R
obert Langdon chăm chú nghiên cứu kim tự tháp đá.
Không thể nào!
“Một mật ngữ cổ xưa”, Sato nói, không hề ngẩng lên,
“Nói cho tôi biết xem thứ này có được xếp vào loại đó không?”.
Trên mặt bên mới lộ ra của kim tự tháp là mười sáu ký tự được khắc ngay ngắn lên mặt đá nhẵn nhụi.
Bên cạnh Langdon, Anderson há hốc miệng, thể hiện đúng tâm trạng choáng váng của Langdon. Trông ông ta như thể vừa thấy một dạng bàn phím kỳ quái của nền văn minh khác.
“Giáo sư?”, Sato nói, “Tôi đoán ông có thể đọc được cái này phải không?”.
Langdon trả lời, “Sao bà lại cho là vậy?”.
“Vì ông được đưa tới đây, thưa giáo sư. Ông đã được lựa chọn. Những ký tự này có vẻ là một dạng mật mã nào đó, và dựa vào tiếng tăm của ông, tôi cảm thấy hiển nhiên ông được đưa tới đây là để giải mã chúng.”
Langdon buộc phải thừa nhận, sau những trải nghiệm tại Rome và Paris, ông đã nhận được vô số lời đề nghị trợ giúp hóa giải những mật mã bí ẩn còn gây tranh cãi trong lịch sử - chiếc đĩa Phaistos1, mật mã Dorabella2, và cả bản thảo Voynich3 kỳ bí.
1 Chiếc đĩa bằng đất sét nung được phát hiện năm 1903 tại một căn phòng nhỏ gần kho lưu trữ của cung điện trên đảo Crete, cách Địa Trung Hải năm kilomet. Trên cả hai mặt của chiếc đĩa là chữ tượng hình được sắp xếp theo hình xoáy trôn ốc. Một số nhà khoa học cho rằng đây là một bản Thánh ca, số khác thì gợi ý đây danh sách binh sĩ, hoặc một sắc lệnh của nhà vua bằng ngôn ngữ Hittic.
2 Một bức thư mã hoá do Tòng Nam tước Edward Elgar, nhà soạn nhạc người Anh, viết cho cô Dora Penny. Bức mật mã này gồm tám mươi bảy ký tự, chia làm ba dòng, có vẻ như được tạo thành từ một bảng chữ cái gồm hai mươi tư biểu tượng, mỗi biểu tượng gồm một, hai hoặc ba hình bán khuyên, xoay theo một trong tám hướng.
3 Bản thảo có độ tuổi ít nhất là bốn trăm năm, dày hai trăm ba mươi hai trang và được viết bằng một ngôn ngữ bí mật. Trong cuốn sách có hình vẽ của nhiều loài thực vật lạ kỳ, một số công thức thảo dược và hình vẽ người rất ngộ nghĩnh.
Sato chỉ tay vào đám ký tự. “Ông có thể cho tôi biết ý nghĩa của những ký hiệu này không?”
Chúng không phải là ký hiệu, Langdon thầm nghĩ. Chúng là các biểu tượng. Thứ ngôn ngữ này ông đã nhận ra ngay lập tức - một thứ ngôn ngữ được mã hóa từ thế kỷ XVII. Langdon biết rất rõ cách giải mã nó. “Thưa bà”, ông do dự nói, “Kim tự tháp này là tài sản cá nhân của Peter”.
“Nếu mật mã này quả thực chính là lý do ông được đưa tới Washington, tôi sẽ không cho ông nhắc tới tài sản cá nhân hay chung. Tôi muốn biết nó nói gì.”
Chiếc BlackBerry của Sato đổ chuông ầm ĩ, bà lập tức lấy nó ra khỏi túi, chăm chú đọc tin nhắn một hồi. Langdon thực sự kinh ngạc khi thấy hệ thống liên lạc không dây nội bộ của Tòa nhà Quốc hội có thể phủ sóng sâu xuống tận dưới này.
Sato hằm hè ngước mắt lên, ném cho Langdon một cái nhìn thật kỳ lạ.
“Phụ trách Anderson”, bà nói, quay sang phía ông ta, “Tôi muốn nói chuyện riêng với ông vài câu, được chứ?”.
Bà giám đốc ra hiệu bảo Anderson đi theo mình, và hai người biến mất vào hành lang tối đen, để Langdon lại một mình trong ánh nến chập chờn giữa phòng Chiêm nghiệm của Peter.
Phụ trách Anderson thầm hỏi tối nay rồi sẽ kết thúc thế nào. Một bàn tay bị chặt lìa trong sảnh Rotunda. Một ban thờ thần chết dưới tầng hầm tòa nhà. Rồi cả những hình khắc kỳ quái trên một kim tự tháp đá nữa chứ. Có vẻ như giờ đây trận đấu của Redskins chẳng còn quan trọng nữa.
Trong lúc đi theo Sato ra ngoài hành lang tối tăm, Anderson bật đèn pin lên. Luồng sáng phát ra rất yếu, nhưng vẫn còn hơn không. Sato dẫn ông ta đi dọc theo hành lang vài mét, ra ngoài tầm mắt của Langdon.
“Hãy nhìn qua cái này xem”, bà thì thầm, đưa chiếc BlackBerry của mình cho Anderson.
Ông ta cầm chiếc điện thoại lên, nheo mắt nhìn vào màn hình sáng lóa. Trên đó là một hình ảnh đen trắng - ảnh chụp X-quang cái túi của Langdon mà ông ta đã yêu cầu gửi cho Sato. Tương tự những hình chụp X-quang khác, vật thể có mật độ lớn nhất sẽ xuất hiện với màu trắng sáng nhất. Trong cái túi của Langdon, có một đồ vật sáng hơn mọi thứ khác. Vật thể này có vẻ rất nặng, sáng rực như một món trang sức lấp lánh giữa cả mớ đồ linh tinh khác. Hình dạng của nó không lẫn vào đâu được.
Ông ta đã mang theo thứ đó suốt buổi tối sao? Anderson ngạc nhiên nhìn Sato. “Tại sao Langdon không nhắc gì tới thứ này?”
“Một câu hỏi rất hay”, Sato thì thầm.
“Hình dạng này... không thể là ngẫu nhiên được.”
“Không”, Sato nói, giọng bây giờ đã đầy tức giận, “Tôi dám chắc là không”.
Một luồng gió nhẹ thổi tới hành lang thu hút sự chú ý của Anderson. Ông ta giật mình, chĩa đèn pin vào lối đi tối om. Tia sáng đang yếu dần chỉ làm hiện lên một hành lang trống trơn với những ô cửa mở xếp thành hàng ở hai bên.
“Này”, Anderson lên tiếng, “Có ai ngoài đó không?”. Im lặng.
Sato nhìn về phía ông ta bằng một ánh mắt thật lạ lùng, có vẻ bà đã không nghe thấy gì.
Anderson lắng nghe thêm giây lát rồi thôi. Mình cần biến khỏi đây.
Langdon đứng một mình trong căn phòng sáng ánh nến, đưa ngón tay sờ lên đường gờ sắc cạnh của những ký tự khắc trên kim tự tháp. Dù tò mò muốn biết thông điệp đó nói gì nhưng ông sẽ không xâm nhập sâu hơn vào thế giới riêng tư của Peter như họ vừa làm. Và tại sao gã tâm thần kia lại quan tâm tới cái kim tự tháp nhỏ xíu này chứ?
“Chúng ta có một vấn đề mới phát sinh, thưa giáo sư”, giọng Sato vang lên rõ to sau lưng ông. “Tôi vừa nhận được thông tin mới, và tôi đã chịu đựng quá đủ trò dối trá của ông rồi.”
Langdon ngoái lại, thấy bà giám đốc bước vào, cầm trên tay chiếc BlackBerry, đôi mắt tóe lửa. Ông ngỡ ngàng nhìn sang Anderson tìm kiếm trợ giúp, song lúc này người phụ trách đang đứng gác ngoài cửa, vẻ mặt không có chút thân thiện nào. Sato bước tới phía trước, chĩa chiếc BlackBerry kề sát mặt ông.
Langdon choáng váng nhìn lên màn hình, nơi có một bức ảnh đen trắng xoay ngược, giống như một tấm phim âm bản ma quái.
Bức hình chụp đống đồ vật lộn xộn, trong đó có một thứ sáng rực lên. Cho dù vật thể sáng nhất đó nằm nghiêng và lệch với màn hình, nhưng ông vẫn có thể nhận ra nó rõ ràng là một kim tự tháp nhỏ, đỉnh nhọn.
Một kim tự tháp tí hon ư? Langdon đưa mắt nhìn Sato. “Cái gì thế này?”
Câu hỏi dường như chỉ làm Sato nổi xung hơn nữa. “Ông giả bộ không biết sao?”
Đến lượt Langdon cáu tiết. “Tôi không hề giả bộ! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ này trước đây!”
“Vớ vẩn!”, Sato gằn giọng, thứ âm thanh sắc lạnh như lưỡi dao xuyên qua không khí ẩm ướt. “Ông đã mang nó trong túi của mình cả tối hôm nay!”
“Tôi...”, Langdon ngừng bặt lại giữa chừng. Ông từ từ nhìn xuống cái túi đeo trên vai. Rồi lại ngước nhìn vào màn hình chiếc BlackBerry. Chúa ơi... cái gói. Ông nhìn kỹ hình chụp. Giờ thì ông đã hiểu ra. Một cái hộp hình lập phương đựng kim tự tháp bên trong. Langdon choáng váng vì vỡ lẽ khi nhìn vào hình chụp X-quang cái túi của mình, và cả cái gói bí ẩn của Peter. Hóa ra hình lập phương này kỳ thực là cái hộp rỗng lòng đựng một kim tự tháp nhỏ.
Langdon mở miệng muốn nói, nhưng không cất nổi thành lời. Ông cảm thấy nghẹt thở khi nhận thức được mọi vấn đề.
Đơn giản. Rõ ràng. Khủng khiếp.
Chúa ơi. Ông nhìn lại kim tự tháp đá bị bạt bằng phần đỉnh trên mặt bàn. Phần đỉnh của nó phẳng lì - một mặt cắt có tiết diện nhỏ hình vuông - một khoảng trống đang chờ đợi mảnh ghép cuối cùng của mình... Mảnh ghép sẽ biến nó từ một Kim tự tháp Dang dở thành một Kim tự tháp Thực sự.
Giờ Langdon đã hiểu ra vật nhỏ xíu ông mang theo không phải là một kim tự tháp. Đó là một đỉnh chóp. Vào thời khắc đó, ông hiểu tại sao chỉ mình ông có thể giải mã những bí ẩn của kim tự tháp này.
Mình giữ mảnh ghép cuối cùng. Và nó thực sự là một vật hộ mệnh.
Khi Peter nói với ông cái gói chứa đựng một vật hộ mệnh, ông đã bật cười. Còn giờ ông hiểu bạn mình đã đúng. Cái đỉnh chóp nhỏ bé này quả thực là một vật hộ mệnh, nhưng không phải theo kiểu pháp thuật, mà theo một kiểu xa xưa hơn nhiều. Từ rất lâu trước khi vật hộ mệnh mang nghĩa “pháp thuật”, nó từng có một ý nghĩa khác, đó là “sự hoàn thiện”. Xuất phát từ tiếng Hy Lạp - telesma - nghĩa là “hoàn thiện”, một vật hộ mệnh là bất cứ vật thể hay ý tưởng nào giúp hoàn tất một thứ khác, biến nó thành chỉnh thể. Nhân tố hoàn thiện. Một đỉnh chóp, nói một cách hình tượng, là vật hộ mệnh tối hậu, biến đổi Kim tự tháp Dang dở thành biểu tượng của sự hoàn thiện trọn vẹn.
Lúc này, Langdon cảm thấy một sự hội tụ lạ lùng buộc ông phải chấp nhận sự thật khó tin: Ngoại trừ kích cỡ, kim tự tháp đá trong phòng Chiêm nghiệm của Peter dường như đang dần dần biến đổi, từng chút một, thành thứ ít nhiều giống với Kim tự tháp Tam Điểm trong truyền thuyết.
Căn cứ vào độ sáng của đỉnh chóp trên hình chụp X-quang, Langdon ngờ rằng nó được làm bằng một thứ kim loại rất đặc. Ông không thể biết liệu nó có phải làm từ vàng khối hay không, và sẽ không định để suy nghĩ đánh lừa mình. Kim tự tháp này quá nhỏ. Mật mã quá dễ đọc. Và... đó chỉ là một thứ hoang đường thôi, vì Chúa!
Sato đang quan sát ông. “Thưa giáo sư, tuy ông là một người hiểu biết nhưng tối nay ông đã có những lựa chọn rất tồi. Định nói dối một giám đốc tình báo ư? Hay cố ý cản trở cuộc điều tra của CIA?”
“Tôi có thể giải thích, nếu bà cho phép.”
“Ông sẽ giải thích tại trụ sở CIA. Còn lúc này, tôi bắt giữ ông.”
Langdon cứng người. “Bà đang nói nghiêm túc đấy chứ?”
“Hoàn toàn nghiêm túc. Tôi đã nói rất rõ với ông là cuộc điều tra tối nay có ý nghĩa rất quan trọng, và ông đã lựa chọn không hợp tác. Tôi thành thực khuyên ông nên bắt đầu nghĩ tới việc giải thích những hình khắc trên kim tự tháp này, vì khi chúng ta tới chỗ CIA...” Bà giám đốc giơ chiếc BlackBerry lên chụp cận cảnh các hình khắc trên kim tự tháp đá. “Các chuyên gia phân tích của tôi sẽ tiến hành thẩm định trước.”
Langdon định lên tiếng phản đối, song Sato đã quay về phía Anderson đang đứng ngoài cửa. “Phụ trách”, bà nói, “hãy cho kim tự tháp đá vào cái túi của ông Langdon và mang nó đi. Tôi sẽ phụ trách áp giải ông ấy. Đưa tôi súng của ông, được chứ?”.
Khuôn mặt Anderson vẫn lạnh lùng như đá khi ông bước vào phòng, mở nắp bao súng đeo bên vai rồi đưa súng cho Sato, ngay lập tức bà chĩa súng vào Langdon.
Langdon tưởng như tất cả là một giấc mơ. Không thể thế được.
Anderson tới bên Langdon, lấy cái túi khỏi vai ông, mang nó lại bàn rồi đặt lên ghế. Ông ta kéo khóa, vạch miệng túi ra, sau đó bê cái kim tự tháp đá nặng trịch lên khỏi mặt bàn cho vào túi, để cùng các ghi chú và cái gói nhỏ xíu của Langdon.
Đột nhiên có tiếng động vang lên ngoài hành lang. Một bóng người xuất hiện trên ngưỡng cửa, lao vào trong phòng, nhanh chóng tiến lại từ phía sau Anderson. Khi viên phụ trách còn chưa kịp phát hiện ra kẻ lạ mặt này thì nhanh như chớp, kẻ đó đã hạ vai huých mạnh vào lưng ông ta. Anderson bổ nhào về phía trước, đập đầu vào rìa hốc tường, sau đó nặng nề gục xuống mặt bàn, làm cho mấy khúc xương và các món đồ bày trên đó văng tứ tung. Chiếc đồng hồ cát rơi xuống nền đất vỡ tan. Cây nến nghiêng ngả trên sàn nhưng vẫn cháy.
Sato sững sờ trước cảnh hỗn loạn, giơ súng lên, nhưng kẻ xâm nhập đã vớ lấy một khúc xương cẳng chân và nện mạnh vào vai bà. Sato rú lên đau đớn rồi ngã ngửa ra sau, đánh rơi súng. Kẻ đó đá khẩu súng ra xa rồi quay sang Langdon. Đó là một người đàn ông da đen có thân hình cao ráo, rắn rỏi, lịch sự mà Langdon chưa gặp bao giờ.
“Cầm lấy kim tự tháp!”, người đàn ông ra lệnh, “Theo tôi!”.