Cửa được một phụ nữ mặc đồng phục màu xanh sẫm với một cái cổ cồn trắng hồ bột mở ra. “Tôi là cô phụ trách,” người đó tự giới thiệu.
Harry bắt tay bà, sau đó giới thiệu vợ và con trai anh.
“Mời cả nhà vào phòng làm việc của tôi,” bà nói, “chúng ta có thể trò chuyện một chút trước khi ba người gặp các cô bé”.
Cô phụ trách dẫn họ đi dọc một hành lang dán đầy những bức tranh rực rỡ màu sắc.
“Cháu thích bức tranh này,” Sebastian nói, dừng lại trước một bức vẽ, nhưng cô phụ trách không trả lời, rõ ràng cho rằng những đứa trẻ nên cư xử lễ độ và biết giữ im lặng.
Ba người theo sau người phụ nữ vào phòng làm việc của bà. Khi cửa đã đóng lại, Harry bắt đầu bằng việc cho cô phụ trách biết cả gia đình anh đều rất trông đợi chuyến thăm này.
“Và tôi biết các cháu bé cũng thế,” bà đáp. “Nhưng trước hết tôi cần giải thích vài quy định của cơ sở chúng tôi, vì mối quan tâm duy nhất của tôi là lợi ích của các cháu.”
“Tất nhiên rồi,” Harry nói. “Chúng tôi hoàn toàn tuân theo bà.”
“Ba bé gái mà gia đình ông bà đã bày tỏ quan tâm, Sandra, Sophie và Jessica, hiện đang trong giờ học mỹ thuật, các vị sẽ có cơ hội quan sát mấy cô bé tương tác cùng các cháu khác. Khi chúng ta tới gặp, điều quan trọng là để các bé tiếp tục hoạt động của chúng, vì nhất thiết không được để các bé cảm thấy chúng đang trong một cuộc cạnh tranh với nhau. Điều đó sẽ chỉ kết thúc trong nước mắt, và rất có thể sẽ để lại hậu quả lâu dài. Từng bị chối bỏ một lần, các cháu không nên bị nhắc nhớ lại trải nghiệm đó nữa. Nếu nhìn thấy có một gia đình xuất hiện, chắc chắn chúng biết ông bà đang nghĩ tới việc nhận nuôi. Còn lý do nào khác để các vị đến đây nữa? Nhưng chúng nhất định không được biết ông bà chỉ quan tâm đến hai hay ba bé trong số chúng. Và tất nhiên, kể cả sau khi đã gặp ba cô bé, các vị rất có thể vẫn muốn tới thăm các cơ sở của chúng tôi tại Taunton và Exeter trước khi đi đến quyết định.”
Harry những muốn nói với cô phụ trách là họ đã có quyết định rồi, cho dù họ rất muốn làm như chính Sebastian là người đưa ra quyết định cuối cùng.
“Vậy chúng ta đã sẵn sàng tới chỗ lớp mỹ thuật chưa?” “Rồi ạ,” Sebastian nói, và chạy ngay ra cửa.
“Làm sao chúng tôi biết được tên từng cô bé?” Emma hỏi, từ tốn đứng dậy khỏi ghế.
Cô phụ trách lừ mắt với Sebastian trước khi nói, “Tôi sẽ giới thiệu vài cháu với các vị, như thế không ai trong số chúng cảm thấy mình đang được chọn riêng ra. Trước khi chúng ta tới gặp các cháu, các vị còn câu hỏi nào nữa không?”.
Harry ngạc nhiên vì Sebastian không hề đưa ra cả tá câu hỏi mà chỉ đứng cạnh cửa sốt ruột chờ đợi ba người lớn. Trong khi họ quay trở ra hành lang để đi về phía lớp mỹ thuật, Sebastian chạy vụt lên trước.
Cô phụ trách mở cửa lớp học, cả bốn người bước vào và lặng lẽ đứng ở cuối lớp. Một cái gật đầu ra hiệu với giáo viên đứng lớp, người này nói, “Các con, chúng ta có khách”.
“Xin chào ông bà Clifton,” lũ trẻ đồng thanh lên tiếng, vài đứa nhìn quanh, trong khi số khác vẫn tiếp tục vẽ.
“Chào các cháu,” Harry và Emma nói. Sebastian vẫn tiếp tục im lặng một cách bất thường.
Harry nhận thấy phần lớn lũ trẻ đều cúi đầu và có vẻ gì đó cam chịu. Anh bước tới quan sát một cậu bé đang vẽ một trận bóng đá. Rõ ràng là cậu bé ủng hộ cho đội Bristol City, điều làm Harry mỉm cười.
Emma giả bộ ngắm nhìn bức vẽ một con vịt, hay cũng có thể là một con mèo, trong lúc cố đoán xem đứa bé nào là Jessica, nhưng vẫn chẳng tìm hiểu được gì thêm cho tới khi cô phụ trách đến bên cạnh cô và nói, “Đây là Sandra”.
“Bức tranh đẹp quá, Sandra,” Emma nói. Một nụ cười hết cỡ xuất hiện trên khuôn mặt cô bé, trong khi Sebastian cúi xuống ngắm nghía kỹ hơn.
Harry bước tới và bắt đầu trò chuyện cùng Sandra, trong khi Emma và Sebastian được giới thiệu với Sophie.
“Đây là một con lạc đà,” cô bé nói đầy tự tin, trước khi có ai trong hai vị khách kịp hỏi.
“Một bướu hay hai bướu?” Sebastian hỏi.
“Hai bướu,” cô bé trả lời với giọng tự tin không kém. “Nhưng nó chỉ có một cái bướu thôi mà,” Sebastian nói. Sophie mỉm cười, và lập tức thêm cho con vật một cái bướu nữa. “Anh học ở trường nào?” Cô bé hỏi.
“Anh sẽ học tại St Bede’s tháng Chín tới,” Sebastian trả lời.
Harry luôn để mắt tới con trai mình, cậu bé có vẻ rất hợp với Sophie, anh sợ rằng cậu đã đưa ra quyết định, nhưng rồi đột nhiên Sebastian chuyển sự chú ý sang bức vẽ của một cậu bé, đúng lúc cô phụ trách giới thiệu anh với Jessica. Nhưng cô bé mê mải với bức tranh của mình đến mức chẳng buồn ngước mắt lên. Cho dù anh có cố gắng thế nào cũng không phá vỡ nổi sự tập trung của cô bé. Có phải cô bé đang ngượng ngùng, hay thậm chí sợ hãi? Harry không tài nào biết được.
Anh quay lại bên Sophie, cô bé đang nói chuyện với Emma về con lạc đà của mình. Cô bé hỏi anh thích lạc đà một bướu hay hai bướu. Trong lúc Harry cân nhắc câu trả lời, Emma đi tới gặp Jessica, song cũng như chồng mình, cô không thể moi được lấy một lời từ cô bé. Cô bắt đầu tự hỏi liệu toàn bộ cuộc thử nghiệm này có kết thúc trong thảm họa với việc Jessica lên đường tới Australia trong khi gia đình cô kết thúc với Sophie hay không.
Emma đi ra xa và bắt đầu trò chuyện cùng một cậu bé tên là Tommy về ngọn núi lửa đang phun trào của cậu. Phần lớn tờ giấy vẽ của chàng họa sĩ nhí chìm trong những ngọn lửa đỏ sẫm. Emma thầm nghĩ hẳn Freud1 sẽ muốn nhận nuôi cậu bé này, trong lúc Tommy tiếp tục phết thêm màu đỏ lên bức tranh.
Cô liếc mắt sang bên và thấy Sebastian đang trò chuyện với Jessica và chăm chú nhìn bức vẽ con thuyền Noah2 của cô bé.
1 Sigmund Freud nguyên là một bác sĩ về thần kinh và là nhà tâm lý học người Áo. Ông là người đặt nền móng và phát triển học thuyết phân tâm học.
2 Con thuyền Noah được nhắc đến trong Sách Sáng thế của Kinh Thánh. Noah đóng con thuyền theo ý Chúa để cứu ông và gia đình cùng các loài động vật khỏi bị diệt vong bởi trận đại hồng thủy.
Ít nhất cô bé dường như có lắng nghe con trai cô, dù vẫn không ngước mắt lên. Sebastian rời chỗ Jessica và tới ngắm các bức vẽ của Sandra cũng như Sophie thêm một lần nữa, rồi đi tới đứng cạnh cửa.
Ít phút sau, cô phụ trách đề nghị tất cả họ cùng quay về phòng làm việc của bà uống trà.
Sau khi đã rót ra ba tách và mời mỗi vị khách một cái bánh quy hiệu Bath Oliver, cô phụ trách nói, “Chúng tôi rất hiểu nếu ông bà muốn ra về, dành thời gian suy nghĩ thêm về chuyện này và có lẽ sẽ trở lại vào một dịp khác, hay tới thăm một cơ sở nữa của chúng tôi trước khi đi tới quyết định cuối cùng”.
Harry giữ im lặng hoàn toàn và chờ xem Sebastian có thể hiện quan điểm hay không.
“Tôi nghĩ cả ba cô bé đều rất dễ thương,” Emma nói, “và cảm thấy gần như không thể lựa chọn giữa các cháu”.
“Tôi đồng ý thế,” Harry nói. “Có lẽ chúng tôi nên về như bà gợi ý và cùng bàn bạc với nhau, sau đó cho bà biết suy nghĩ của chúng tôi.”
“Nhưng làm thế có thể sẽ lãng phí thời gian nếu tất cả chúng ta đều thích một cô bé,” Sebastian nói với lý lẽ già trước tuổi.
“Nghĩa là con đã có quyết định rồi sao?” Harry hỏi, hiểu rõ một khi Sebastian để lộ lựa chọn của mình, anh và Emma có thể đưa con trai vào thế thiểu số, cho dù đó có lẽ không phải là cách tốt nhất để Jessica bắt đầu cuộc sống mới tại Barrington Hall.
“Trước khi các vị quyết định,” cô phụ trách nói, “có lẽ tôi nên cung cấp một chút thông tin cá nhân về từng cô bé. Sandra là cô bé dễ bảo hơn cả. Sophie có phần hòa đồng hơn song lại hơi đãng trí”.
“Còn Jessica?” Harry hỏi.
“Không nghi ngờ gì, đây là cô bé tài năng nhất, nhưng luôn sống trong thế giới của riêng mình và không dễ kết bạn. Nếu là tôi, tôi nghĩ rằng trong ba cô bé Sandra là thích hợp nhất với các vị.”
Harry quan sát vầng trán đang cau lại của Sebastian chuyển sang cau có. Anh thay đổi chiến thuật.
“Vâng, tôi đồng ý với bà, thưa bà,” Harry nói. “Lựa chọn của tôi cũng sẽ là Sandra.”
“Em thấy khó xử quá,” Emma nói. “Em thích Sophie, sôi nổi và vui vẻ.”
Emma và Harry lén đưa mắt nhìn nhau. “Vậy giờ tùy thuộc vào con, Seb. Sẽ là Sandra hay Sophie?” Harry hỏi.
“Không ai cả. Con thích Jessica hơn,” cậu bé nói, sau đó nhảy bật dậy chạy ra khỏi phòng, để cánh cửa mở rộng.
Cô phụ trách đứng dậy từ sau bàn làm việc. Chắc hẳn bà đã có vài lời với Sebastian nếu cậu là một trong những đứa trẻ dưới quyền quản lý của bà.
“Con trai tôi vẫn chưa thực sự hiểu được khái niệm dân chủ,” Harry nói, cố gắng pha trò. Cô phụ trách đi ra cửa, trông có vẻ chẳng hề bị thuyết phục. Harry và Emma đi theo bà xuống hành lang. Khi cô phụ trách bước vào phòng học mỹ thuật, bà không tin nổi vào mắt mình nữa; Jessica tháo bức tranh của cô bé ra khỏi giá vẽ và đưa cho Sebastian.
“Con đã hứa đổi lại cái gì cho em ấy?” Harry hỏi khi Sebastian đi qua trước mặt anh, tay cầm chặt bức tranh vẽ con thuyền Noah.
“Con hứa rằng nếu em ấy tới dùng bữa chiều mai tại nhà mình, em ấy sẽ có món ăn ưa thích.”
“Và món ăn ưa thích của em ấy là gì?” Emma hỏi. “Bánh xốp nóng phủ bơ và mứt quả mâm xôi.”
“Như vậy có được không, thưa bà?” Harry lo lắng hỏi. “Được, nhưng có lẽ sẽ tốt hơn nếu cả ba cô bé cùng đến.” “Không cần đâu, cảm ơn bà,” Emma nói. “Chỉ mình Jessica là được rồi.”
“Như ý bà thôi,” cô phụ trách nói, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. Trên đường quay về Barrington Hall, Harry hỏi Sebastian tại sao lại chọn Jessica.
“Sandra cũng xinh đấy,” cậu bé nói, “còn Sophie rất vui, nhưng chắc đến cuối tháng con sẽ chán ngấy cả hai”. “Còn Jessica?” Emma hỏi.
“Em ấy làm con nhớ đến mẹ.”
-o-
Sebastian đã đứng sẵn ở cửa trước khi Jessica tới dùng bữa. Cô bé bước lên các bậc cấp, một tay bám lấy cô phụ trách, tay kia giữ khư khư bức tranh của mình.
“Đi theo anh nào,” Sebastian lên tiếng, nhưng Jessica vẫn đứng ở bậc cấp trên cùng như thể bị dính chặt xuống chỗ đó. Nom cô bé có vẻ hoảng sợ, và không chịu nhúc nhích cho tới khi Sebastian quay lại.
“Cái này là cho anh,” cô bé nói, đưa bức tranh của mình ra. “Cảm ơn em,” Sebastian nói, nhận ra bức tranh cậu từng để ý trên tường hành lang tại trại trẻ của bác sĩ Barnardo. “Được rồi, tốt hơn em nên vào nhà đi, vì anh không thể một mình ăn hết bánh xốp được.”
Jessica dè dặt bước vào tiền sảnh, và miệng cô bé há hốc. Không phải vì nghĩ tới món bánh xốp, mà vì những bức tranh sơn dầu thứ thiệt lồng khung treo trên tất cả các bức tường.
“Để sau,” Sebastian hứa, “nếu không bánh xốp nguội mất”. Khi Jessica bước vào phòng khách, Harry và Emma đứng dậy chào đón cô bé, song một lần nữa vị khách nhỏ tuổi lại không thể rời mắt khỏi các bức tranh. Cuối cùng, cô bé ngồi xuống sô pha bên cạnh Sebastian, và chuyển cái nhìn háo hức sang một chồng bánh xốp nóng hổi. Nhưng em không động đậy gì cho tới khi Emma đưa cho một cái đĩa, rồi một cái bánh xốp, sau đó là một con dao, bơ và bát mứt quả mâm xôi.
Cô phụ trách cau có khi Jessica định cắn miếng đầu tiên.
“Cảm ơn bà, bà Clifton,” Jessica bật ra. Cô bé ngấu nghiến ngon lành thêm hai cái bánh xốp nữa, đi kèm mỗi chiếc là một câu “Cảm ơn bà, bà Clifton”.
Khi cô bé từ chối cái bánh thứ tư với câu “Thôi ạ, cháu cảm ơn bà, bà Clifton,” Emma không chắc liệu cô bé còn thích thêm một cái bánh nữa không, hay cô phụ trách đã dặn trước em không được ăn quá ba cái.
“Em đã bao giờ nghe nói đến Turner3 chưa?” Sebastian hỏi, sau khi Jessica đã uống hết ly Tizer thứ hai của mình. Cô bé cúi đầu, không trả lời. Sebastian đứng dậy, cầm tay cô bé và dẫn em ra khỏi phòng. “Thực sự Turner cũng rất giỏi,” cậu tuyên bố, “nhưng không giỏi bằng em”.
3 Joseph Mallord William Turner là một họa sĩ vẽ tranh phong cảnh thuộc trường phái Lãng mạn, người được biết đến với tài sử dụng màu nước cho các bức vẽ, Turner được coi là người đã đặt nền móng cho trường phái Ấn tượng.
“Tôi không thể nào tin nổi,” cô phụ trách nói khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng hai đứa trẻ. “Tôi chưa bao giờ thấy cô bé thoải mái đến thế.”
“Nhưng cô bé hầu như chẳng nói lời nào,” Harry nói.
“Tin tôi đi, ông Clifton, ông vừa chứng kiến phiên bản giàu lời thoại nhất của Jessica đấy.”
Emma bật cười. “Cô bé rất dễ mến. Liệu có cơ hội để cô bé trở thành một thành viên trong gia đình không, chúng tôi cần thực hiện việc đó như thế nào?”
“Tôi e rằng đó là một quá trình dài,” cô phụ trách nói, “và không phải lúc nào cũng kết thúc một cách tốt đẹp. Ông bà có thể bắt đầu bằng việc thỉnh thoảng mời cô bé đến nhà chơi, và nếu việc đó diễn ra suôn sẻ, ông bà có thể cân nhắc tới điều chúng tôi gọi là một kỳ nghỉ cuối tuần. Sau đó sẽ không có chuyện suy nghĩ lại nữa, vì chúng ta nhất thiết không được khuấy động lên những hy vọng vô căn cứ”.
“Chúng tôi sẽ làm theo chỉ dẫn của bà,” Harry nói, “vì chắc chắn chúng tôi muốn thử”.
“Vậy tôi sẽ làm tất cả những gì mình có thể,” cô phụ trách trả lời. Khi bà đã uống tới tách trà thứ ba và thậm chí ăn thêm cái bánh xốp thứ hai, Harry và Emma không còn chút nghi ngờ nào về những gì được trông đợi từ họ.
“Sebastian và Jessica có thể đi đâu được nhỉ?” Emma hỏi, khi cô phụ trách đề xuất có lẽ nên để hai đứa trẻ được thoải mái.
“Tôi sẽ đi tìm hai đứa về,” Harry lên tiếng đúng lúc bọn trẻ vui vẻ lao vụt vào phòng.
“Đã đến lúc chúng ta phải quay về rồi, cô bé,” cô phụ trách nói trong lúc đứng lên khỏi chỗ của bà. “Nói gì thì nói, chúng ta cần quay về kịp giờ ăn tối.”
Jessica không chịu buông tay Sebastian ra. “Con không muốn ăn thêm gì nữa,” cô bé nói.
Cô phụ trách không biết nói sao.
Harry dẫn Jessica ra tiền sảnh, giúp cô bé mặc áo khoác. Khi cô phụ trách bước qua cửa trước, Jessica òa khóc.
“Ôi không,” Emma nói. “Thế mà tôi cứ nghĩ tất cả đã diễn ra tốt đẹp.”
“Không thể tốt hơn được đâu,” cô phụ trách thì thầm. “Bọn trẻ chỉ khóc khi chúng không muốn ra về. Hãy làm theo lời khuyên của tôi, nếu hai ông bà có cùng cảm nghĩ, hãy hoàn tất các thủ tục càng sớm càng tốt.”
Jessica quay lại vẫy tay chào trước khi leo lên chiếc Austin 7 nhỏ nhắn của cô phụ trách, nước mắt vẫn chảy ròng ròng xuống hai bên má.
“Lựa chọn tuyệt lắm, Seb,” Harry nói, quàng tay lên vai con trai khi họ quan sát chiếc xe chạy xa dần rồi biến mất khỏi tầm nhìn.
-o-
Phải mất thêm năm tháng nữa trước khi cô phụ trách rời Barrington Hall lần cuối cùng và một mình quay trở về cơ sở nuôi trẻ của bác sĩ Barnardo, thêm một đứa trẻ nữa dưới quyền nuôi dưỡng của cô được thu xếp vào một mái nhà thật hạnh phúc. Thực ra cũng không quá hạnh phúc, vì chẳng mấy chốc Harry và Emma nhận ra Jessica cũng có những vấn đề riêng của mình, và chúng cũng gây ra nhiều rắc rối chẳng kém gì Sebastian.
Không ai trong hai người từng nghĩ tới chuyện Jessica chưa bao giờ ngủ một mình trong phòng riêng. Vào đêm đầu tiên tại Barrington Hall, em đã để cửa phòng mình mở toang và khóc nức nở tới lúc ngủ thiếp đi. Harry và Emma dần quen với một sinh vật bé nhỏ ấm áp leo lên giường nằm chen vào giữa hai người không lâu sau khi cô bé thức giấc vào các buổi sáng. Chuyện này diễn ra ít thường xuyên hơn khi Sebastian chấp nhận chia tay chú gấu bông Winston của cậu và trao vị cựu thủ tướng4 lại cho Jessica.
4 Ám chỉ tới Winston Churchill.
Jessica thích mê Winston, chỉ sau mỗi Sebastian, bất chấp việc ông anh trai mới cao giọng tuyên bố, “Anh đã quá lớn để chơi gấu bông rồi. Nói cho cùng, chỉ vài tuần nữa anh sẽ tới trường học”.
Jessica muốn tới St Bede’s cùng anh, nhưng Harry giải thích rằng các cậu bé và các cô bé không học cùng một trường. “Sao lại không ạ?” Jessica hỏi.
“Đúng vậy, sao lại không chứ?” Emma nói.
Khi cuối cùng cũng đến ngày đầu tiên của năm học, Emma chăm chú nhìn con trai, tự hỏi năm tháng đã trôi đi đâu nhanh vậy. Cậu bé mặc một chiếc áo vét đỏ, đội mũ lưỡi trai đỏ và quần soóc bằng vải flannel xám. Thậm chí cả đôi giày của cậu cũng sáng bóng. Jessica đứng trên bậc cấp vẫy tay chào tạm biệt trong khi chiếc xe khuất dần trên con đường dẫn ra cổng trước. Sau đó, cô bé ngồi xuống bậc cấp trên cùng và chờ đợi Sebastian quay về.
Sebastian đã yêu cầu mẹ không đi cùng cậu và bố đến trường. Khi Harry hỏi tại sao, con trai anh trả lời, “Con không thích những bạn khác thấy mẹ hôn con”.
Harry hẳn đã tìm cách thuyết phục cậu bé, nếu anh không nhớ lại ngày đầu tiên của chính mình ở St Bede’s. Anh và mẹ đã đi tàu điện từ Still House Lane, và anh đã hỏi bà liệu họ có thể xuống sớm một bến và đi bộ khoảng một trăm mét cuối cùng để các cậu bé khác không nhận ra họ không có xe hơi. Và khi hai mẹ con còn cách cổng trường năm mươi mét, mặc dù chấp nhận cho mẹ hôn mình, Harry đã nhanh chóng chào tạm biệt và để bà đứng lại đó một mình. Khi lần đầu tiên bước tới gần cổng trường St Bede’s, anh đã thấy các bạn học tương lai của mình bước xuống từ những chiếc xe ngựa hay xe hơi lộng lẫy - thậm chí có người còn tới trường trên một chiếc Rolls- Royce do tài xế mặc chế phục cầm lái.
Harry cũng nhận ra đêm đầu tiên xa nhà thật khó khăn, song không giống Jessica, nguyên nhân là vì anh chưa bao giờ ngủ cùng phòng với những đứa trẻ khác.
Nhưng bảng chữ cái đã thật nhân hậu với anh, vì trong phòng ngủ anh nằm cạnh Barrington ở một bên, còn bên kia là Deakins.
Harry đã không được may mắn như thế khi nói tới giám thị phòng nội trú của anh. Alex Fisher, vào tuần đầu tiên cứ cách một tối lại dùng dép đánh phạt anh một lần, không vì lý do nào khác ngoài việc Harry là con trai một công nhân bến tàu, và vì thế không xứng đáng được dạy dỗ trong cùng trường học với Fisher, con trai của một người buôn bán bất động sản. Đôi khi Harry tự hỏi chuyện gì đã xảy đến với Fisher sau khi anh ta rời khỏi St Bede’s. Anh biết anh ta và Giles đã gặp lại nhau trong chiến tranh khi cả hai cùng phục vụ tại một trung đoàn ở Tobruk, và anh đoán Fisher hẳn vẫn đang sống tại Bristol, vì mới đây anh ta đã tránh nói chuyện với anh trong buổi gặp mặt cựu học sinh của St Bede’s.
Ít nhất Sebastian cũng sẽ đến trường bằng xe hơi, và vì là học sinh bán trú, cậu bé sẽ không gặp phải tay Fisher nào, vì cậu sẽ quay trở về Barrington Hall mỗi tối. Dẫu vậy, Harry ngờ rằng con trai anh cũng sẽ không thấy St Bede’s dễ dàng hơn chút nào so với anh, cho dù vì những nguyên nhân hoàn toàn khác.
Khi Harry dừng xe bên ngoài cổng trường, Sebastian nhảy ra khỏi xe thậm chí trước cả khi anh kịp đạp phanh. Harry quan sát con trai chạy qua cổng trường và biến mất vào một đám đông những cái áo vét đỏ, không thể phân biệt nổi cậu bé với hàng trăm học sinh khác. Cậu bé không ngoái lại nhìn lấy một lần. Anh chấp nhận rằng trật tự cũ thay đổi, nhường chỗ cho cái mới.
Anh chậm rãi lái xe quay trở về Barrington Hall và bắt đầu suy nghĩ về chương tiếp theo của cuốn sách mới nhất. Liệu đã đến lúc William Warwick được thăng cấp chưa?
Khi về gần tới nhà, anh thấy Jessica đang ngồi ở bậc cấp trên cùng. Harry mỉm cười trong khi dừng xe lại. Nhưng lúc anh vừa chui ra khỏi xe, câu đầu tiên cô bé nói là, “Anh Seb đâu rồi ạ?”.
-o-
Hàng ngày, trong khi Sebastian đến trường, Jessica lại thu mình vào thế giới riêng của cô bé. Trong khi chờ đợi ông anh quay về nhà, cô bé kể cho Winston nghe về những con vật khác, gấu Pooh, ông Toad, một con thỏ trắng, một con mèo vàng có tên là Orlando và một con cá sấu đã nuốt chửng một cái đồng hồ.
Sau khi Winston đã ngủ thiếp đi, em đặt chú gấu xuống giường, rồi quay lại với giá vẽ và màu vẽ của mình. Cứ thế lặp đi lặp lại. Trên thực tế, nơi từng được Emma coi là phòng trẻ đã được Jessica biến thành xưởng vẽ. Sau khi đã vẽ kín mọi tờ giấy lọt vào tay mình, bao gồm cả các bản thảo cũ của Harry (anh buộc phải cất kín bản thảo mới) bằng bút chì, sáp màu hay màu vẽ, cô bé chuyển sự chú ý sang việc trang hoàng lại các bức tường của căn phòng.
Harry không muốn làm nhụt sự hăng hái của cô bé, ngược lại là đằng khác, song anh vẫn nhớ rõ Barrington Hall không phải là nhà họ, và có lẽ họ nên hỏi ý kiến Giles trước khi cô bé thoát khỏi phòng trẻ và khám phá ra còn bao nhiêu bức tường vẫn trắng tinh nữa trong tòa nhà.
Song Giles thích mê thành viên mới của Barrington Hall đến mức anh tuyên bố mình sẽ không bận tâm nếu cô bé có sơn lại cả ngôi nhà từ trong ra ngoài.
“Vì Chúa, đừng cổ vũ con bé như thế,” Emma cầu xin, “Sebastian đã yêu cầu cô bé vẽ lại tường phòng của nó rồi đấy”.
“Và khi nào bọn em định nói cho nó biết sự thật?” Giles hỏi khi họ ngồi vào bàn ăn tối.
“Tớ và cô ấy vẫn chưa thấy có lý do nào cần thiết phải nói cho cô bé biết,” Harry nói. “Nói cho cùng, Jessica mới sáu tuổi, và cũng mới làm quen với cuộc sống ở đây.”
“Được rồi, đừng có để lâu quá,” Giles cảnh báo, “vì cô bé đã coi cậu và Emma như bố mẹ, Seb như anh trai, và gọi tớ là bác Giles, trong khi trên thực tế cô bé là em cùng bố khác mẹ của tớ, và là dì của Seb”.
Harry bật cười, “Tớ nghĩ sẽ cần đến thời gian trước khi cô bé có thể hiểu nổi điều đó”.
“Em hy vọng cô bé sẽ không bao giờ cần làm thế,” Emma nói. “Đừng quên, tất cả những gì cô bé biết là bố mẹ đẻ của nó đã mất. Tại sao điều đó lại phải thay đổi, trong khi chỉ có ba chúng ta biết sự thật?”
“Đừng đánh giá thấp Sebastian. Thằng bé đã đoán ra được nửa sự thật rồi đấy.”