• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Biểu tượng thất truyền
  3. Trang 87

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 86
  • 87
  • 88
  • More pages
  • 139
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 86
  • 87
  • 88
  • More pages
  • 139
  • Sau

Chương 82

N

hà thờ lớn Quốc gia Washington là giáo đường có quy mô lớn thứ sáu trên thế giới, cao hơn cả một tòa nhà ba mươi tầng. Được trang hoàng bằng hơn hai trăm cửa sổ lắp kính màu, một bộ chuông chùm năm mươi ba chiếc, và một cây đàn có tới mười nghìn sáu trăm bốn mươi bảy ống, kiệt tác Gothic này có sức chứa đến hơn ba nghìn người.

Song tối nay tòa giáo đường hoàn toàn vắng vẻ.

Mục sư Colin Galloway - Chánh xứ nhà thờ - trông như thể đã sống được cả mấy đời. Ông lão lưng còng với thân hình nhăn nheo mặc một bộ áo choàng đen giản dị, chậm chạp bước đi phía trước, không nói một lời. Trong bóng tối bao phủ của gian giữa giáo đường, Langdon và Katherine im lặng theo sau, dọc lối đi dài đến một trăm hai mươi mét. Lối đi này hơi lượn vòng sang trái, tạo ảo ảnh nhẹ nhàng cho thị giác. Khi tới điểm giao cắt giữa hai trục dọc và ngang của nhà thờ[35], vị chánh xứ dẫn hai người đi qua cây Thánh giá - biểu tượng ngăn cách giữa khu vực dành cho công chúng và khu vực điện thờ phía sau.

[35] Thường cấu trúc của một nhà thờ bao giờ cũng có một trục dọc và một trục ngang giao nhau thành hình cây thập tự.

Mùi trầm hương tỏa khắp không gian bên trong thánh đường. Không gian thiêng liêng này chìm trong bóng tối, chỉ thấp thoáng luồng sáng phản chiếu gián tiếp từ các trần vòm chạm hình lá phía trên cao. Cờ của năm mươi tiểu bang treo bên trên vị trí của ban hợp xướng, xung quanh trang trí mấy bức bình phong chạm trổ các tích trong Kinh Thánh. Chánh xứ Galloway tiếp tục bước đi, có vẻ đã thuộc lòng con đường này. Trong khoảnh khắc, Langdon nghĩ họ đang hướng thẳng tới chỗ ban thờ cao, nơi có gắn mười tảng đá lấy từ núi Sinai, song cuối cùng vị chánh xứ già lại rẽ trái và dò dẫm tìm đường qua một cánh cửa ẩn kín dẫn sang một khu nhà phụ phục vụ công việc hành chính.

Ba người đi xuống một hành lang ngắn, tới trước cửa một phòng làm việc có gắn tấm biến đồng thau:

MỤC SƯ TIẾN SĨ COLIN GALLOWAY CHÁNH XỨ NHÀ THỜ

Galloway mở cửa, bật đèn lên, có vẻ đã quá quen với việc ghi nhớ phép lịch sự dành cho khách khứa. Ông mời hai người vào rồi đóng cửa lại.

Phòng làm việc của vị chánh xứ khá nhỏ nhưng bài trí gọn gàng, có những giá sách cao, một bàn làm việc, một tủ đứng chạm trổ, và một phòng tắm riêng. Trên tường treo những tấm thảm dệt từ thế kỷ XVI và mấy bức họa tôn giáo. Vị chánh xứ già ra hiệu về phía hai chiếc ghế bọc da kê ngay trước bàn làm việc. Langdon ngồi xuống cùng Katherine, lấy làm mừng vì cuối cùng cũng có thể đặt cái túi đeo vai sang bên cạnh.

Nơi ẩn náu và những câu trả lời, Langdon thầm nghĩ, yên vị trên chiếc ghế êm ái.

Ông lão lê bước ra sau bàn làm việc, chậm rãi ngồi xuồng cái ghế có lưng tựa cao. Sau đó, ông vừa mệt mỏi thở dài, vừa ngẩng đầu lên, đôi mắt mờ đục nhìn chằm chằm về phía hai vị khách. Nhưng khi vị chánh xứ cất lời, giọng ông rõ ràng và mạnh mẽ đến bất ngờ.

“Tôi biết chúng ta chưa bao giờ gặp nhau”, ông lão nói, “dẫu vậy tôi có cảm giác rất quen thuộc với cả hai người”. Ông lấy một cái khăn mùi xoa ra lau miệng. “Giáo sư Langdon, những bài viết của ông không hề xa lạ với tôi, gồm cả bài viết rất xuất sắc về tính biểu tượng của nhà thờ lớn này. Còn cô Solomon, anh trai Peter của cô và tôi đã là huynh đệ Tam Điểm từ nhiều năm nay.”

“Peter đang gặp một tai họa khủng khiếp”, Katherine nói.

“Tôi cũng nghe nói như vậy”, ông lão thở dài. “Và tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp hai vị.”

Langdon không thấy vị chánh xứ đeo chiếc nhẫn Tam Điểm, song ông biết rất nhiều hội viên Tam Điểm, nhất là những người thuộc giới tăng lữ, thường lựa chọn cách giữ kín mối liên hệ của họ với Hội.

Khi bắt đầu cuộc trò chuyện, rõ ràng Chánh xứ Galloway đã biết một phần những biến cố xảy ra trong đêm từ tin nhắn của Warren Bellamy. Langdon và Katherine cho ông biết nốt phần còn lại, và càng nghe ông càng tỏ vẻ lo ngại hơn.

“Và người đàn ông đã bắt cóc Peter yêu quý của chúng ta”, vị chánh xứ nói, “khăng khăng đòi anh giải mã kim tự tháp để đổi lấy tính mạng của Peter?”.

“Vâng”, Langdon nói. “Hắn nghĩ đó là một bản đồ dẫn tới nơi cất giấu các Bí ẩn cổ xưa.”

Vị chánh xứ hướng đôi mắt mờ đục về phía Langdon. “Tai tôi mách bảo rằng giáo sư không tin vào những chuyện như thế.”

Langdon không muốn lãng phí thêm thời gian vào chuyện này. “Việc con tin vào cái gì không quan trọng. Chúng ta cần giúp Peter. Thật không may, khi chúng con giải mã kim tự tháp, kết quả chẳng đi tới đâu cả.”

Ông lão ngồi thẳng người lên. “Các vị đã giải mã kim tự tháp rồi?”

Đến đây Katherine chen vào, vội giải thích rằng bất chấp lời cảnh báo của Bellamy cũng như việc Peter yêu cầu Langdon không được mở cái gói ra, bà vẫn mở ra vì ưu tiên hàng đầu là bằng bất cứ giá nào cũng phải giúp đỡ anh trai mình. Bà kể cho vị chánh xứ biết về đỉnh chóp bằng vàng, ma phương của Albrecht Dürer, và ứng dụng của nó trong việc giải mã bản mật mã Tam Điểm gồm mười sáu chữ cái thành cụm từ “Jeova Sanctus Unus”.

“Đó là tất cả những gì nó nói sao?”, vị chánh xứ hỏi. “Đức Chúa Đích thực Duy nhất?”

“Vâng, thưa Cha”, Langdon nói. “Có vẻ kim tự tháp giống một bản đồ ẩn dụ hơn là một bản đồ địa lý.”

Vị chánh xứ chìa hai bàn tay ra. “Để tôi sờ lên nó xem sao!”

Langdon mở khóa túi và lấy kim tự tháp ra, cẩn thận bê nó đặt lên mặt bàn ngay trước mặt vị mục sư.

Langdon và Katherine cùng quan sát hai bàn tay yếu ớt run rẩy của ông lão kiểm tra từng phân trên bề mặt đá - mặt bên chạm hình, phần đáy nhẵn bóng và phần đỉnh cụt. Khi xong việc, ông lại chìa tay ra. “Còn đỉnh chóp đâu?”

Langdon lấy cái hộp đá nhỏ ra, để lên mặt bàn rồi mở nắp hộp. Sau đó, ông lấy đỉnh chóp ra và đặt nó vào hai bàn tay đã chờ sẵn của ông lão. Vị mục sư cũng xem xét đỉnh chóp theo cách tương tự, cẩn thận sờ lên toàn bộ bề mặt, dừng lại ở chỗ những hình khắc trên đỉnh chóp, có vẻ gặp chút khó khăn trong việc đọc những ký tự nhỏ xíu tao nhã khắc trên đó.

“Bí mật ẩn giấu trong Tổ Chức”, Langdon mở lời. “Và các chữ cái đầu của hai từ ‘Tổ’ và ‘Chức’ đều viết hoa.”

Khuôn mặt vị mục sư vẫn không để lộ chút cảm xúc nào khi ông đặt đỉnh chóp lên trên kim tự tháp, dùng tay cảm nhận để ghép chúng khít vào nhau. Ông dừng lại vài giây, như thể đang cầu nguyện, rồi kính cẩn áp lòng bàn tay lướt trên kim tự tháp đã hoàn chỉnh vài lần. Sau đó, ông với tay tìm cái hộp hình lập phương, dùng cả hai tay nâng nó lên, thăm dò nó thật cẩn thận, các ngón tay soát kỹ cả bên trong lẫn bên ngoài.

Xong xuôi, ông đặt cái hộp xuống và ngả lưng ra sau. “Vậy hãy cho tôi biết”, ông hỏi, giọng đột ngột trở nên nghiêm khắc. “Tại sao các vị lại đến tìm tôi?”

Câu hỏi khiến Langdon bất ngờ. “Thưa Cha, chúng con tới vì Cha đã bảo chúng con làm vậy. Và ông Bellamy nói chúng con nên tin Cha.”

“Thế nhưng các vị đâu có tin ông ấy, phải không?”

“Cha nói sao cơ?”

Đôi mắt trắng đục của vị chánh xứ nhìn chằm chằm vào Langdon. “Cái gói đựng đỉnh chóp đã được niêm phong. Ông Bellamy bảo các vị không được mở nó ra, song các vị vẫn mở. Thêm nữa, đích thân Peter Solomon đã bảo anh không được mở nó ra. Nhưng anh vẫn làm thế.”

“Thưa Cha”, Katherine xen vào, “chúng con đang cố giúp anh trai con. Kẻ bắt giữ anh ấy yêu cầu chúng con giải mã...”.

“Tôi có thể thông cảm chuyện đó”, vị chánh xứ tuyên bố, “song các vị được gì khi mở cái gói ra đây? Chẳng gì hết. Kẻ bắt giữ Peter tìm kiếm một địa điểm, và hắn sẽ không thỏa mãn với câu trả lời Jeova Sanctus Unus”.

“Con đồng ý”, Langdon nói, “song thật không may đó là tất cả những gì kim tự tháp tiết lộ. Như con đã nói, bản đồ dường như có vẻ mang nghĩa ẩn dụ nhiều hơn...”.

“Anh nhầm rồi, giáo sư”, vị chánh xứ nói. “Kim tự tháp Tam Điểm là một bản đồ thực sự. Nó chỉ tới một địa điểm có thật. Anh không hiểu được điều đó vì anh chưa giải mã được hoàn chỉnh kim tự tháp. Thậm chí còn chưa tới gần mức đó.”

Langdon và Katherine sửng sốt đưa mắt nhìn nhau.

Vị chánh xứ lại áp hai bàn tay lên kim tự tháp, gần như vuốt ve nó. “Bản đồ này, cũng giống như bản thân các Bí ẩn cổ xưa, có nhiều tầng nghĩa. Bí mật chân chính của nó vẫn còn ẩn kín.”

“Chánh xứ Galloway”, Langdon nói, “chúng con đã kiểm tra từng phân một trên bề mặt kim tự tháp và đỉnh chóp, nhưng chẳng còn gì khác nữa”.

“Với hiện trạng này thì không. Nhưng các vật thể có thể thay đổi.”

“Cha nói sao?”

“Giáo sư, như anh cũng biết, lời hứa gắn với kim tự tháp này là một trong những quyền năng tạo nên sự biến đổi kỳ diệu nhất. Truyền thuyết kể rằng kim tự tháp này có thể thay đổi hình dạng... biến đổi hình thái vật chất để hé lộ những bí mật nó mang trong mình. Giống như tảng đá nổi tiếng đưa thanh kiếm Excalibur[36] vào tay vua Arthur, Kim tự tháp Tam Điểm có thể biến đổi theo lựa chọn... và tiết lộ bí mật của mình với người xứng đáng.”

[36] Là thanh kiếm huyền thoại của vua Arthur, có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong và tượng trưng cho chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh. Theo những tư liệu còn lại về vua Arthur, xuất xứ của thanh kiếm là trong bài thơ Merlin của Robert de Boron, trong đó Excalibur chỉ có thể được rút ra khỏi đá bởi Arthur, vị vua hợp pháp.

Lúc này Langdon có cảm giác tuổi tác có thể đã lấy mất của ông lão sự tỉnh táo. “Con xin lỗi, thưa Cha. Có phải Cha đang nói kim tự tháp này có thể thực sự biến đổi vật lý theo đúng nghĩa đen không?”

“Giáo sư, nếu tôi có thể tự tay làm biến đổi kim tự tháp ngay trước mắt anh, liệu anh có tin những gì mình chứng kiến không?”

Langdon không biết trả lời thế nào nữa. “Con đoán mình không có lựa chọn nào khác.”

“Thế thì tốt. Chỉ một lúc nữa thôi, tôi sẽ thực hiện điều đó.” Ông lại lấy khăn lau miệng. “Cho phép tôi nhắc giáo sư rằng từng có một thời ngay cả những trí tuệ mẫn tiệp nhất cũng tin là trái đất phẳng. Vì nếu trái đất tròn thì chắc chắn đại dương sẽ trôi tuột đi mất. Hãy hình dung xem họ sẽ giễu cợt anh thế nào nếu anh tuyên bố ‘Không những trái đất hình cầu, mà còn có một lực hút vô hình huyền bí giữ chặt mọi thứ trên bề mặt!’.

“Có sự khác biệt”, Langdon nói, “giữa sự tồn tại của trọng lực... và khả năng làm biến đổi các vật thể bằng một cái chạm tay của Cha”.

“Thế sao? Không lẽ chúng ta vẫn đang sống trong thời đại Đen tối, vẫn còn giễu cợt giả thiết về những lực ‘huyền bí’ mà chúng ta không thể nhìn thấy hay hiểu được. Lịch sử dạy chúng ta nhiều điều, trong đó có những ý tưởng lạ lùng, hôm nay bị chúng ta nhạo báng nhưng đến một ngày kia sẽ trở thành những chân lý nổi tiếng. Tôi khẳng định có thể biến đổi kim tự tháp này bằng một lần chạm tay, và anh hoài nghi sự sáng suốt của tôi. Tôi vốn mong chờ nhiều hơn thế từ một nhà sử học. Lịch sử đầy ắp những trí tuệ vĩ đại, tất cả họ đều từng đưa ra tuyên bố tương tự... nhất loạt khẳng định con người sở hữu năng lực huyền bí mà chính mình không hề ý thức được.”

Langdon biết vị chánh xứ nói đúng. Câu cách ngôn trứ danh của trường phái Hermetic - Chẳng lẽ các ngươi không biết mình là những vị thần? - là một trong những nền tảng của các Bí ẩn cổ xưa.Thượng hạ tương liên... Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa... Hóa thần. Thông điệp kiên quyết về khả năng thần thánh hay những tiềm năng còn ẩn kín trong con người là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong các văn bản cổ xưa của vô số nền văn minh. Thậm chí cả Kinh Thánh cũng nhắc nhở trong bài Thánh ca 82:6 rằng “Các người là Chúa!”.

“Giáo sư”, ông lão nói, “tôi nhận ra rằng anh, cũng như nhiều người có học thức, thường sống trong tình trạng bị mắc kẹt giữa các thế giới - một chân trong thế giới tâm linh, một chân trong thế giới vật chất. Trái tim anh muốn tin... song tri thức của anh lại từ chối chấp nhận điều đó. Là một học giả, sẽ là khôn ngoan nếu anh học hỏi từ các trí tuệ vĩ đại của lịch sử”.

Vị mục sư ngừng lời rồi hắng giọng. “Nếu tôi nhớ chính xác, một trong những bộ óc vĩ đại nhất từng tuyên bố: ‘Thứ chúng ta không thể thấu hiểu thực sự vẫn tồn tại. Đằng sau các bí mật của tự nhiên vẫn còn nhiều thứ tinh tế, mơ hồ và không lý giải nổi. Kính ngưỡng sức mạnh nằm quá giới hạn khả năng hiểu biết của nhân loại chính là tôn giáo của tôi’.”

“Ai đã nói vậy?”, Langdon lên tiếng. “Gandhi chăng?”

“Không”, Katherine xen vào. “Albert Einstein.”

Katherine Solomon đã đọc hết những gì Einstein từng viết và không khỏi ngỡ ngàng trước lòng tôn kính sâu sắc ông dành cho những điều huyền bí, cũng như những lời tiên đoán của ông rằng đến một ngày kia đông đảo nhân loại sẽ có cùng cảm nhận đó. Tôn giáo của tương lai, Einstein tiên đoán, sẽ là một tôn giáo rộng lớn. Nó sẽ vượt cả Chúa và tránh xa khỏi giáo điều hay thần học.

Robert Langdon có vẻ đang trăn trở vật lộn với ý tưởng này. Katherine cảm nhận được vẻ thất vọng ngày càng tăng của ông với vị mục sư già cả, và cũng hiểu được cảm giác này. Nói cho cùng, hai người họ đã lặn lội tới đây để nghe những câu trả lời, nhưng lại tìm thấy một ông lão mắt lòa tuyên bố có thể làm biến đổi các vật thể chỉ bằng một cái chạm tay. Dẫu vậy, đam mê không giấu giếm ông lão dành cho các thế lực huyền bí khiến Katherine nhớ tới anh mình.

“Cha Galloway”, Katherine nói, “Peter đang gặp nguy hiểm. CIA đang truy nã chúng con. Và Warren Bellamy nói chúng con tới gặp Cha để nhờ giúp đỡ. Con không biết kim tự tháp này nói gì hay chỉ dẫn tới nơi nào, nhưng nếu giải mã nó đồng nghĩa với việc chúng ta có thể giúp Peter, vậy nên chúng ta cần làm điều đó. Ông Bellamy muốn che giấu bí mật của kim tự tháp, dù phải hy sinh tính mạng anh trai con, song vì nó, gia đình con đã chẳng nhận được gì ngoài đau khổ. Cho dù nó chứa đựng bí mật nào thì chuyện đó cũng chấm dứt tối nay”.

“Cô nói đúng”, ông lão trả lời với giọng khắc nghiệt. “Chuyện đó sẽ chấm dứt tối nay. Cô đã đảm bảo điều đó.” Ông thở dài. “Cô Solomon, khi bẻ dấu niêm phong cái hộp đó là cô đã khởi động một chuỗi những biến cố một khi xảy ra sẽ không có đường lui. Tối nay có những thế lực cô chưa hiểu hết đang vào cuộc. Không thể cứu vãn được nữa.”

Katherine sững sờ nhìn chằm chằm vào vị mục sư. Có điều gì đó như điềm báo tai họa trong giọng nói của ông, như thể ông đang nhắc tới Bảy niêm ấn[37] của sách Khải Huyền hay chiếc hộp Pandora[38].

[37] Cuốn sách do Người Ngồi Trên Ngai Vàng niêm bởi bảy con dấu. Chỉ có “Sư tử xuất thân từ chi tộc Giuđa” mới xứng đáng để mở cuốn sách này.

[38] Theo thần thoại Hy Lạp, đó là chiếc hộp mà các vị thần trên đỉnh núi Olympus tặng cho nàng Pandora - người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người. Các vị thần dặn nàng không được mở chiếc hộp đó ra, nhưng vì tò mò, Pandora đã mở chiếc hộp. Những thứ trong chiếc hộp kì bí đã khiến cho những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: Thiên tai, bệnh tật, chiến tranh... chỉ còn sót lại một chút “hy vọng” để cứu rỗi loài người do nàng kịp đóng nắp lại.

“Với tất cả sự tôn trọng, thưa Cha”, Langdon xen vào, “con không thể hình dung nổi bằng cách nào một kim tự tháp đá lại có thể khởi động bất cứ cái gì”.

“Tất nhiên là anh không thể hiểu rồi, giáo sư.” Đôi mắt mù lòa của ông lão nhìn chằm chằm vào Langdon. “Mắt anh chưa có khả năng nhận ra điều đó.”