Sau khi gửi Sebastian cho Elizabeth trông nom, Harry và Emma tới Scotland để trải qua kỳ trăng mật tại lâu đài Mulgelrie, nơi này được truyền lại từ tổ tiên của Lord Harvey và phu nhân Harvey, ông bà ngoại quá cố của Emma.
Tòa lâu đài làm sống dậy bao hồi ức hạnh phúc về quãng thời gian họ trải qua tại đây ngay trước khi Harry tới Oxford. Hai người cùng đi dạo cả ngày trên các ngọn đồi, hiếm khi quay về lâu đài trước khi mặt trời lặn sau ngọn núi cao nhất. Sau bữa tối, người đầu bếp nhớ lại rằng cậu Clifton thích được phục vụ ba lần món canh hầm, hai vợ chồng ngồi bên lò sưởi cháy bùng bùng và đọc Evelyn Waugh, Graham Greene và tác giả ưa thích của Harry, P. G. Wodehouse.
Sau nửa tháng, quãng thời gian mà đôi vợ chồng trẻ gặp gỡ những bầy gia súc miền Highland còn nhiều hơn là con người, họ miễn cưỡng lên đường trở lại Bristol. Hai người về tới Manor House, trông đợi một cuộc sống gia đình yên bình, song thứ chờ đợi họ lại không phải là điều đó.
Elizabeth thú nhận bà không thể đợi lâu hơn được nữa để giao lại Sebastian; những màn khóc lóc trước khi lên giường đi ngủ xuất hiện quá nhiều lần, bà nói với hai con khi con mèo Xiêm của bà, Cleopatra, trèo lên lòng bà chủ của nó và lập tức ngủ ngon lành. “Chân thành mà nói, các con không về sớm giây nào cả,” bà thêm. “Trong hai tuần vừa qua mẹ chưa từng một lần giải xong ô chữ trên The Times.”
Harry cảm ơn mẹ vợ vì sự thấu hiểu của bà, rồi anh và Emma mang cậu con trai năm tuổi hiếu động kinh khủng của họ về Barrington Hall.
-o-
Trước khi Harry và Emma kết hôn, Giles một mực quả quyết rằng vì anh dành phần lớn thời gian của mình tại London thực thi chức trách của một dân biểu Công đảng tại Quốc hội, nên hai người cứ thoải mái coi Barrington Hall như nhà mình. Với thư viện mười nghìn cuốn sách, một khu tư viên rộng mênh mông và một tàu ngựa phong phú, tòa dinh thự hoàn toàn lý tưởng với họ. Harry có thể viết những cuốn tiểu thuyết trinh thám về William Warwick trong không khí yên bình, trong khi Emma cưỡi ngựa đi dạo hàng ngày và Sebastian chơi ngoài khoảng sân rộng, thường xuyên mang những con vật lạ lùng về nhà cùng uống trà.
Giles thường lái xe về Bristol vào các buổi chiều thứ Sáu, vừa kịp để ăn tối cùng họ. Đến sáng thứ Bảy, anh sẽ dành thời gian cho một cuộc tiếp cử tri trước khi ghé vào câu lạc bộ công nhân bến tàu để uống một, hai vại bia với người đại diện của anh, Griff Haskins. Đến chiều, ngài dân biểu và Griff sẽ tham gia cùng mười ngàn người trong số cử tri của anh tại sân vận động Eastville để theo dõi đội Bristol Rovers1 thua trận nhiều hơn là thắng. Giles không bao giờ dám thừa nhận, thậm chí cả với người đại diện của mình, là anh thà dành các chiều thứ Bảy đi xem đội Bristol chơi rugby còn hơn. Song nếu anh làm vậy Griff hẳn sẽ nhắc nhở rằng đám đông có mặt tại sân Memorial Ground hiếm khi đông hơn hai nghìn người, và phần lớn họ bầu cho đảng Bảo thủ.
1 Một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Anh.
Vào các sáng Chủ nhật, Giles lại có mặt tại nhà thờ St Mary Redcliffe để quỳ gối cầu nguyện bên cạnh Harry và Emma. Harry đoán với Giles đây chỉ đơn thuần là một nghĩa vụ với cử tri khác, vì ông bạn này luôn tìm bất cứ cớ nào để tránh xa nhà nguyện khi còn ở trường. Nhưng không ai có thể phủ nhận rằng Giles đang nhanh chóng đạt được tiếng tăm là một thành viên tận tâm, mẫn cán của Quốc hội.
Thế rồi đột nhiên, không lời giải thích, những cuộc về thăm vào dịp cuối tuần của Giles trở nên ngày một thưa thớt. Bất cứ khi nào Emma nhắc tới chủ đề này với anh trai, câu trả lời lại là về những trách nhiệm tại Quốc hội. Harry không hề cảm thấy bị thuyết phục, và hy vọng việc vắng mặt kéo dài ở khu vực bầu cử của ông anh vợ sẽ không làm xói mòn đa số mong manh ngài dân biểu đang có trong kỳ bầu cử tới.
Một tối thứ Sáu, hai người cuối cùng cũng khám phá ra lý do thực sự khiến Giles bận bịu đến thế trong vài tháng qua.
Anh đã gọi điện báo trước cho Emma là sẽ về Bristol dịp cuối tuần, và sẽ về đúng giờ để ăn tối hôm thứ Sáu. Điều ông anh không nói với cô em là sẽ có một vị khách nữa cùng tham gia.
Emma thường luôn có cảm tình với các cô bạn gái của Giles, họ luôn hấp dẫn, hơi đãng trí một chút, và tất cả, không có ngoại lệ, đều tôn thờ anh trai cô, cho dù phần lớn những người đẹp này không trụ lại đủ lâu để cô có thể hiểu rõ hơn về họ. Song lần này thì khác.
Tối thứ Sáu đó, khi Giles giới thiệu Virginia, Emma thực sự bối rối không hiểu anh cô thấy gì ở người phụ nữ này. Emma thừa nhận cô này rất đẹp và có gia thế danh tiếng. Trên thực tế, Virginia đã hơn một lần nhắc nhở họ rằng cô ta từng là Quý cô của năm (vào năm 1934), cũng như nhắc đi nhắc lại ba lần chuyện cô ta là con gái của bá tước Fenwick, thậm chí từ trước khi họ kịp ngồi vào bàn dùng bữa tối.
Emma hẳn đã gạt những chuyện này sang một bên, coi đó chỉ là do vị khách đang hồi hộp, nếu Virginia không chê bai đồ ăn và thì thầm với Giles suốt bữa tối, với âm lượng chắc hẳn cô ta phải biết những người khác đều sẽ nghe thấy, về chuyện thật khó lòng tìm được người làm tử tế ở Gloucestershire. Trước sự ngạc nhiên của Emma, Giles chỉ mỉm cười với những lời nhận xét đó, không hề tỏ ra bất đồng với cô ta dù chỉ một lần. Emma sắp sửa nói ra một điều mà cô biết sau đó mình sẽ phải hối tiếc thì Virginia tuyên bố cô ta đã kiệt sức sau một ngày dài và muốn đi nghỉ.
Sau khi vị khách đã đứng lên rời khỏi bàn ăn, với Giles theo sát chỉ cách một bước chân, Emma vào phòng khách, rót cho mình một cốc whisky lớn và ngồi xuống cái ghế gần nhất.
“Có Chúa mới biết mẹ em sẽ thấy thế nào về Quý cô Virginia.” Harry mỉm cười. “Việc Elizabeth nghĩ gì cũng chẳng quan trọng, vì anh có cảm giác Virginia sẽ trụ lại cũng lâu như phần lớn những cô bạn gái khác của Giles.”
“Em không chắc vậy đâu,” Emma nói. “Nhưng điều làm em khó hiểu nhất là tại sao cô ta lại quan tâm đến Giles, vì rõ ràng cô ta không hề yêu anh ấy.”
-o-
Khi Giles và Virginia lái xe trở về London sau bữa trưa vào buổi chiều Chủ nhật, Emma nhanh chóng quên cô con gái bá tước Fenwick vì cô cần phải giải quyết một vấn đề khẩn cấp hơn rất nhiều.
Lại thêm một cô bảo mẫu nữa xin thôi việc, tuyên bố giọt nước cuối cùng đã tràn ly khi cô này tìm thấy một con nhím trên giường mình. Harry ít nhiều cảm thấy thông cảm với người phụ nữ tội nghiệp.
“Việc thằng bé là con một chẳng giúp tình hình khá hơn,” Emma nói sau khi cuối cùng cô cũng đã ru ngủ được cậu con trai tối hôm đó. “Chẳng thể vui được khi không có ai để chơi cùng.”
“Việc đó chưa bao giờ làm anh lo lắng,” Harry nói, vẫn không ngước mắt lên khỏi cuốn sách.
“Mẹ anh đã kể cho em biết anh cũng chẳng vừa trước khi anh tới trường St Bede’s, và dù thế nào đi nữa, ở vào tuổi của nó, anh dành nhiều thời gian ngoài bến tàu hơn ở nhà.”
“Được thôi, cũng chẳng còn mấy nữa trước khi thằng bé bắt đầu học tại St Bede’s.”
“Và anh trông đợi em làm gì cho tới lúc đó? Đưa con chúng ta ra bến tàu mỗi sáng à?”
“Một ý tưởng không tồi.”
“Nghiêm túc đi nào, anh yêu. Nếu không nhờ Jack Già, bây giờ có khi anh vẫn đang ở ngoài đó.”
“Đúng thế,” Harry nói trong khi nâng ly lên tưởng nhớ con người vĩ đại ấy. “Nhưng chúng ta có thể làm gì trong chuyện này?”
Emma mất nhiều thời gian để trả lời đến mức Harry tự hỏi liệu có phải cô đã ngủ. “Có lẽ đã đến lúc chúng mình cần có một đứa trẻ nữa.”
Harry kinh ngạc gập cuốn sách lại và chăm chú nhìn vợ, không dám chắc anh đã nghe chính xác những gì cô nói. “Nhưng anh tưởng chúng mình đã nhất trí...”
“Đúng thế. Và em vẫn không hề đổi ý, nhưng chẳng có lý do nào ngăn cản chúng ta nghĩ đến việc nhận con nuôi cả.”
“Điều gì đã làm em nghĩ đến chuyện đó vậy, em yêu?”
“Em không thể ngừng nghĩ tới cô bé được tìm thấy trong phòng làm việc của bố vào đêm ông chết” - Emma không bao giờ có thể ép mình nói ra hai từ “bị giết” - “và khả năng cô bé đó có thể là con của ông.”
“Nhưng chẳng có bằng chứng nào về chuyện đó cả. Và dù thế đi nữa, anh không biết làm thế nào em có thể tìm ra cô bé sau chừng ấy thời gian.”
“Em đang nghĩ tới việc tham khảo một nhà văn viết truyện trinh thám danh tiếng để tìm lời khuyên.”
Harry cẩn thận suy nghĩ trước khi trả lời. “William Warwick rất có khả năng sẽ đưa ra lời khuyên rằng em nên thử liên hệ với Derek Mitchell.”
“Nhưng chắc anh không quên Mitchell từng làm việc cho bố em, và không hẳn là quan tâm đến lợi ích của chúng ta.”
“Đúng thế,” Harry nói, “và đó chính xác là lý do anh sẽ tìm kiếm lời khuyên của ông ta. Nói cho cùng, ông ta là người duy nhất biết nội tình câu chuyện”.
-o-
Họ nhất trí sẽ gặp nhau ở khách sạn Grand. Emma tới sớm và chọn một chỗ ngồi trong góc sảnh, nơi họ không thể bị nghe lén. Trong lúc chờ, cô soát lại những câu dự định sẽ hỏi người thám tử.
Ông Mitchell bước vào sảnh khi đồng hồ đổ chuông bốn giờ. Cho dù ông ta đã lên cân ít nhiều kể từ lần cuối cô gặp, và mái tóc cũng đã ngả xám hơn, cái chân tập tễnh vẫn là đặc điểm nhận dạng không lẫn vào đâu được. Rõ ràng ông ta nhận ra Emma, vì ông ta đi thẳng tới chỗ cô.
“Thật hân hạnh được gặp lại bà, bà Clifton,” ông ta mở lời.
“Mời ông ngồi,” Emma nói, tự hỏi liệu ông ta có đang căng thẳng như cô không. Cô quyết định vào thẳng vấn đề. “Tôi muốn gặp ông, ông Mitchell, vì tôi cần sự giúp đỡ của một thám tử tư.”
Mitchell cựa quậy một cách không thoải mái trên ghế.
“Khi chúng ta gặp nhau lần cuối, tôi đã hứa sẽ thanh toán phần còn lại khoản tiền bố tôi vẫn nợ ông.” Đây là gợi ý của Harry. Anh nói nó sẽ giúp Mitchell nhận ra cô thực sự nghiêm túc về việc thuê ông ta. Emma mở xắc tay, lấy ra một phong bì và đưa cho Mitchell.
“Cảm ơn bà,” ông ta nói, rõ ràng đang ngạc nhiên.
Emma tiếp, “Chắc ông nhớ lần cuối cùng tôi gặp ông, chúng ta đã nói chuyện về đứa bé được tìm thấy trong chiếc giỏ tại phòng làm việc của bố tôi. Thám tử chánh thanh tra Blakemore, người phụ trách vụ án, hy vọng ông vẫn còn nhớ, nói với chồng tôi là cô bé đã được chính quyền sở tại nhận chăm sóc”.
“Đó là cách xử trí thông thường, trong trường hợp không có ai nhận là thân nhân của cô bé.”
“Vâng, tôi cũng đã tìm hiểu điều đó, và hôm qua tôi đã nói chuyện với người phụ trách công tác này tại Tòa Thị chính, song ông ta từ chối cung cấp cho tôi bất cứ chi tiết nào về địa điểm nuôi dưỡng cô bé lúc này.”
“Có lẽ điều này là do chỉ thị của nhân viên điều tra để bảo vệ đứa trẻ khỏi những nhà báo tọc mạch. Điều đó không có nghĩa là không có cách khác để tìm ra nơi cô bé đang sống.”
“Tôi rất mừng được biết vậy.” Emma do dự. “Nhưng trước khi chúng ta làm việc đó, tôi cần được thuyết phục rằng cô bé là con của bố tôi.”
“Tôi có thể đảm bảo với bà, bà Clifton, rằng không còn chút nghi ngờ nào về điều đó.”
“Làm sao ông có thể chắc chắn tới mức đó?”
“Tôi có thể cho bà biết mọi chi tiết, nhưng tôi e chúng sẽ khiến bà cảm thấy không thoải mái.”
“Ông Mitchell, tôi không tin có điều gì ông kể về bố tôi lại khiến tôi ngạc nhiên được nữa.”
Mitchell tiếp tục im lặng trong vài khoảnh khắc. Cuối cùng ông ta nói, “Trong thời gian tôi làm việc cho Sir Hugo, chắc bà cũng biết ông ấy đã chuyển lên London”.
“Bỏ chạy vào ngày diễn ra hôn lễ của tôi, nói vậy thì chính xác hơn.”
Mitchell không bình luận gì. “Khoảng một năm sau, bố bà bắt đầu sống cùng cô Olga Piotrovska ở Quảng trường Lowndes.”
“Làm sao ông ấy có thể đáp ứng được việc đó, khi ông nội tôi không cho ông ấy một xu nào?”
“Ông ấy không thể. Nói trắng ra thì bố bà không chỉ sống cùng cô Piotrovska, mà còn sống dựa vào cô ấy.”
“Ông có thể cho tôi biết thêm về người phụ nữ này không?” “Rất sẵn lòng. Cô gái này là người gốc Ba Lan, và đã trốn khỏi Warsaw năm 1941, không lâu sau khi bố mẹ cô ấy bị bắt.”
“Họ phạm tội gì vậy?”
“Là người Do Thái,” Mitchell nói không chút cảm xúc. “Cô gái tìm cách vượt qua biên giới cùng một ít tài sản của gia đình và tìm đến London, tại đây cô ấy thuê một căn hộ ở Quảng trường Lowndes. Không lâu sau, cô ấy gặp bố bà tại một bữa tiệc cocktail do một người bạn chung của cả hai tổ chức. Ông ấy theo đuổi cô ấy trong vài tuần, sau đó dọn tới căn hộ của cô ấy, cam đoan rằng họ sẽ kết hôn ngay khi việc ly hôn của ông ấy hoàn tất.”
“Tôi từng nói không còn gì có thể làm tôi ngạc nhiên nữa. Tôi đã lầm.”
“Mối quan hệ trở nên xấu đi,” Mitchell nói. “Khi ông nội bà mất, Sir Hugo lập tức bỏ rơi cô Piotrovska, quay về Bristol nhận gia sản thừa kế và đảm nhiệm chức chủ tịch hội đồng quản trị công ty hàng hải Barrington. Nhưng chỉ sau khi đã đánh cắp toàn bộ đồ nữ trang của cô Piotrovska cùng vài bức họa có giá trị.”
“Nếu đúng vậy, sao ông ấy không bị bắt?”
“Có đấy,” Mitchell nói, “và sắp sửa bị buộc tội khi tòng phạm của bố bà, Toby Dunstable, kẻ đã tố cáo đồng lõa của mình, tự sát trong phòng giam buổi tối trước hôm diễn ra phiên tòa”.
Emma cúi đầu xuống.
“Bà chắc là không muốn tôi kể nữa đúng không, bà Clifton?” “Không,” Emma nhìn thẳng vào người thám tử. “Tôi cần biết mọi thứ.”
“Bố bà không hề biết chuyện cô Piotrovska đã có thai khi ông ấy quay về Bristol. Cô ấy sinh được một bé gái, đặt tên trong giấy khai sinh là Jessica Piotrovska.”
“Làm thế nào ông biết được?”
“Vì cô Piotrovska đã thuê tôi khi bố bà không thể thanh toán các hóa đơn của tôi nữa. Thật mỉa mai, cô ấy cạn hết tiền đúng lúc bố bà được thừa kế một gia tài. Đó là lý do cô ấy tới Bristol cùng Jessica. Cô ấy muốn Sir Hugo biết mình có một cô con gái nữa, vì cô ấy cảm thấy bố bà cần có trách nhiệm nuôi nấng đứa trẻ.”
“Và bây giờ đó là trách nhiệm của tôi,” Emma khẽ nói. Cô dừng lại. “Nhưng tôi không biết làm cách nào để tìm ra cô bé, và tôi hy vọng ông có thể giúp.”
“Tôi sẽ làm bất cứ điều gì có thể, bà Clifton. Nhưng sau từng ấy thời gian, việc này sẽ không dễ đâu. Nếu tôi phát hiện được gì, bà sẽ là người đầu tiên được biết,” người thám tử nói thêm lúc đứng dậy khỏi ghế.
Trong lúc Mitchell tập tễnh đi xa dần, Emma cảm thấy hơi có lỗi. Cô thậm chí còn chưa mời ông ta uống trà.
-o-
Emma nóng lòng muốn quay về nhà và kể cho Harry nghe cuộc gặp với Mitchell. Khi cô lao vào thư viện tại Barrington Hall, anh đang đặt ống điện thoại xuống. Chồng cô nở một nụ cười tươi hết cỡ, đến mức tất cả những gì cô nói là, “Anh nói trước đi”.
“Các đại diện xuất bản tại Mỹ muốn anh thực hiện một chuyến đi vòng quanh nước Mỹ khi họ tung ra cuốn sách mới vào tháng tới.”
“Đó là một tin tuyệt vời, anh yêu. Cuối cùng anh cũng có cơ hội gặp bà cô Phyllis, chưa nói đến chú Alistair.”
“Anh rất nóng lòng.”
“Đừng có giễu cợt, cậu nhóc!”
“Anh đâu có ý đó, các đại diện xuất bản đã đề xuất em đi cùng anh, vậy nên em cũng sẽ có dịp gặp lại họ.”
“Em rất muốn đi cùng anh, anh yêu, nhưng thời điểm không thể tệ hơn. Cô bảo mẫu Ryan đã thu dọn hành lý, và em rất ái ngại phải cho anh biết đại lý cung cấp bảo mẫu đã gạch tên chúng ta khỏi danh sách khách hàng của họ.”
“Có thể anh sẽ thuyết phục được những người đại diện xuất bản đồng ý cho cả Seb cùng đi.”
“Việc đó nhiều khả năng sẽ dẫn đến kết cục là tất cả chúng ta cùng bị trục xuất,” Emma nói. “Không, em sẽ ở nhà với Seb, trong khi anh lên đường đi chinh phục vùng đất mới.”
Harry ôm vợ trong vòng tay. “Tiếc quá. Anh đã chờ đợi một kỳ trăng mật thứ hai. Nhân tiện đây, cuộc gặp của em với Mitchell thế nào?”
-o-
Harry đang ở Edinburgh dự bữa trưa đàm đạo văn học khi Derek Mitchell gọi điện thoại cho Emma.
“Có thể tôi đã có đầu mối,” ông ta nói, không xưng tên. “Khi nào chúng ta có thể gặp nhau?”
“Mười giờ sáng mai, chỗ cũ, được chứ?”
Cô vừa gác máy thì điện thoại lại đổ chuông. Cô nhấc máy, và nhận ra em gái mình đang ở đầu dây bên kia.
“Một sự ngạc nhiên dễ chịu làm sao, Grace, nhưng chị hiểu em lắm, em luôn có lý do để gọi điện.”
“Một số người trong chúng ta có công việc toàn thời gian,” Grace nhắc nhở chị. “Nhưng chị nói đúng. Em gọi điện vì tối qua em vừa dự một buổi thuyết trình của Giáo sư Cyrus Feldman.”
“Là ông giáo sư hai lần đoạt giải Pulitzer đó ư?” Emma nói, hy vọng gây ấn tượng được với cô em. “Giáo sư Đại học Stanford, nếu chị nhớ chính xác.”
“Em thấy ấn tượng rồi đấy,” Grace nói. “Nói thẳng vào việc chính nhé, thể nào chị cũng sẽ bị thu hút bởi bài thuyết trình của ông ấy.”
“Ông ấy là một nhà kinh tế học phải không, nếu chị nhớ không lầm?” Emma nói, cố gắng để không bị cô em nhấn chìm. “Khó có thể nói đó là lĩnh vực của chị.”
“Hay của em, nhưng khi ông ấy nói về giao thông vận tải...” “Nghe có vẻ hấp dẫn nhỉ.”
“Đúng thế,” Grace nói, tảng lờ sự chế nhạo của bà chị, “nhất là khi ông ấy nói tới tương lai của ngành hàng hải, khi hiện tại Tập đoàn Hàng không Hải ngoại Anh2 BOAC đang lên kế hoạch khởi động tuyến đường bay thường xuyên từ London tới New York”.
2 British Overseas Airways Corporation (BOAC)
Emma đột nhiên hiểu tại sao em cô lại gọi điện.
“Có cơ hội tìm được một bản sao của bài thuyết trình không?” “Chị có thể làm tốt hơn thế đấy. Điểm dừng chân tiếp theo của ông ấy là Bristol, vì thế chị có thể đích thân tới dự và nghe ông ấy nói.”
“Có lẽ chị có thể trao đổi một chút với ông giáo sư sau buổi thuyết trình. Có rất nhiều thứ chị muốn hỏi ông ấy,” Emma nói.
“Ý tưởng hay đấy, nhưng nếu chị làm thế, hãy cẩn thận. Cho dù ông giáo sư là một trong số hiếm hoi đàn ông có bộ óc to hơn hai quả cà của họ, ông ấy hiện đang sống với bà vợ thứ tư, và tối qua em chẳng thấy bóng dáng bà ta đâu cả.”
Emma bật cười. “Em thô lỗ quá, em gái, nhưng xin cảm ơn vì lời khuyên.”
-o-
Harry lên chuyến tàu từ Edinburgh đi Manchester sáng hôm sau, sau khi đã phát biểu tại một cuộc gặp mặt nhỏ ở thư viện thành phố và đồng ý trả lời các câu hỏi.
Câu hỏi đầu tiên, không thể tránh khỏi, xuất phát từ báo giới.
Bọn họ hiếm khi xưng danh, và dường như không mấy hoặc chẳng hề quan tâm tới cuốn sách mới nhất của anh. Hôm nay đến lượt tờ Manchester Guardian.
“Bà Clifton hiện ra sao?”
“Ổn cả, xin cảm ơn,” Harry thận trọng trả lời.
“Có đúng là hai ông bà đang sống cùng nhà với Sir Giles Barrington không?”
“Đó là một tòa nhà rất rộng.”
“Ông có chút oán giận nào về việc Sir Giles giành được mọi thứ trong di sản thừa kế của bố ông ấy, còn ông chẳng được gì không?”
“Chắc chắn là không. Tôi có Emma, nghĩa là tất cả những gì tôi từng muốn.”
Câu trả lời này dường như làm tay nhà báo im lặng trong khoảnh khắc, cho phép công chúng có cơ hội chen vào.
“Khi nào William Warwick sẽ dành được vị trí của chánh thanh tra Davenport?”
“Không phải trong cuốn sách tiếp theo,” Harry mỉm cười nói. “Tôi có thể bảo đảm với ông về điều đó.”
“Ông Clifton, có đúng là ông đã phải thay đến bảy cô bảo mẫu chỉ trong chưa tới ba năm không?”
Rõ ràng Manchester có nhiều hơn một tờ báo.
Ngồi trên xe quay trở lại nhà ga, Harry bắt đầu càu nhàu về cánh báo chí, cho dù cuộc gặp gỡ ở Manchester cho thấy những chuyện tọc mạch từ báo chí dường như không ảnh hưởng tới khả năng bán sách của anh. Song Harry biết Emma đang ngày càng lo ngại về sự để ý thường trực của báo chí, cũng như những ảnh hưởng của việc đó lên Sebastian khi con trai anh bắt đầu đi học.
“Các bạn học có thể rất tàn nhẫn,” cô nhắc nhở anh.
“Nhưng vậy đấy, ít nhất con trai chúng ta cũng sẽ không bị chế nhạo vì liếm bát cháo của nó,” Harry nói.
-o-
Cho dù Emma đến sớm vài phút, Mitchell đã ngồi chờ sẵn trong góc khi cô bước vào sảnh khách sạn. Người thám tử đứng lên khi cô tìm đến chỗ ông ta. Những lời đầu tiên Emma nói, thậm chí trước cả khi cô kịp ngồi xuống, là, “Ông muốn dùng một tách trà chứ, ông Mitchell?”.
“Không, cảm ơn bà, bà Clifton,” Mitchell, không phải kiểu người thích trò chuyện xã giao, ngồi lại xuống ghế và mở sổ ghi chép của ông ta ra. “Có vẻ như nhà chức trách địa phương đã đưa Jessica Smith...”
“Smith?” Emma nói. “Tại sao không phải là Piotrovska, hay thậm chí là Barrington?”
“Quá dễ để lần ra dấu vết, tôi đoán vậy, và tôi ngờ rằng người phụ trách điều tra đã kiên quyết đảm bảo bí mật danh tính sau cuộc điều tra cái chết bất thường của bố bà. Nhà chức trách địa phương,” người thám tử nói tiếp, “đã đưa một bé gái J. Smith tới cơ sở nuôi trẻ mồ côi của bác sĩ Barnardo ở Bridgwater”.
“Sao lại là Bridgwater?”
“Có lẽ đó là nơi tiếp nhận trẻ mồ côi gần nhất còn chỗ vào thời điểm đó.”
“Và cô bé vẫn còn ở đó?”
“Theo những gì tôi điều tra được thì đúng vậy. Nhưng mới đây tôi biết được rằng cơ sở của Barnardo đang lên kế hoạch gửi một số bé gái ở chỗ họ tới các gia đình nhận nuôi ở Australia.”
“Sao họ lại làm thế?”
“Một điểm trong chính sách nhập cư của Australia là trả mười bảng để hỗ trợ đưa các thiếu niên vào đất nước họ, và họ đặc biệt ưu ái các cô bé.”
“Tôi lại cứ nghĩ họ sẽ quan tâm hơn tới các cậu bé cơ đấy.” “Dường như họ đã có đủ nam giới rồi,” Mitchell nói, kèm theo một nụ cười hiếm hoi.
“Vậy thì chúng ta nên tới Bridgwater càng sớm càng tốt.” “Đợi đã, bà Clifton. Nếu bà tỏ ra quá nhiệt tình, họ có thể đoán ra ngay lập tức tại sao bà lại quan tâm tới bé J. Smith đến thế, và đi đến quyết định bà và ông Clifton không phải là bố mẹ nuôi thích hợp.”
“Nhưng họ có thể đưa ra lý do nào để từ chối chúng tôi chứ?” “Trước hết là họ của bà. Chưa kể tới việc bà và ông Clifton chưa thành hôn khi con trai bà được sinh ra.”
“Vậy ông khuyên tôi nên làm thế nào?” Emma khẽ hỏi.
“Làm đơn xin nhận con nuôi theo các kênh thông thường. Đừng tỏ vẻ nóng vội, và hãy để họ thấy rằng họ mới là người đưa ra quyết định.”
“Nhưng làm thế nào tôi biết họ không từ chối chúng tôi?”
“Bà sẽ phải uốn nắn họ theo đúng hướng, đúng không nào, bà Clifton.”
“Ông có đề xuất gì không?”
“Khi bà điền vào đơn xin nhận con nuôi, bà sẽ được yêu cầu ghi rõ bất cứ tiêu chí ưu tiên nào có thể có. Điều đó sẽ giúp mọi người tiết kiệm được thời gian và tránh được nhiều rắc rối. Vì vậy nếu bà ghi rõ mình đang tìm một bé gái chừng năm hay sáu tuổi, vì bà đã có một cậu con trai lớn hơn một chút. Điều đó sẽ giúp thu hẹp diện lựa chọn.”
“Ông còn đề xuất nào nữa không?”
“Còn,” Mitchell trả lời. “Dưới mục tôn giáo, hãy đánh dấu vào ô ghi không có lựa chọn đặc biệt nào.”
“Vì sao như vậy lại có ích?”
“Vì bản khai đăng ký của bé Jessica Smith có ghi rõ mẹ là người Do Thái, bố không rõ danh tính.”