sarah thậm chí còn chẳng thèm quay về phía cô bé.
“Làm ơn đừng.”
“Không, sẽ cực kỳ vui cho xem”, Harriet khăng khăng. “Một món ngon đặc biệt cho ba chúng ta.”
“Bốn chúng ta chứ”, Elizabeth nói. “À phải rồi. Xin lỗi, chị nghĩ thật ra mình vừa quên Sarah.” Sarah thấy không đáng phải bình luận về điều đó, nhưng cô vẫn cong môi.
“Điểm chính em muốn nói là”, Harriet tiếp tục, “chúng ta sẽ luôn nhớ rằng chúng ta ở đây cùng với nhau khi nhớ đến nó”.
“Chị có thể để cho cô ta trông giống em”, Frances nói đầy hy vọng.
“Không, không”, Harriet gạt đi. “Bây giờ đã quá muộn để thay đổi rồi. Nó đã đóng đinh trong đầu chị rồi. Nhân vật mới phải trông giống Sarah. Để chị xem nào...” Cô bé bắt đầu ngoáy bút điên cuồng. “Tóc đen dày, hơi xoăn.”
“Đôi mắt đen, sâu không đáy”, Frances nói thêm như hụt hơi. “Chúng nhất định phải sâu không đáy.”
“Phảng phất vẻ điên rồ”, Elizabeth nói. Sarah quay phắt lại đối diện với cô bé.
“Em chỉ góp ý thôi mà”, Elizabeth lầm bầm. “Và chắc chắn là em đang nhìn thấy vẻ điên rồ đó đây.” “Chị cũng nghĩ vậy”, Sarah trả miếng.
“Không quá cao, không quá lùn”, Harriet nói, vẫn viết tiếp. Elizabeth cười toét miệng và ê a. “Không quá gầy, không quá béo.”
“À à à, em cũng có đây!”, Frances kêu lên, gần như nhảy dọc ghế sô pha. “Không quá hồng, không quá xanh.”
Điều đó làm cuộc trò chuyện ngưng bặt. “Em nói gì thế?”, cuối cùng Sarah gắng gượng hỏi.
“Chị không dễ xấu hổ”, Frances giải thích, “nên chị cực kỳ hiếm khi đỏ mặt. Và em chỉ nhìn thấy chị nôn có một lần, và đó là lúc tất cả chúng ta ăn món cá thiu ở Brighton”.
“Ra màu xanh là như thế”, Harriet nói tán thưởng. “Giỏi lắm, Frances. Cực kỳ thông minh. Đúng là người ta trở nên xanh xao khi buồn nôn. Chị tự hỏi vì sao lại thế nhỉ.”
“Mật”, Elizabeth nói.
“Chúng ta phải nói về chuyện này sao?”, Sarah băn khoăn.
“Em không biết vì sao chị lại có tâm trạng khó chịu như thế nữa”, Harriet nói.
“Chị có ở trong tâm trạng khó chịu đâu.” “Chị không ở trong tâm trạng dễ chịu đâu.”
Sarah chẳng thèm cãi lại.
“Nếu em mà là chị”, Harriet nói, “thì em sẽ lâng lâng. Chị được đi vào lễ đường đấy”.
“Chị biết.” Sarah ngả phịch vào ghế sô pha, tiếng than vãn của cô rõ ràng là quá mạnh mẽ để cô có thể ngồi thẳng.
Frances đứng dậy và đi tới bên cạnh cô, nhìn xuống qua lưng ghế sô pha. “Chị không muốn đi vào lễ đường à?” Trông cô bé như con chim sẻ nhỏ đang lo lắng, đầu nghiêng sang bên này rồi bên kia như một chú chim thực thụ.
“Không hẳn”, Sarah đáp lại. Ít nhất, nếu là đám cưới của cô thì không sao. Nhưng khó có thể nói chuyện này với các em gái của cô được, khoảng cách tuổi tác giữa họ quá lớn, và có những chuyện mà người ta chẳng thể chia sẻ với một đứa trẻ mười một tuổi.
Mẹ họ đã mất ba đứa con giữa Sarah và Harriet - hai lần sảy thai và một lần là khi em trai của Sarah, đứa con trai duy nhất của nhà Pleinsworth, chết trong nôi trước khi được ba tháng tuổi. Sarah chắc chắn rằng cha mẹ họ thất vọng vì không có con trai, nhưng họ cũng chẳng bao giờ than vãn. Khi nói chuyện về việc tước hiệu được chuyển cho em họ William của Sarah thì họ cũng chẳng càu nhàu gì hết. Có vẻ họ chấp nhận sự thật đó. Đã có lần họ nói đến việc Sarah cưới William, để “giữ tất cả trong gia đình” (như mẹ cô đã nói), nhưng William nhỏ hơn Sarah ba tuổi. Ở tuổi mười tám, cậu mới bước chân vào Oxford và chắc chắn sẽ không kết hôn trong vòng năm năm tới.
Và không đời nào có chuyện Sarah sẽ chờ năm năm.
Còn lâu mới có chuyện đó. Còn lâu lâu lâu... “Sarah!”
Cô ngẩng lên. Vừa kịp lúc. Elizabeth có vẻ đang chuẩn bị ném một tập thơ về phía cô.
“Đừng có làm thế”, Sarah cảnh báo.
Elizabeth khẽ nhăn nhó thất vọng và hạ quyển sách xuống. “Em vừa hỏi”, cô bé nhắc lại (rõ ràng là thế), “chị có biết liệu tất cả các vị khách có tới hay không”.
“Chị nghĩ vậy”, Sarah đáp lại, mặc dù nói thực lòng thì cô cũng chẳng rõ nữa. “Chị thật sự không dám chắc về những người ở trong làng.” Chị họ Honoria Smythe-Smith của họ sẽ cưới Bá tước Chatteris vào sáng hôm sau. Buổi lễ được tổ chức ở Fensmore này, dinh thự tổ tiên của dòng họ Chatteris ở phía bắc Cambridgeshire. Nhưng đến cả dinh thự tráng lệ của ngài Chatteris cũng không thể chứa toàn bộ những vị khách đến từ Luân Đôn, vài người đã bị buộc phải thuê phòng ở các nhà trọ địa phương.
Là người trong gia đình, nhà Pleinsworth là những người đầu tiên được xếp phòng ở Fensmore, và họ đã đến trước một tuần để giúp chuẩn bị. Hoặc nói chính xác hơn, mẹ họ giúp chuẩn bị. Sarah được giao nhiệm vụ trông nom các em gái để tránh xa rắc rối.
Một công việc chẳng dễ dàng gì.
Thường thì nữ gia sư của họ đảm nhận việc này, cho phép Sarah làm trọn bổn phận phù dâu của Honoria, nhưng tình cờ thay, nữ gia sư (trước) của họ sẽ kết hôn sau hai tuần nữa.
Với anh trai của Honoria.
Điều đó có nghĩa là khi hôn lễ của Chatteris với Smythe- Smith kết thúc, Sarah (cùng với nửa Luân Đôn) sẽ di chuyển từ Fensmore xuống Whipple Hill, ở Berkshire, để tham dự hôn lễ giữa Daniel Smythe-Smith và cô Anne Wynter. Vì Daniel cũng là một bá tước, đó sẽ là một sự kiện long trọng.
Cũng như đám cưới của Honoria sẽ là một sự kiện long trọng.
Hai sự kiện long trọng. Hai cơ hội huy hoàng cho Sarah khiêu vũ, nô đùa, và nhận thức một cách đau đớn rằng cô không phải là một trong số hai cô dâu.
Cô chỉ muốn kết hôn mà thôi. Điều đó thảm thương lắm sao?
Không, cô nghĩ thầm, thẳng sống lưng lên (nhưng không đến mức cô phải ngồi hẳn dậy). Tìm một người chồng và làm vợ là tất cả những gì cô đã được dạy dỗ, ngoài việc chơi piano trong dàn tứ tấu Smythe-Smith khét tiếng.
Nghĩ kỹ thì đó cũng là một phần lý do cô tuyệt vọng muốn kết hôn đến vậy.
Mỗi năm, như bộ máy đồng hồ, bốn chị em chưa chồng lớn tuổi nhất dòng họ Smythe-Smith sẽ bị buộc phải tập trung tài năng âm nhạc kém cỏi của họ lại và chơi trong một tứ tấu.
Và biểu diễn.
Trước người thực. Những người không bị điếc.
Đó là địa ngục. Sarah không thể nghĩ ra một từ nào miêu tả tốt hơn được nữa. Cô khá chắc chắn là từ thích hợp chưa được tạo ra.
Âm thanh phát ra từ nhạc cụ của chị em nhà Smythe- Smith cũng chỉ có thể được mô tả bằng những từ chưa được tạo ra. Nhưng vì một lý do nào đó, tất cả những bà mẹ của nhà Smythe-Smith (bao gồm cả mẹ của Sarah, người được sinh ra là con gái nhà Smythe-Smith, dù giờ bà mang họ Pleinsworth) ngồi ở hàng ghế đầu tiên với nụ cười hạnh phúc trên mặt, vững tin một cách điên rồ rằng con gái họ có tài năng âm nhạc. Và các khán giả khác...
Đó là một bí ẩn.
Vì sao lại có “những khán giả khác nhỉ”? Sarah chẳng bao giờ có thể hiểu được điều đó. Chắc chắn người ta chỉ cần dự một lần là có thể nhận ra rằng những buổi hòa nhạc của nhà Smythe-Smith sẽ không có gì tốt đẹp hết. Nhưng Sarah đã nghiên cứu các danh sách khách mời, có những người năm nào cũng đến. Họ nghĩ gì vậy nhỉ? Họ phải biết rằng họ sẽ tự đưa mình vào một màn tra tấn thính giác chứ.
Rõ ràng đã có từ tạo ra để mô tả điều đó.
Cách duy nhất mà một cô gái Smythe-Smith được giải phóng khỏi tứ tấu Smythe-Smith là kết hôn. À, cả giả vờ ốm sắp chết nữa, nhưng Sarah đã làm thế một lần rồi, và cô không nghĩ là nó sẽ có tác dụng lần hai.
Hoặc người ta có thể sinh con trai. Họ không cần phải học chơi nhạc cụ và hy sinh lòng kiêu hãnh của họ bằng cách bị bẽ mặt công khai.
Điều đó thật sự không công bằng.
Nhưng quay lại chuyện hôn nhân. Ba mùa lễ hội của cô ở Luân Đôn không hoàn toàn là thất bại. Mới mùa hè trước, hai quý ông đã cầu hôn cô. Và dù biết trước là khiến mình phải chơi đàn thêm một năm nữa, cô vẫn từ chối cả hai người họ.
Cô không cần đam mê điên rồ, hư hỏng. Cô quá thực tế để tin rằng ai cũng tìm thấy tình yêu thực sự - hay ai cũng có tình yêu thật sự. Nhưng một tiểu thư hai mốt tuổi không nên bị ép cưới một người đàn ông sáu mươi ba.
Lời cầu hôn còn lại... Sarah thở dài. Quý ông đó là một người nhã nhặn hiếm gặp, nhưng mỗi lần anh ta đếm tới hai mươi (và có vẻ như anh ta làm vậy cực kỳ thường xuyên), anh ta lại bỏ qua số mười hai.
Sarah không cần cưới một thiên tài, nhưng hy vọng có một người chồng biết đếm có gì quá đáng sao?
“Kết hôn”, cô tự nhủ với mình.
“Gì thế?”, Frances hỏi, vẫn nhìn cô từ sau lưng ghế. Harriet và Elizabeth còn mê mải làm việc của mình, mừng thay, bởi vì Sarah không cần một khán giả lớn hơn mười một tuổi khi tuyên bố:
“Năm nay chị phải kết hôn. Nếu không thì chị tin rằng mình sẽ chết mất.”
Huge Prentice thoáng dừng lại ở cửa phòng khách, rồi lắc đầu và đi tiếp. Sarah Pleinsworth, nếu tai anh không nghe nhầm, và thường thì chúng rất chuẩn.
Thêm một lý do mà anh không muốn dự đám cưới này. Hugh luôn là một linh hồn cô độc, và có rất ít người anh thích chủ động bầu bạn cùng. Nhưng đồng thời, cũng chẳng có mấy người mà anh tránh mặt.
Cha anh, tất nhiên rồi. Những kẻ sát nhân bị kết án. Và tiểu thư Sarah Pleinsworth.
Dù cho buổi gặp đầu tiên của họ không phải là một thảm họa điên rồ đến mức làm người ta mụ mẫm, thì họ cũng sẽ chẳng bao giờ là bạn bè được. Sarah Pleinsworth là một trong những cô nàng kệch cỡm thích cường điệu và khoa trương. Hugh không thường xuyên nghiên cứu lối nói của người khác, nhưng khi tiểu thư Sarah lên tiếng thì thật khó mà lờ cô đi cho được.
Cô dùng quá nhiều trạng ngữ. Và câu cảm thán.
Thêm vào đó, cô căm ghét anh. Điều này không phải do anh phỏng đoán. Anh đã nghe cô thốt ra điều đó. Mà nó cũng chẳng khiến anh phiền lòng: anh cũng chẳng quan tâm đến cô. Anh chỉ ước cô học được cách im lặng.
Như lúc này. Cô ta sẽ chết nếu không kết hôn trong năm nay. Đùa chắc.
Hugh khẽ lắc đầu. Ít nhất thì anh sẽ không phải tham dự cái đám cưới đấy.
Anh suýt nữa cũng đã thoát được đám cưới này. Nhưng Daniel Smythe-Smith đã khăng khăng bắt anh dự, và khi Hugh chỉ ra rằng đây thậm chí còn chẳng phải là đám cưới của anh ta, Daniel đã dựa vào ghế và nói rằng đây là đám cưới em gái anh ta, và nếu họ định thuyết phục xã hội thượng lưu tin rằng họ đã bỏ qua hiểu nhầm, thì tốt nhất Hugh nên xuất hiện với một nụ cười trên mặt.
Đó chẳng phải là một lời mời lịch thiệp, nhưng Hugh không để ý. Anh thích người ta cứ nói thẳng những gì họ nghĩ. Nhưng Daniel nói đúng. Trong trường hợp này, sự có mặt của anh rất quan trọng.
Ba năm rưỡi trước một vụ tai tiếng ầm ĩ đã nổ ra khi hai người họ đấu súng. Daniel buộc phải trốn khỏi đất nước, và Hugh phải dành trọn một năm để tập đi. Thêm một năm nữa để Hugh cố thuyết phục cha mình để yên cho Daniel, rồi một năm nữa cố tìm được Daniel sau khi Hugh tìm ra cách bắt cha mình gọi những tên do thám cùng sát thủ của ông về và để yên mọi việc.
Do thám và sát thủ. Cuộc sống của anh thật sự đã trở nên kệch cỡm đến mức đó sao? Đến mức anh có thể nghĩ đến từ do thám cùng sát thủ và thấy chúng có liên hệ với đời mình?
Hugh thở dài. Anh đã chế ngự được cha mình, tìm được Daniel Smythe-Smith, và đưa anh ta trở lại Anh quốc. Giờ Daniel sắp kết hôn và sẽ sống hạnh phúc mãi mãi, tất cả sẽ trở lại như nó nên thế.
Cho tất cả mọi người trừ Hugh.
Anh nhìn xuống chân mình. Cũng công bằng thôi. Anh là người đã khơi mào tất cả. Anh nên là người chịu hậu quả vĩnh viễn.
Nhưng chết tiệt, hôm nay nó quá đau. Anh đã ngồi mười một tiếng đồng hồ trên xe ngựa ngày hôm qua, và anh vẫn còn cảm nhận được di chứng của nó.
Anh thật sự không hiểu vì sao mình cần phải hiện diện ở đám cưới này. Chắc chắn rằng sự có mặt của anh ở lễ cưới của Daniel cuối tháng là đủ để thuyết phục xã hội thượng lưu tin rằng trận chiến giữa Hugh và Daniel đã là quá khứ rồi chứ.
Hugh không mấy tự hào khi thú nhận rằng ít nhất thì trong trường hợp này, anh quan tâm đến những gì xã hội nghĩ. Anh chẳng để ý khi người ta gọi anh là kẻ dị hợm, giỏi chơi bài hơn đối nhân xử thế. Cũng như anh chẳng bận tâm khi nghe thấy một mệnh phụ nói với người khác rằng bà ta thấy anh hết sức kỳ quặc, và bà ta sẽ không cho phép con gái mình xem anh ta là một người theo đuổi thích hợp - đấy là nếu con gái bà ta có hứng thú với anh, một điều mà như bà ta nói một cách mạnh mẽ, sẽ không bao giờ xảy ra.
Hugh không để ý đến điều đó, nhưng anh vẫn nhớ. Từng từ một.
Dẫu vậy, điều khiến anh bận lòng là bị xem như kẻ xấu. Người ta nghĩ rằng anh muốn giết Daniel Smythe-Smith, hay anh thấy vui sướng khi anh ta bị ép rời khỏi đất nước... Điều này thì Hugh không sao chịu nổi. Và nếu cách duy nhất để hồi phục danh dự của anh là bảo đảm cả xã hội biết rằng Daniel đã tha thứ cho anh thì Hugh sẽ tham dự đám cưới này, và bất kỳ sự kiện nào khác mà Daniel cho là thích hợp.
“Ôi, ngài Hugh!”
Hugh dừng lại trước một giọng nữ quen thuộc. Là cô dâu, tiểu thư Honoria Smythe-Smith, sẽ sớm trở thành phu nhân Chatteris. Sau hai mươi ba tiếng nữa, nếu buổi lễ bắt đầu đúng giờ, một điều mà Hugh không mấy tin tưởng. Anh ngạc nhiên vì cô có thể đi lại bình thường thế này. Không phải các cô dâu sẽ được vây quanh bởi bạn bè và họ hàng nữ, nhặng xị về những sự kiện vào phút cuối cùng sao?
“Tiểu thư Honoria”, anh nói, đổi vị trí nắm gậy để có thể cúi chào.
“Tôi rất mừng vì ngài có thể tham dự đám cưới”, cô ta nói. Hugh nhìn chằm chằm vào đôi mắt màu xanh dương nhạt của cô ta một giây lâu hơn cần thiết. Anh khá chắc chắn là cô ta thật lòng.
“Cảm ơn cô”, anh nói. Rồi anh nói dối. “Tôi rất vui khi được ở đây.”
Cô ta cười rạng rỡ làm cả khuôn mặt sáng bừng theo kiểu mà chỉ có thể là niềm hạnh phúc thật sự. Hugh không ảo tưởng rằng anh khiến cô ta thấy vui. Tất cả những gì anh đã làm là nói một câu xã giao và tránh làm bất kỳ việc gì có thể kéo cô ta ra khỏi trạng thái vui sướng mà đám cưới mang lại.
Một phép toán đơn giản.
“Ngài thích bữa sáng chứ?”, cô ta hỏi.
Anh có cảm giác rằng cô ta không giữ anh lại để hỏi về bữa sáng của anh, nhưng vì quá rõ ràng là anh vừa mới ăn sáng, anh đáp lại, “Rất thích. Tôi phải khen ngợi ngài Chatteris vì đầu bếp của ngài ấy.”
“Rất cảm ơn ngài. Đây là sự kiện lớn nhất được tổ chức ở Fensmore nhiều thập kỷ nay, người hầu hơi hoảng loạn vì lo sợ. Và cả sung sướng nữa.” Honoria mím môi lại một cách ngượng ngùng. “Nhưng chủ yếu là lo sợ.”
Vì không có gì để nói thêm nên anh chờ cô ta tiếp tục. Cô ta không làm anh thất vọng. “Tôi đang hy vọng có thể nhờ ngài một việc.”
Hugh không tài nào đoán được là điều gì, nhưng cô ta là cô dâu, và nếu cô ta yêu cầu anh trồng cây chuối thì anh hiểu rằng mình vẫn phải cố gắng làm thôi.
“Anh họ Arthur của tôi bị ốm”, cô ta nói, “và anh ấy sẽ ngồi ở bàn chính ở bữa sáng đám cưới”.
Ôi, không. Không, cô ta sẽ không bắt anh...
“Chúng tôi cần một quý ông khác, và...” Rõ ràng là cô ta sẽ làm vậy rồi.
“... và tôi đang hy vọng đó có thể là ngài. Sẽ rất có ích để khiến mọi thứ...” Cô ta nuốt nước bọt, mắt nhìn lên trần nhà trong giây lát khi cố tìm đúng từ để nói. “Để khiến mọi thứ ổn thỏa. Hay ít nhất thì cũng có vẻ ổn thỏa.”
Anh nhìn cô ta chằm chằm trong giây lát. Tim anh cũng không trùng xuống, nó hay co thắt một cách hoảng loạn hơn, nhưng sự thật là, tim anh chẳng có phản ứng gì. Không có lý do gì để sợ bị ép ngồi ở bàn chính, nhưng có cả đống lý do để căm ghét điều đó.
“Không phải là nó không ổn”, cô ta hấp tấp nói. “Đối với tôi - và cả mẹ tôi nữa, tôi có thể chắc chắn về điều đó - chúng tôi vô cùng kính trọng ngài. Chúng tôi biết rằng... Tôi muốn nói là, Daniel đã kể cho chúng tôi việc ngài làm.”
Anh nhìn cô ta một cách chăm chú. Chính xác thì Daniel đã nói gì chứ.
“Tôi biết rằng anh ấy sẽ không có mặt ở Anh quốc này nếu ngài không tìm kiếm anh ấy, và tôi vô cùng biết ơn điều đó.”
Cô ta mỉm cười một cách bình thản. “Một người cực kỳ thông thái đã từng bảo với tôi rằng tính cách của chúng ta không bộc lộ qua những sai lầm chúng ta phạm phải mà qua những gì chúng ta làm để sửa chữa chúng.”
“Một người cực kỳ thông thái ư?”, anh lầm bầm.
“Được rồi, đó là mẹ tôi”, cô ta nói với nụ cười bẽn lẽn, “Và tôi muốn cho ngài biết rằng bà nói với Daniel điều đó nhiều hơn với tôi, nhưng tôi đã nhận ra rằng - và tôi hy vọng anh Daniel cũng vậy - điều đó là sự thật.”
“Tôi tin rằng ngài ấy đã nhận ra”, Hugh dịu dàng nói. “Được rồi”, Honoria đáp, nhanh chóng thay đổi cả chủ đề lẫn tâm trạng, “ngài nghĩ sao? Ngài sẽ ngồi cùng tôi ở bàn chính chứ? Ngài sẽ giúp tôi rất nhiều đấy”.
“Tôi sẽ rất vinh dự được thế chỗ của anh họ cô”, anh nói và anh nghĩ đó là sự thật. Anh thà bơi trong tuyết còn hơn ngồi trên một cái bục trước mặt toàn thể khách mời, nhưng đó là một vinh dự.
Mặt cô ta lại sáng bừng lên, niềm hạnh phúc hiển hiện rõ ràng. Đám cưới khiến con người ta như vậy sao?
“Cảm ơn ngài rất nhiều”, cô ta nói với vẻ nhẹ nhõm rõ rệt. “Nếu ngài từ chối thì tôi sẽ phải nhờ một anh họ khác của tôi, Rupert, và...”
“Cô còn một anh họ khác sao? Một người mà cô bỏ qua vì tôi?” Hugh có thể chẳng quan tâm đến tỷ tỷ những quy tắc và luật lệ của giới thượng lưu, nhưng điều đó không có nghĩa là anh không biết chúng là gì.
“Anh ấy kinh khủng lắm”, cô ta thì thầm rõ to. “Nói thật, anh ấy khiếp lắm, và anh ấy ăn quá nhiều hành.”
“À nếu thế thì cũng dễ hiểu”, Hugh lầm bầm.
“Với cả”, Honoria tiếp tục, “anh ấy và Sarah không hợp”. Hugh luôn suy xét câu chữ của mình trước khi nói ra, nhưng đến cả anh cũng không thể ngăn mình không thốt ra phân nửa câu “Tôi cũng không hợp với tiểu thư Sarah” trước khi ngậm chặt miệng lại.
“Xin lỗi?”, Honoria hỏi.
Hugh ép cằm mình thả lỏng. “Tôi không thấy có vấn đề gì cả”, anh nói khó chịu. Chúa lòng lành, anh sẽ phải ngồi với tiểu thư Sarah Pleinsworth. Làm sao Honoria Smythe- Smith có thể không nhận ra đó là một ý kiến tồi tệ đến mức nào được nhỉ?
“Ôi, cảm ơn ngài, ngài Hugh”, Honoria nói một cách nồng nàn. “Tôi rất biết ơn sự linh hoạt của ngài trong vấn đề này. Nếu tôi xếp họ ngồi cạnh nhau - vì sẽ không còn chỗ khác để anh ấy ngồi ở bàn chính nữa, tin tôi đi, tôi đã xem rồi - thì chỉ có trời mới biết họ sẽ cãi nhau vì chuyện gì nữa.”
“Tiểu thư Sarah?”, Hugh lầm bầm. “Cãi nhau à?”
“Tôi hiểu”, Honoria đồng tình, hoàn toàn hiểu nhầm ý của anh. “Khó tưởng tượng lắm đúng không. Chúng tôi chẳng bao giờ cãi nhau. Cô ấy có óc hài hước tuyệt vời.”
Hugh không bình luận gì.
Honoria cười tươi rói với anh. “Cảm ơn ngài lần nữa. Ngài giúp tôi nhiều lắm.”
“Làm sao tôi có thể từ chối đây?”
Mắt cô nheo lại trong giây lát, nhưng có vẻ như cô không phát hiện ra ý mỉa mai, điều đó cũng dễ hiểu, vì chính Hugh cũng không biết mình có mỉa mai không nữa.
“Ừm”, Honoria nói, “cảm ơn ngài. Tôi sẽ báo với Sarah”. “Cô ấy đang ở trong phòng khách”, anh nói. Honoria nhìn anh một cách tò mò, nên anh nói thêm, “tôi đã nghe thấy cô ấy nói chuyện khi đi ngang qua”.
Honoria tiếp tục cau mày, nên anh nói thêm, “cô ấy có giọng nói rất đặc trưng”.
“Tôi không nhận thấy đấy”, Honoria lầm bầm.
Hugh quyết định rằng đây là thời điểm tuyệt vời để ngậm miệng và rời đi.
Dẫu vậy, Honoria lại có kế hoạch khác. “Hừm”, cô tuyên bố, “nếu cô ấy ở ngay đấy thì sao ngài không đi cùng tôi và chúng ta sẽ báo tin mừng cho cô ấy nhỉ”.
Đó là điều cuối cùng anh mong muốn, nhưng rồi cô ta mỉm cười với anh và anh nhớ ra, Cô ấy là cô dâu. Và anh đi theo.
Trong những cuốn tiểu thuyết mộng mơ - loại tiểu thuyết mà Sarah đọc hàng tá và không hề hối hận - điềm báo được tô đậm bởi cả xô màu chứ không chỉ vài nét cọ. Nữ chính sẽ đưa tay lên trán và nói một điều gì đó như thế này, “Ôi, giá mà tôi có thể tìm thấy một quý ông bỏ qua dòng dõi con hoang và ngón chân cái thừa của tôi!”.
Được rồi, cô chưa tìm được một tác giả nào sẵn lòng cho thêm một ngón chân thừa vào. Nhưng chắc chắn nó sẽ tạo nên một câu chuyện hay ho. Điều đó thì không thể chối cãi được rồi.
Nhưng quay lại với điềm báo nào. Nữ chính sẽ tha thiết cầu khẩn, và rồi, như thể được triệu đến từ một lá bùa cổ, một quý ông sẽ xuất hiện.
Ôi, giá mà tôi có thể tìm được một quý ông. Và rồi anh ta xuất hiện.
Đó là lý do mà, sau khi Sarah đưa ra tuyên bố (phải thú nhận là rất lố bịch) về việc sẽ chết nếu không kết hôn trong năm nay, cô nhìn ra cửa. Bởi vì nói thật, không phải như thế rất thú vị sao?
Không có gì ngạc nhiên, chẳng ai xuất hiện hết.
“Hừm”, cô hừm. “Đến cả thần văn học cũng hết hy vọng vào chị.”
“Chị vừa nói gì à?”, Harriet hỏi.
“Ôi, giá mà mình có thể tìm được một quý ông”, cô lầm bầm một mình, “người làm tôi khổ sở và chọc tức tôi đến tận cuối đời”.
Và sau đó.
Tất nhiên.
Ngài Hugh Prentice.
Chúa trên cao, chẳng lẽ nỗi khổ sở của cô không có hồi kết sao?
“Sarah!”, giọng nói vui vẻ của Honoria vọng đến khi cô dâu bước đến cạnh anh ta ở cửa. “Chị có tin tốt đây.”
Sarah đứng dậy và nhìn chị họ. Rồi cô nhìn Hugh Prentice, người mà, phải nói thật, cô chưa từng quý mến. Rồi cô lại nhìn chị họ. Honoria, người bạn tốt nhất trần đời của cô. Và cô biết rằng Honoria (người bạn tốt nhất trần đời của cô nhưng đáng ra phải khôn ngoan hơn) không hề có tin tốt nào hết. Ít nhất không phải tin tốt đối với Sarah.
Hoặc Hugh Prentice, nếu nét mặt của anh ta là dấu hiệu. Nhưng Honoria vẫn tỏa sáng như một cái đèn lồng vui vẻ, sắp cưới và cô ấy gần như bay lên trời khi tuyên bố, “Anh Arthur ốm rồi”.
Elizabeth ngay lập tức hóng hớt. “Đó đúng là tin tốt.” “Thôi nào”, Harriet nói. “Anh ấy không tệ bằng một nửa Rupert đâu.”
“À, cái đó thì không phải là tin tốt”, Honoria nói vội, lo lắng nhìn trộm Hugh, sợ rằng anh sẽ nghĩ họ là một nhóm khát máu mất. “Tin tốt là Sarah đáng ra phải ngồi với Rupert vào ngày mai, nhưng giờ thì không cần nữa.”
Frances thở dốc và lao vụt qua phòng. “Điều đó có nghĩa là em có thể ngồi ở đầu bàn ạ? Ôi, làm ơn nói rằng em có thể thế chỗ anh ấy đi! Em sẽ sướng mê lên được. Đặc biệt là chị sẽ kê cái bàn lên trên bục, phải không? Em sẽ thật sự ở cao hơn tất cả.”
“Ôi, Frances”, Honoria nói, mỉm cười ấm áp nhìn xuống cô bé, “Chị ước gì được như vậy, nhưng em biết là trẻ con không được ngồi ở bàn chính, và đồng thời chúng ta cần một quý ông khác cơ.”
“Là ngài Hugh”, Elizabeth nói.
“Tôi rất vui được phục vụ”, Hugh nói, dù cho Sarah thấy rõ là anh chẳng vui vẻ gì.
“Tôi không thể diễn tả hết sự biết ơn của chúng tôi”, Honoria nói. “Đặc biệt là Sarah.”
Hugh nhìn Sarah.
Sarah nhìn Hugh. Có vẻ anh không thể không nhận ra rằng thực sự thì cô chẳng hề biết ơn tí nào.
Và rồi anh mỉm cười, gã thô lỗ. À, cũng không hẳn là cười. Nó chẳng đáng được gọi là cười nếu ở trên mặt bất kỳ ai khác, nhưng mặt anh ta bình thường sắt đá đến mức một cái giật môi nho nhỏ thôi cũng tương xứng với vẻ hò reo sung sướng ở người khác.
“Tôi chắc chắn sẽ hết sức thích thú khi được ngồi cạnh anh thay vì anh Rupert”, Sarah nói. Nói thích thú thì hơi quá, nhưng Rupert có một hơi thở nặng mùi, nên ít nhất cô cũng tránh được điều đó khi có ngài Hugh ngồi bên cạnh.
“Chắc chắn rồi”, ngài Hugh lặp lại, giọng vừa đều đều lại vừa kéo dài một cách kỳ cục, khiến Sarah cảm thấy đầu mình sắp nổ tung đến nơi. Anh ta đang chế giễu cô đấy à? Hay anh ta chỉ lặp lại từ đó để nhấn mạnh mà thôi? Cô chẳng phân biệt được.
Thêm một dấu hiệu nữa chứng tỏ ngài Hugh Prentice là gã đàn ông đáng ghét nhất Anh quốc. Nếu người ta bị lôi ra chế giễu thì không phải người ta có quyền được biết điều đó sao?
“Ngài không ăn hành sống khi uống trà phải không?”, Sarah lạnh lùng hỏi.
Anh ta mỉm cười. Cũng có thể là không. “Không.” “Vậy thì tôi chắc chắn”, cô nói.
“Sarah?”, Honoria ngập ngừng hỏi.
Sarah quay sang chị họ với một nụ cười rạng rỡ. Cô chưa từng quên được khoảnh khắc điên rồ năm ngoái khi lần đầu tiên gặp ngài Hugh. Anh ta đã chuyển trạng thái từ nóng sang lạnh trong có một cái chớp mắt. Và chết tiệt, nếu anh ta có thể làm được thì cô cũng có thể. “Đám cưới của chị sẽ hoàn hảo”, cô tuyên bố. “Ngài Hugh và em sẽ rất hòa hợp cho mà xem, em chắc chắn đấy.”
Honoria không tin Sarah lấy một giây, dù Sarah cũng chẳng mong đợi cô ấy sẽ tin. Mắt cô ấy nhìn đi nhìn lại giữa Sarah và Hugh khoảng sáu lần trong một giây. “À”, cô ấy lảng tránh, bối rối thấy rõ về sự ngượng nghịu vừa đột ngột xuất hiện. “Ừm.”
Sarah dán chặt nụ cười trên mặt một cách điềm tĩnh. Vì Honoria, cô sẽ cố gắng giữ lịch sự với Hugh Prentice. Vì Honoria, cô thậm chí sẽ mỉm cười với anh ta, cười to trước chuyện đùa của anh ta, giả sử anh ta nói đùa. Tuy vậy, làm sao Honoria có thể không nhận ra Sarah ghét Hugh đến mức nào chứ? À được rồi, cũng không hẳn là ghét. Lòng căm ghét cô sẽ để dành cho ác quỷ thực sự. Ví dụ như Napoleon chẳng hạn. Hay gã bán hoa ở Covent Garden đã cố lừa cô vào tuần trước.
Nhưng Hugh Prentice còn hơn cả khó chịu, còn hơn cả đáng ghét. Anh ta là người duy nhất (ngoài các em cô) làm cô giận dữ đến mức buộc phải ghìm chặt tay xuống theo đúng nghĩa đen để không đánh anh ta.
Cô chưa từng giận dữ như buổi tối hôm đó...