C
ách đó chưa tới mười dặm, Mal’akh kéo chăn trùm quanh Peter Solomon và đẩy ông qua một bãi để xe ngập ánh trăng rồi tiến vào vùng bóng tối của một tòa nhà đồ sộ. Công trình này có ba mươi ba cây cột trụ bên ngoài, mỗi cây cột cao đúng ba mươi ba foot. Vào giờ này, tòa nhà đồ sộ giống như một ngọn núi vắng tanh, và sẽ chẳng có ai thấy họ ở đằng sau cả. Mà điều đó cũng không quan trọng. Từ xa, sẽ chẳng ai bận tâm đến một người đàn ông cao lớn, mặt mũi tử tế, mặc áo khoác dài màu đen đưa một người tàn tật đầu trọc đi dạo ban đêm cả.
Tới lối vào phía sau, Mal’akh đẩy Peter lại gần bảng khóa điện tử. Peter nhìn nó chằm chằm đầy thách thức, rõ ràng không hề có ý nhập mật mã.
Mal’akh bật cười. “Ông nghĩ mình có mặt tại đây để giúp tôi vào trong sao? Chẳng lẽ ông quên việc tôi cũng là một huynh đệ của hội nhanh đến thế à?” Y chìa tay bấm mật mã vào cửa được cấp sau khi nhập môn lên cấp độ ba mươi ba.
Cánh cửa nặng nề mở ra.
Peter rên lên và bắt đầu vùng vẫy trên xe đẩy.
“Peter, Peter”, Mal’akh dỗ dành. “Nghĩ tới Katherine nào. Hợp tác, và bà ta sẽ sống. Ông có thể cứu em gái mình. Tôi hứa.”
Mal’akh đẩy nạn nhân của mình vào trong, đóng cửa lại sau lưng, tim đập rộn đầy mong mỏi. Y đẩy Peter qua vài hành lang tới một thang máy và bấm nút. Cửa thang máy mở ra, Mal’akh quay lưng đi giật lùi vào, kéo theo cái xe đẩy. Sau đó, y đưa tay bấm vào nút trên cùng, cố tình để Peter thấy những gì y đang làm.
Vẻ kinh hoàng cực độ vụt thoáng hiện trên khuôn mặt khổ sở của Peter.
“Suỵt...”, Mal’akh thì thầm, nhẹ nhàng xoa xoa cái đầu trọc của Peter khi cửa thang máy đóng lại. “Ông biết quá rõ... Chết như thế nào là một bí mật.”
Mình không thể nhớ hết các biểu tượng!
Langdon nhắm mắt, cố hết sức để nhớ lại chính xác vị trí của các biểu tượng dưới đáy kim tự tháp, song trí nhớ hình ảnh siêu phàm của ông cũng không thể đạt được mức độ ấy. Ông ghi lại vài biểu tượng còn nhớ được, đặt từng biểu tượng vào vị trí tương ứng theo chỉ dẫn của ma phương Franklin.
Tuy vậy, cho tới lúc này, ông chưa thấy điều gì có ý nghĩa.

“Nhìn xem!”, Katherine giục. “Chắc chắn anh đang đi đúng hướng. Hàng đầu tiên toàn là chữ cái Hy Lạp - các biểu tượng cùng loại được sắp xếp gần nhau!”
Langdon cũng nhận ra điều này, song ông không thể nghĩ ra từ Hy Lạp nào tương ứng với những chữ cái và khoảng trống đó. Mình cần chữ cái thứ nhất. Ông lại nhìn lần nữa vào ma phương, cố nhớ lại chữ cái nằm ở ô số 1 gần góc dưới bên trái. Nghĩ đi nào! Vị giáo sư nhắm mắt lại, cố hình dung ra đáy kim tự tháp. Hàng dưới cùng... bên cạnh góc trái... ở đó là chữ cái gì nhỉ?
Trong giây lát, Langdon trở lại trong hòm, chìm trong nỗi kinh hoàng, nhìn trừng trừng đáy kim tự tháp qua lớp thủy tinh hữu cơ.
Rồi đột nhiên ông nhìn ra. Langdon mở mắt ra, thở hổn hển. “Chữ cái đầu tiên là H!”
Langdon quay trở lại đồ hình và viết chữ cái thứ nhất vào. Từ vẫn chưa hoàn chỉnh, song ông đã thấy đủ. Đột nhiên, ông hiểu ra đó là từ nào.
µ!
Tim đập thình thịch, Langdon bấm một lệnh tìm kiếm mới vào chiếc BlackBerry. Ông nhập vào đó từ tiếng Anh tương đương với từ Hy Lạp trứ danh này. Kết quả đầu tiên xuất hiện là một bài viết trong từ điển bách khoa. Ông đọc nó và biết đó chính là thứ mình cần.
HEREDOM, danh từ, một từ có ý nghĩa quan trọng trong giới hội viên “cấp cao” của Hội Tam Điểm, xuất phát từ các nghi lễ của Hội Hồng hoa Thập tự tại Pháp, ám chỉ một ngọn núi huyền thoại tại Scotland, địa điểm tọa lạc của một trong những Phân hội đầu tiên. “Heredom” được dịch từ “Hερδoµ” trong tiếng Hy Lạp, có nguồn gốc từ Hieros-domos, có nghĩa là “Thánh thất”.
“Là nó!”, Langdon reo lên, không tin nổi. “Đó là nơi họ tới!”
Sato cúi người đọc qua vai ông, có vẻ không hiểu. “Tới ngọn núi trong truyền thuyết ở Scotland ư?”
Langdon lắc đầu. “Không, tới một tòa nhà tại Washington có tên gọi mã hóa là Heredom.”