“G
ần tới rồi”, Anderson nói trong lúc dẫn Langdon và Sato đi xuống hành lang dường như vô tận chạy suốt toàn bộ chiều dài tầng hầm phía đông Tòa nhà
Quốc hội. “Vào thời Lincoln, nền lối đi này rất bẩn thỉu và nhung nhúc chuột.”
Langdon cảm thấy thật may vì nền hành lang đã được lát gạch bởi ông không ưa lũ chuột cho lắm. Ba người tiếp tục bước đi, tiếng bước chân lỗi nhịp vang vọng, nghe rất kỳ quái trong hành lang dài. Nằm dọc hai bên hành lang là những ô cửa, một số đóng kín, nhưng cũng có nhiều ô mở hé. Nhiều căn phòng dưới tầng này có vẻ như bị bỏ hoang. Langdon để ý thấy số hiệu đánh trên các cánh cửa giảm dần, và sau một lúc, có vẻ như sắp hết.
SB4... SB3... SB2... SB1...
Họ tiếp tục đi ngang qua một cánh cửa không đánh số, nhưng Anderson đột ngột dừng lại khi số đánh trên các cánh cửa lại bắt đầu tăng lên.
HB1... HB2...
“Xin lỗi”, Anderson lên tiếng, “Đi quá mất rồi. Tôi gần như chưa bao giờ xuống sâu tận dưới này”.
Cả nhóm quay lại chừng vài mét tới trước một cánh cửa kim loại cũ kỹ, và đến lúc này Langdon nhận ra nó nằm chính giữa hành lang - nơi ngăn cách giữa Tầng hầm Thượng viện và Tầng hầm Hạ viện1. Và hóa ra cánh cửa này kỳ thực cũng được ký hiệu, song những nét khắc đã quá mờ, tới mức gần như không thể nhận ra được nữa.
1 HB: Viết tắt của “House Basement”.
SBB
“Chúng ta tới nơi rồi”, Anderson nói, “Sẽ có người mang chìa đến ngay”.
Sato cau mày xem đồng hồ đeo tay.
Langdon nhìn ba chữ “SBB” và hỏi Anderson, “Tại sao chỗ này lại được gắn với bên Thượng viện trong khi nó nằm ở chính giữa?”.
Anderson có vẻ không hiểu. “Ý ông là sao?”
“Trên cửa ghi SBB, bắt đầu bằng một chữ S chứ không phải một chữ H.”
Anderson lắc đầu. “Chữ S trong SBB không có nghĩa là Thượng viện. Nó...”
“Thưa sếp?”, một nhân viên an ninh lên tiếng gọi từ xa. Anh ta hối hả chạy theo hành lang về phía họ, chìa ra một cái chìa khóa. “Xin lỗi sếp, chuyện này cũng mất chút thời gian đấy. Chúng tôi không tìm thấy chìa khóa chính của SBB. Đây là chìa dự trữ từ hòm khóa phụ.”
“Chìa chính bị mất sao?”, Anderson ngạc nhiên hỏi lại. “Nhiều khả năng bị thất lạc”, người kia nói, vừa kịp tới nơi, hổn hển thở không ra hơi. “Đã lâu lắm rồi chẳng có ai yêu cầu xuống dưới này cả.”
Anderson cầm lấy chìa khóa. “Không có chìa khóa dự trữ cho SBB13 à?”
“Xin lỗi sếp, cho tới giờ chúng tôi vẫn chưa tìm ra chìa của bất cứ phòng nào dưới SBB cả. MacDonald đang tiếp tục tìm.” Viên cảnh vệ lấy bộ đàm ra và gọi, “Bob à? Tôi đang ở chỗ sếp. Có tin gì mới về chìa khóa của SBB13 chưa?”.
Bộ đàm của anh ta kêu lạo xạo, rồi một giọng nói vang lên, “Thực ra thì có đấy. Lạ lắm. Tôi không thấy có ghi chú nào kể từ khi chúng ta chuyển sang vi tính hóa, nhưng sổ theo dõi trên giấy cho biết tất cả các kho dưới SBB đều đã được dọn sạch và bỏ hoang từ hơn hai mươi năm trước. Bây giờ nơi này được xếp vào khu vực không sử dụng.” Giọng nói ngừng lại, “Toàn bộ, trừ SBB13”.
Anderson giật lấy bộ đàm. “Phụ trách đây. Ý cậu là sao, tất cả trừ SBB13 à?”
“À, thưa sếp”, đầu dây bên kia trả lời, “Tôi có một ghi chú viết tay ở đây nói rằng SBB13 là phòng ‘riêng’. Cũng lâu lắm rồi, nhưng nó được chính tay Kiến trúc sư viết và ký bằng hai chữ đầu họ tên”.
Cách gọi “Kiến trúc sư”, Langdon biết, không dùng để nhắc tới người đã thiết kế Điện Capitol, mà đúng hơn là người quản lý nó. Giống như quản lý một tòa nhà, người được cử làm Kiến trúc sư của Capitol chịu trách nhiệm về mọi thứ, bao gồm cả bảo trì, sửa chữa, an ninh, thuê nhân viên, và phân phối văn phòng.
“Điều lạ lùng...”, giọng nói trong bộ đàm tiếp tục, “là tờ ghi chú của Kiến trúc sư cho biết ‘khu vực riêng’ này được dành ra cho Peter Solomon sử dụng”.
Langdon, Sato và Anderson cùng ngỡ ngàng nhìn nhau. “Thưa sếp, tôi đoán”, giọng nói tiếp tục, “ông Solomon đã giữ chìa khóa chính xuống SBB13 cũng như tất cả chìa của SBB”.
Langdon không tin nổi vào tai mình nữa. Peter có một phòng riêng dưới tầng hầm của Điện Capitol sao? Ông vẫn luôn biết Peter Solomon có nhiều bí mật, song chuyện này quả khiến mọi người đều ngạc nhiên đến sững sờ, ngay cả ông cũng không ngoại lệ.
“Được rồi”, Anderson nói, rõ ràng chẳng hứng thú chút nào. “Chúng tôi đang muốn tới đúng SBB, vậy nên hãy tiếp tục tìm chìa khóa dự phòng đi.”
“Sẽ làm ngay, thưa sếp. Chúng tôi cũng đang tìm kiếm hình ảnh kỹ thuật số sếp yêu cầu...”
“Cảm ơn”, Anderson cắt ngang, bấm nút nói và chặn lời người nhân viên lại. “Tất cả chỉ có vậy thôi. Hãy gửi file hình ảnh đó tới di động của Giám đốc Sato ngay khi các cậu tìm thấy.”
“Rõ, thưa sếp.” Bộ đàm im bặt.
Anderson trả lại bộ đàm cho người nhân viên đang đứng gần đấy.
Anh ta lấy ra bản photocopy từ một bản in gốc và đưa cho sếp của mình. “Thưa sếp, khu SBB có màu xám, và chúng tôi đã đánh dấu X vào vị trí phòng SBB13, như thế sẽ tìm ra dễ thôi. Khu này cũng khá nhỏ.”
Anderson cảm ơn anh ta và chuyển sự chú ý sang bản photocopy trong khi anh ta hối hả rời đi. Langdon nhìn vào, ngạc nhiên khi tận mắt thấy số lượng dày đặc những căn phòng tạo thành mê cung lạ lùng dưới nền Điện Capitol.
Anderson chăm chú nghiên cứu bản vẽ một lát, gật đầu, rồi nhét nó vào túi áo. Quay sang cánh cửa có ghi SBB, ông ta đưa chìa khóa ra, nhưng lại do dự, trông có vẻ bất an về việc mở cánh cửa. Langdon cũng có cảm giác tương tự. Ông không rõ đằng sau cánh cửa này có thứ gì, song ông dám chắc cho dù đó là thứ gì đi nữa, thì hiển nhiên Solomon muốn giữ bí mật về nó. Hoàn toàn bí mật.
Sato đằng hắng, và Anderson hiểu ý. Ông hít một hơi thật sâu, tra khóa chìa vào ổ, và cố xoay. Cái chìa không chuyển động. Trong khoảnh khắc, Langdon khấp khởi thầm hy vọng chìa khóa không đúng. Song đến lần thử thứ hai, chìa khóa đã xoay, và Anderson mở cửa ra.
Trong khi cánh cửa nặng nề cọt kẹt mở ra phía ngoài, một luồng không khí ẩm thấp ùa ra khắp hành lang.
Langdon dõi mắt vào bóng tối nhưng không thấy gì cả. “Giáo sư”, Anderson nói, quay lại liếc nhìn Langdon trong khi quờ quạng lần tìm một cái công tắc đèn. “Về câu hỏi của ông, chữ S trong SBB không có nghĩa là ‘Thượng viện’. Nó có nghĩa là ‘bên dưới’.”
“Bên dưới?”, Langdon bối rối hỏi lại.
Anderson gật đầu, bật công tắc nằm ngay mé trong cửa lên. Bóng điện duy nhất chiếu sáng một cầu thang dốc hun hút dẫn xuống bóng tối đặc quánh như mực. “SBB1 có nghĩa là tầng dưới tầng hầm - tầng đáy.”
1 Viết tắt của “Subbasement”.