Làm cách nào một người Anh1 lại được trao tặng Ngôi sao Bạc nhỉ?” Nhân viên nhập cư tại Idlewild hỏi trong khi xem xét thị thực nhập cảnh của Harry.
1 Tác giả sử dụng từ “Limey” là một từ mang tính xúc phạm để chỉ người Anh, chính xác hơn là các thủy thủ Anh. Người ta tin rằng từ này có nguồn gốc từ từ “lime-juicer” - máy ép nước chanh, để chỉ việc Hải quân hoàng gia Anh cung cấp nước ép của loại trái cây này cho các thủy thủ chống lại một loại bệnh do thiếu vitamin C trong khẩu phần hàng ngày.
“Đó là một câu chuyện dài,” Harry nói, nghĩ rằng có lẽ sẽ không được khôn ngoan nếu kể cho ông ta hay vào lần cuối cùng đặt chân tới New York, anh đã bị bắt giữ vì tội giết người.
“Chúc ông có một thời gian tuyệt vời tại nước Mỹ.” Nhân viên nhập cư bắt tay Harry.
“Cảm ơn ông,” anh nói, cố không tỏ vẻ ngạc nhiên khi đi qua khu vực kiểm tra nhập cư và theo các biển chỉ dẫn tới chỗ lấy hành lý. Trong khi đợi vali của mình xuất hiện, anh xem lại lần nữa những chỉ dẫn dành cho mình khi đến nơi. Anh sẽ được người đại diện xuất bản chính của Viking đón tiếp, người này sẽ tháp tùng anh tới khách sạn và thông báo về lịch làm việc của anh. Mỗi khi tới thăm một thành phố tại Anh, Harry luôn được tháp tùng bởi người phụ trách bán hàng sở tại, vì thế anh không dám chắc mình hiểu một đại diện xuất bản có nghĩa là gì.
Sau khi lấy chiếc rương cũ từ thời còn đi học của mình, Harry đi về phía trạm hải quan. Một nhân viên hải quan yêu cầu anh mở rương ra, kiểm tra chiếu lệ bên trong, rồi dùng phấn vạch một chữ thập lớn lên cạnh rương trước khi cho anh qua. Harry bước đi dưới một tấm biển lớn hình bán nguyệt đề dòng chữ Chào mừng tới New York trên bức ảnh bắt mắt của ông thị trưởng William O’Dwyer.
Ra khỏi nhà ga đến, Harry được chào đón bởi một hàng lái xe mặc đồng phục cầm trên tay những tấm biển ghi tên. Anh tìm tấm biển có chữ “Clifton”, mỉm cười với người lái xe rồi nói, “Tôi đây”.
“Hân hạnh được gặp ông, ông Clifton. Tôi là Charlie.” Người lái xe đỡ cái rương nặng trịch của Harry như thể nó chỉ là một cái ca táp nhỏ. “Và đây là người đại diện xuất bản của ông, Natalie.”
Harry quay người sang và nhìn thấy một phụ nữ trẻ, người chỉ được nhắc tới một cách đơn giản trong bản chỉ dẫn là “N. Redwood”. Cô gái cao gần bằng anh, với mái tóc vàng được cắt hợp thời trang, mắt xanh, và sở hữu những chiếc răng thẳng và trắng hơn bất kỳ bộ răng nào anh từng được thấy, ngoại trừ trên một tấm áp phích quảng cáo thuốc đánh răng. Dường như chừng đó vẫn là chưa đủ, người phụ nữ còn sở hữu một thân hình đồng hồ cát. Harry chưa từng gặp ai tương tự Natalie ở nước Anh thời hậu chiến đang phải mua lương thực theo phiếu khẩu phần.
“Rất vui được gặp cô, cô Redwood,” anh nói, bắt tay cô gái. “Thật tốt khi được gặp anh, Harry,” cô đáp. “Và làm ơn hãy gọi tôi là Natalie,” cô nói thêm khi hai người đi theo sau Charlie ra khỏi phòng đợi lớn. “Tôi là một người hâm mộ nhiệt thành. Tôi rất yêu thích William Warwick, và không hề nghi ngờ việc cuốn sách mới nhất của anh sẽ lại là một thành công lớn nữa.”
Sau khi họ ra tới ngoài vỉa hè, Charlie mở cửa sau chiếc limousine dài nhất Harry từng trông thấy. Anh đứng tránh sang bên để Natalie vào xe trước.
“Ôi, tôi thực sự yêu thích người Anh,” người phụ nữ nói khi anh leo lên xe ngồi xuống cạnh cô, và chiếc limousine bắt đầu hòa vào dòng xe cộ, chầm chậm tiến vào New York. “Trước hết, chúng ta sẽ tới khách sạn của anh. Tôi đã đặt phòng cho anh ở Pierre, trên lầu mười một. Tôi đã để ra vừa đủ thời gian trong lịch trình để anh có thể tắm rửa trước khi tới ăn trưa cùng ông Guinzburg tại Câu lạc bộ Harvard. Nhân tiện xin nói luôn là ông ấy đang rất nóng lòng được gặp anh.”
“Tôi cũng vậy,” Harry nói. “Ông ấy đã xuất bản tập Nhật ký một tù nhân của tôi cũng như cuốn tiểu thuyết đầu tiên về William Warwick, vì vậy tôi phải cảm ơn ông ấy rất nhiều.”
“Và ông ấy đã bỏ ra rất nhiều thời gian và tiền bạc để đảm bảo Không gì mạo hiểm lọt vào danh sách bán chạy nhất. Ông ấy cũng yêu cầu tôi cung cấp đầy đủ thông tin cho anh về cách chúng tôi dự định thực hiện điều đó.”
“Xin cứ tự nhiên,” Harry nói trong khi đưa mắt nhìn qua cửa kính xe để tận hưởng quang cảnh lần cuối anh đã thấy từ phía sau một chiếc xe chở tù sơn vàng đưa anh tới một phòng giam thay vì một căn phòng tại khách sạn Pierre.
Một bàn tay áp lên chân anh. “Có rất nhiều thứ chúng ta cần hoàn tất trước khi anh gặp ông Guinzburg.” Natalie đưa cho anh một tập tài liệu bìa xanh dày cộp. “Cho phép tôi bắt đầu bằng việc giải thích cách chúng tôi dự định tiến hành để đưa cuốn sách của anh vào danh sách bán chạy nhất, vì việc này rất khác cách các anh vẫn làm tại Anh.”
Harry mở tập tài liệu ra và cố tập trung. Trước đây anh chưa bao giờ ngồi cạnh một phụ nữ nào mặc đồ vừa khít với cơ thể và tôn dáng đến thế.
“Ở Mỹ,” Natalie nói tiếp, “anh chỉ có ba tuần để đảm bảo sách của mình lọt vào danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times. Nếu anh không vào được mười lăm thứ hạng đầu tiên trong thời gian đó, các nhà sách sẽ đóng gói chỗ Không gì mạo hiểm của họ và gửi trả lại nhà xuất bản”.
“Thật điên rồ,” Harry nói. “Ở Anh, một khi nhà sách đã đưa ra đề nghị mua với nhà xuất bản, coi như sách đã được bán đi.”
“Các anh không đưa ra đề nghị giảm giá hay điều khoản trả lại cho nhà sách sao?”
“Chắc chắn là không,” Harry trả lời, choáng váng trước ý tưởng nọ.
“Và các vị vẫn tiếp tục bán sách mà không đề nghị được giảm giá ư?”
“Đúng thế, tất nhiên rồi.”
“Được thôi, anh sẽ thấy đó là khác biệt lớn ở đây, vì nếu anh tìm được chỗ trên mười lăm vị trí bán chạy nhất, giá bìa sẽ tự động được giảm xuống một nửa, và sách của anh sẽ được chuyển ra phía sau nhà sách.”
“Tại sao? Chắc chắn một cuốn sách bán chạy hàng đầu cần phải được bày ở vị trí bắt mắt nhất phía trước cửa hàng, thậm chí trên cửa kính trưng bày, và đương nhiên không thể giảm giá.”
“Không còn như vậy nữa từ khi các anh chàng làm quảng cáo khám phá ra rằng nếu một khách hàng tới tìm một cuốn sách bán chạy hàng đầu cụ thể, và họ buộc phải ra tận đằng sau nhà sách để thấy nó, một trong năm người sẽ mua thêm hai cuốn nữa và một trong ba người sẽ mua thêm một cuốn trên đường tới quầy bán giảm giá.”
“Thông minh đấy, nhưng tôi không dám chắc cách đó có ăn thua ở Anh hay không.”
“Tôi ngờ rằng chuyện đó chỉ còn là vấn đề thời gian, song ít nhất anh cũng hiểu được tại sao việc đưa cuốn sách của anh lọt vào danh sách càng nhanh càng tốt lại quan trọng đến thế, bởi vì một khi giá bán đã hạ xuống chỉ còn một nửa, anh sẽ có nhiều khả năng trụ lại trong mười lăm thứ hạng bán chạy hàng đầu thêm vài tuần nữa. Nhưng nếu anh thất bại, Không gì mạo hiểm sẽ biến mất khỏi các giá bày bán trong vòng một tháng kể từ hôm nay, và chúng ta sẽ mất rất nhiều tiền.”
“Tôi hiểu thông điệp rồi,” Harry nói trong khi chiếc limousine từ tốn vượt qua cầu Brooklyn, và anh được tái ngộ những chiếc taxi sơn vàng cùng các anh chàng tài xế phì phèo hút xì gà của chúng.
“Điều làm cho việc đó càng trở nên khó khăn hơn là chúng ta cần tới thăm mười bảy thành phố trong hai mươi mốt ngày.”
“Chúng ta?”
“Vâng, tôi sẽ cầm tay anh trong suốt chuyến đi,” người phụ nữ bình thản nói. “Thường tôi hay ở lại New York và để một đại diện xuất bản sở tại mỗi thành phố chăm lo cho tác giả tới thăm nơi đó, nhưng lần này thì không, vì ông Guinzburg nhất định muốn tôi không rời khỏi anh.” Cô gái lại đặt bàn tay lên chân anh lần nữa, trước khi lật qua một trang tập tài liệu để trên lòng mình.
Harry liếc nhìn người phụ nữ, và cô dành cho anh một nụ cười điệu đà. Liệu có phải cô nàng đang tán tỉnh anh không? Không, không thể có chuyện đó được. Nói cho cùng, họ chỉ mới vừa gặp nhau.
“Tôi đã đăng ký cho anh tham dự vài chương trình phát thanh có tiếng, trong đó có Chương trình Matt Jacobs, với mười một triệu thính giả lắng nghe mỗi buổi sáng. Không ai hiệu quả bằng Matt trong việc đẩy sách ra khỏi nhà sách.”
Harry có vài câu muốn hỏi, song Natalie chẳng khác gì một khẩu súng trường Winchester, một viên đạn luôn được bắn đi mỗi lần bạn định ngóc đầu lên.
“Anh hãy nhớ cho,” cô gái tiếp tục nói gần như không cần thở, “đa số các chương trình lớn sẽ chỉ cho anh không quá vài phút - sẽ không giống như BBC của các anh đâu. ‘Tìm hiểu kĩ càng’ không phải là một khái niệm họ hiểu rõ. Trong quãng thời gian đó, hãy nhớ nhắc tới nhan đề cuốn sách càng thường xuyên càng tốt.”
Harry bắt đầu giở qua các trang chương trình chuyến đi quảng bá của anh. Dường như mỗi ngày đều bắt đầu ở một thành phố mới, nơi anh sẽ xuất hiện trên một chương trình phát thanh lúc sáng sớm, tiếp theo là vô vàn cuộc phỏng vấn của phát thanh và báo in trước khi hối hả lao ra sân bay.
“Tất cả tác giả của các vị đều được đối xử như thế này sao?” “Chắc chắn là không,” Natalie nói, tay lại áp lên chân Harry.
“Và điều này đưa tới vấn đề lớn nhất chúng tôi gặp phải với anh.”
“Các vị có vấn đề với tôi?”
“Chắc chắn rồi. Phần lớn những người phỏng vấn sẽ muốn hỏi về quãng thời gian anh ở trong tù, và làm thế nào một người Anh lại giành được Ngôi sao Bạc, nhưng anh nhất thiết phải luôn hướng chủ đề quay trở lại cuốn sách.”
“Ở Anh, làm thế sẽ bị coi là khá thô thiển.”
“Tại Mỹ, thô thiển là thứ sẽ đưa anh lọt vào danh sách bán chạy nhất.”
“Nhưng chẳng lẽ những người phỏng vấn không muốn nói về cuốn sách sao?”
“Harry, anh cần đặt giả thiết rằng chẳng có ai trong số họ sẽ đọc nó. Cả tá tiểu thuyết mới được ném xuống bàn họ hàng ngày, vì thế anh sẽ là người may mắn nếu họ chịu đọc nhiều hơn tựa đề. Sẽ là một lợi thế nữa nếu thậm chí họ nhớ cả tên anh. Họ đồng ý cho anh xuất hiện trên chương trình của mình chỉ vì anh là một cựu tù đã dành được Ngôi sao Bạc, vì vậy hãy biến điều đó thành lợi thế của chúng ta và liên tục nhắc tới cuốn sách như trúng tà vậy,” cô đại diện xuất bản nói khi chiếc limousine dừng bánh bên ngoài khách sạn Pierre.
Harry ước gì anh đã trở về nước Anh.
Người lái xe chui ra ngoài, mở cốp trong khi một nhân viên phục vụ của khách sạn bước tới bên xe. Natalie dẫn Harry vào trong, băng qua tiền sảnh tới bàn tiếp tân, tại đây tất cả những gì anh phải làm là trình hộ chiếu và ký vào bản đăng ký. Natalie dường như đã chuẩn bị sẵn sàng tất cả.
“Chào mừng tới Pierre, ông Clifton,” nhân viên tiếp tân vừa nói vừa đưa cho anh một chìa khóa lớn.
“Tôi sẽ gặp lại anh ở đây, ngoài tiền sảnh,” - Natalie xem đồng hồ của cô - “sau một giờ nữa. Sau đó chiếc limousine sẽ đưa anh tới Câu lạc bộ Harvard dùng bữa trưa cùng ông Guinzburg.”
“Cảm ơn cô,” Harry nói, và quan sát cô gái băng qua tiền sảnh, biến mất sau cánh cửa quay ra ngoài đường. Anh nhận thấy mình không phải là người đàn ông duy nhất không thể rời mắt khỏi cô.
Một người phục vụ đưa anh lên lầu mười một, dẫn anh vào khu phòng của mình và hướng dẫn cách sử dụng mọi thứ. Harry chưa bao giờ ở trong một khách sạn có bồn tắm và cả vòi sen. Anh quyết định ghi chú lại để có thể kể với mẹ chuyện này khi trở về Bristol. Anh cảm ơn người phục vụ, và chia tay với đồng đô la duy nhất anh có.
Điều đầu tiên Harry làm, trước cả khi dỡ hành lý ra, là nhấc điện thoại để cạnh đầu giường lên và yêu cầu được thực hiện một cuộc gọi trực tiếp tới Emma.
“Tôi sẽ gọi lại cho ngài sau khoảng mười lăm phút, thưa ngài,” nhân viên tổng đài quốc tế nói.
Harry nán lại rất lâu dưới vòi sen, và sau khi đã lau khô người bằng chiếc khăn tắm to nhất anh từng thấy, anh bắt đầu dỡ hành lý thì điện thoại đổ chuông.
“Cuộc gọi quốc tế của ngài đã sẵn sàng, thưa ngài,” nhân viên tổng đài nói. Giọng tiếp theo anh nghe thấy là của Emma.
“Có phải anh không, anh yêu? Anh có nghe rõ em nói không?” “Chắc chắn là có rồi, em yêu,” Harry mỉm cười nói.
“Anh đã bắt đầu nói giống người Mỹ rồi đấy. Em không thể hình dung nổi anh sẽ thế nào sau ba tuần nữa.”
“Sẵn sàng quay về Bristol, anh đoán vậy, nhất là nếu cuốn sách không lọt được vào danh sách bán chạy nhất.”
“Nếu nó không vào được thì sao?” “Có thể anh sẽ về còn sớm hơn.”
“Với em chuyện đó nghe có vẻ tốt đấy. Vậy anh đang gọi về từ chỗ nào thế?”
“Khách sạn Pierre. Họ đã đưa anh vào căn phòng khách sạn lớn nhất anh từng thấy. Cái giường có đủ chỗ cho bốn người ngủ.”
“Có điều hãy đảm bảo chỉ có một người ngủ trên đó thôi.”
“Trong phòng có điều hòa nhiệt độ, và có cả máy thu thanh trong phòng tắm. Nhân thể nói để em biết, anh vẫn chưa tìm hiểu được cách bật mọi thứ lên như thế nào. Hay cách để tắt chúng đi.”
“Đáng ra anh phải để Seb đi cùng. Đến lúc này hẳn nó đã thông thạo mọi thứ rồi.”
“Hoặc làm mọi thứ tanh bành ra và để mặc anh tìm cách ráp lại như cũ. Thằng bé thế nào rồi?”
“Nó ổn cả. Thực ra khi không có bảo mẫu có vẻ nó lại còn ngoan hơn.”
“Quả là nhẹ nhõm. Thế cuộc tìm kiếm cô bé J. Smith của em tiến triển thế nào rồi?”
“Chậm chạp, nhưng em đã được mời đến dự một cuộc phỏng vấn tại trại trẻ của bác sĩ Barnardo vào chiều mai.”
“Nghe có vẻ hứa hẹn đấy.”
“Em sẽ gặp ông Mitchell sáng nay, như thế em sẽ biết cần phải nói gì, và có lẽ còn quan trọng hơn, không được nói gì.”
“Em sẽ ổn thôi, Emma. Hãy nhớ rằng trách nhiệm của họ là tìm cho lũ trẻ những mái nhà tử tế. Nỗi lo lắng duy nhất của anh là Seb sẽ phản ứng thế nào khi phát hiện ra ý định của em.”
“Con đã biết rồi. Em đã nói chuyện với nó về chủ đề này tối qua, ngay trước khi con lên giường đi ngủ, và em rất ngạc nhiên vì thằng bé dường như lại thích ý tưởng đó. Song một khi anh cho Seb nhập cuộc, luôn có một vấn đề nữa xuất hiện.”
“Lần này là gì vậy?”
“Con muốn được có ý kiến về việc chúng ta chọn ai. Tin tốt là nó muốn một cô em gái.”
“Như vậy vẫn có thể có nguy cơ nó không thích cô bé J. Smith mà thích một đứa bé khác.”
“Em không biết sẽ phải làm gì nếu chuyện đó xảy ra.”
“Chúng ta phải thuyết phục con bằng cách nào đó rằng Jessica chính là lựa chọn của nó.”
“Và anh định đề xuất nên làm việc đó thế nào?” “Để anh suy nghĩ đã.”
“Có điều hãy nhớ đừng đánh giá thấp con trai anh. Nếu chúng ta làm thế sẽ phản tác dụng đấy.”
“Hãy bàn về việc này khi anh quay về,” Harry nói. “Anh phải đi rồi, em yêu, anh có hẹn ăn trưa với Harold Guinzburg.”
“Hãy nói với ông ấy là em yêu ông ấy, và nhớ rằng ông ấy là một người nữa mà anh không được đánh giá thấp. Và trong lúc ăn trưa, anh đừng quên hỏi ông ấy xem chuyện gì đã xảy đến với…”
“Anh vẫn chưa quên đâu.”
“Chúc may mắn, anh yêu,” Emma nói, “và hãy đảm bảo anh lọt được vào danh sách bán chạy nhất!”.
“Em còn kinh khủng hơn cả Natalie.” “Natalie là ai vậy?”
“Một quý cô tóc vàng quyến rũ không thể nào rời tay khỏi người anh.”
“Anh đúng là người kể chuyện bậc thầy đấy, Harry Clifton.”
-o-
Emma là một trong những người đầu tiên tới phòng hội thảo của trường đại học tối hôm đó để nghe bài thuyết trình của Giáo sư Cyrus Feldman về chủ đề Sau khi thắng trong chiến tranh, liệu có phải nước Anh đã thua trong hòa bình?.
Cô lặng lẽ tìm đến chỗ ngồi ở cuối một hàng ghế chạy dốc thoai thoải ở nửa cuối phòng. Rất lâu trước giờ khai mạc dự kiến, phòng hội thảo đã đông chật người, đến mức những người đến muộn buộc phải ngồi trên các bậc lối đi, thậm chí có vài người ngồi vắt vẻo trên các bệ cửa sổ.
Đám đông vỗ tay hoan hô vang dội vào khoảnh khắc vị diễn giả hai lần được trao tặng giải thưởng Pulitzer bước vào khán phòng, được phó hiệu trưởng trường đại học tháp tùng. Sau khi mọi người đã yên vị, Sir Philip Morris giới thiệu vị khách của ông, cung cấp một bài tóm lược về sự nghiệp nổi bật của Feldman, từ những ngày ông ta còn là sinh viên tại Princeton cho tới khi được bổ nhiệm làm giáo sư trẻ nhất tại Stanford, cho đến giải Pulitzer thứ hai vị giáo sư vừa được trao tặng năm ngoái. Lại một tràng vỗ tay kéo dài nữa. Giáo sư Feldman đứng dậy khỏi chỗ của mình và bước lên bục diễn giả.
Điều đầu tiên Emma nhận thấy về Cyrus Feldman, thậm chí từ trước khi ông này bắt đầu lên tiếng, là vị giáo sư thực sự rất điển trai, một chi tiết Grace đã không nhắc tới khi gọi điện cho chị mình. Ông ta hẳn phải cao hơn mét tám một chút, với mái tóc xám dày và khuôn mặt rám nắng nhắc nhở tất cả khán giả có mặt tại đó về trường đại học nơi vị giáo sư đang giảng dạy. Thân hình như vận động viên điền kinh của vị diễn giả rất hiệu quả trong việc giấu đi tuổi tác của ông ta, đồng thời cho biết thêm rằng giáo sư dành nhiều thời gian tại phòng tập cũng không kém gì tại thư viện.
Ngay khi Feldman bắt đầu nói, Emma đã bị cuốn hút bởi nhiệt huyết sống động của ông ta, và sau vài khoảnh khắc vị giáo sư đã khiến tất cả thính giả trong khán phòng phải nhấp nhổm trên ghế.
Các sinh viên cắm cúi ghi chép hết tốc độ, và Emma lấy làm tiếc vì đã không mang theo một quyển sổ và một cây bút.
Diễn thuyết không cần đến ghi chú chuẩn bị trước, vị giáo sư nhanh nhẹn chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác: vai trò của Phố Wall sau chiến tranh, đô la trong vai trò đồng tiền mới của thế giới, dầu mỏ trở thành thứ hàng hóa sẽ khống chế nửa sau của thế kỷ và nhiều khả năng còn lâu hơn thế, vai trò trong tương lai của Quỹ tiền tệ quốc tế, và việc liệu nước Mỹ có tiếp tục gắn bó với bản vị vàng hay không.
Khi bài diễn thuyết của ông ta kết thúc, điều duy nhất làm Emma tiếc nuối là vị giáo sư hầu như không hề nhắc tới ngành vận tải, ngoài một chút đề cập thoáng qua việc ngành hàng không sẽ làm thay đổi trật tự thế giới, cả trong kinh doanh và du lịch. Và đúng như một diễn giả chuyên nghiệp từng trải, ông ta không quên nhắc nhở thính giả việc mình đã viết một cuốn sách về chủ đề kể trên. Emma không thể đợi đến Giáng sinh để sở hữu nó. Việc này làm cô nghĩ tới Harry, và hy vọng chuyến đi quảng bá sách tại Mỹ của anh sẽ thuận buồm xuôi gió.
Sau khi mua một cuốn Trật tự thế giới mới, cô nhập vào hàng dài người chờ được ký tặng vào sách. Emma đã đọc gần xong chương đầu tiên khi cô lên tới đầu hàng, và đang tự hỏi liệu vị giáo sư có sẵn lòng dành ra giây lát để nói rõ hơn góc nhìn của ông ta về tương lai ngành công nghiệp hàng hải Anh quốc.
Cô đặt cuốn sách lên bàn trước mặt tác giả, và ông ta dành cho cô một nụ cười thân thiện.
“Tôi sẽ viết tặng cho ai đây?”
Cô quyết định thử vận may. “Emma Barrington.”
Vị giáo sư nhìn cô gái chăm chú hơn. “Không rõ cô có phải là bà con của Sir Walter Barrington quá cố không?”
“Đó là ông nội tôi,” Emma trả lời đầy tự hào.
“Tôi từng nghe một bài thuyết trình của ông ấy nhiều năm trước về vai trò của ngành công nghiệp đóng tàu nếu nước Mỹ tham chiến trong Thế chiến thứ nhất. Hồi ấy tôi còn là sinh viên, và trong một giờ ông nội cô đã dạy cho tôi nhiều điều hơn các giáo sư có thể trong cả một học kỳ.”
“Ông cũng đã dạy cho tôi rất nhiều,” Emma nói, đáp lại nụ cười của vị diễn giả.
“Có rất nhiều điều tôi muốn hỏi ông ấy,” Feldman nói thêm, “nhưng ông phải đáp tàu trở về Washington tối hôm ấy, vì vậy tôi không bao giờ có dịp gặp lại ông nữa”.
“Và cũng có rất nhiều điều tôi muốn hỏi ông,” Emma nói. “Kỳ thực, ‘cần’ thì chính xác hơn.”
Feldman đưa mắt nhìn hàng người đang chờ đợi. “Tôi đoán việc này sẽ không làm mất của tôi quá nửa giờ đồng hồ, và vì tôi không phải đáp tàu quay về Washington tối nay, liệu chúng ta có thể có một cuộc trò chuyện riêng trước khi tôi rời khỏi đây chăng, cô Barrington?”