Bọn ta làm như thế. Nhưng trước tiên Sam phải xem con ngựa. Ông vào bằng lối sau qua nhà bếp, mang theo cái chăn ngựa. Ông mặc đồng phục. Ông to gần như Boon.
Thế là bọn ta ‐ lại tất cả bọn ta ‐ một lần nữa đứng ở sân sau, lần này Ned cầm đèn để rọi sáng không phải con ngựa mà rọi bộ áo vét đính khuy đồng và áo gi‐lê với cái mũ phẳng có chữ vàng phía trước của Sam. Thật ra ta đã sợ Ned gây rắc rối với Sam và con ngựa, nhưng ta sai. Ned nói, “Ai, tôi à? Để làm gì? Mình để một ông cảnh sát tự tay dắt con ngựa đó tới Possum chẳng hay hơn sao.” Trái lại, Boon là kẻ gây rắc rối cho bọn ta và Sam. Sam nhìn con ngựa.
“Con ngựa này tốt”, Sam nói, “Tôi coi bộ nó khá lắm”.
“Dĩ nhiên,” Boon nói, “Nó không đeo còi hay chuông.
Nó cũng không có đèn pha trên đầu. Tôi ngạc nhiên là ông thấy nó”.
“Ông muốn nói gì?”, Sam nói.
“Tôi chẳng muốn nói gì”, Boon nói, “Tôi nói vậy thôi.
Ông là dân ngựa sắt. Có lẽ ông nên ra nhà ga và không cần đợi tụi tôi”.
“Đồ kh…”, cô Reba nói. Rồi cô làm lại từ đầu: “Anh không thấy anh ấy đang cố giúp anh hay sao? anh ấy vượt thẩm quyền để khi anh về tới nhà thì động vật sống đầu tiên anh gặp sẽ không phải là cảnh sát? Hắn sẽ là đứa mời anh xuống địa ngục, về lại cái xó của anh và đem theo con ngựa khốn kiếp của anh. Xin lỗi ngay đi”.
“Thôi được”, Boon nói, “Bỏ qua đi”. “Anh gọi đó là xin lỗi hả?”, cô Reba nói.
“Cô muốn gì?”, Boon nói, “Muốn tôi cúi xuống mời hắn…”.
“Anh ngậm mồm lại! Ngay lập tức!”, cô Corrie nói.
“Còn cô cũng chẳng giúp được gì”, Boon nói. “Cô đã bắt cả tôi lẫn cô Reba phải cố quên toàn bộ tiếng Anh trong vòng chưa đầy một ngày”.
“Đúng vậy”, cô Reba nói, “Cô đem một đứa từ Arkansas tới đây là đã đủ mệt, một tay nó mò thùng nước đá tìm bia, tay kia chộp bất kỳ cái gì nhỏ nhỏ mà chưa đóng đinh xuống mỗi khi không có ai nhìn. Rồi bây giờ Boon
Hogganbeck đem thêm một đứa làm tôi sợ đến mức không dám mở miệng”.
“Nó đâu có!”, cô Corrie nói, “Otis đâu có lấy cái gì mà không hỏi trước! Phải không Otis?”.
“Ừ phải”, cô Reba nói, “Hỏi nó. Chắc chắn nó biết”.
“Các cô, các cô, các cô”, Sam nói, “Con ngựa này có định đi Parsham tối nay hay không đây?”.
Vì thế bọn ta khởi sự. Nhưng thoạt tiên cô Corrie nhìn Otis và ta. “Tụi nó nên đi ngủ”, cô nói.
“Ừ”, cô Reba nói, “Ngủ trên Arkansas hay dưới Missippi hay thậm chí xa hơn, nếu tôi có cách. Nhưng bây giờ khuya rồi. Cô không thể bắt một đứa đi ngủ mà không có đứa kia, vả lại đứa của Boon là chủ một phần con ngựa.” Nhưng cuối cùng cô Reba cũng không đi được. Cô và Minnie không rảnh. Lúc này căn nhà đang tấp nập nhưng vẫn kín đáo, với vẻ đứng đắn của ngày thờ phụng Chúa: dòng thủy triều tàn dư của tối thứ Bảy vỗ bọt sóng cuối cùng vào nỗi buồn tẻ miệt mài của sinh hoạt kiếm miếng ăn và chỗ ở hàng ngày.
Vì thế Ned và Boon trùm cái chăn lên con ngựa. Rồi từ vỉa hè, bọn ta ‐ Ned, Otis và ta ‐ nhìn Boon và Sam trong chế độ đa phu… có thể không thân thiện nhưng ít ra đình chiến, cô Corrie đi giữa họ, dắt con ngựa ra giữa đường từ vòm sáng này qua vòm sáng khác trong tối Chủ nhật yên tĩnh trên đường Số Hai và Số Ba, tới nhà ga Union. Bây giờ đã quá mười giờ, chỉ còn vài ngọn đèn trong mấy nhà trọ khác (bây giờ ta đã có kinh nghiệm, ta đã là một kẻ sành điệu ‐ dĩ nhiên không thạo nhưng ít ra cũng hiểu biết. Khi gặp chỗ nào tương tự như nhà cô Reba là ta biết ngay). Nhưng các quán rượu đều tối. Thật ra ta không biết đó là quán rượu nếu chỉ đi ngang nó, vẫn còn một số điểm ta chưa rõ. Ned là người bảo bọn ta ‐ Otis và ta ‐ đó là các quán rượu, và chúng đã đóng cửa. Ta đã tưởng là không phải, chẳng đóng cũng chẳng mở, hãy nhớ ta mới ở Memphis (trên đường Catalpa) chưa tới sáu tiếng, không có bố mẹ để chỉ dẫn, ta xoay xở cũng khá.
“Họ gọi nó là luật xanh”, Ned nói. “Luật xanh là gì?” ta hỏi.
“Tôi cũng không biết”, Ned nói. “Chắc nó có nghĩa là họ hết sạch sành sanh tiền bạc vào tối thứ Bảy, và không ai còn đủ tiền đáng để thắp dầu đèn.”
“Chỉ đúng với quán rượu thôi”, Otis nói, “Như vậy chẳng hại ai. Cái gì không bán vào tối Chủ nhật thì họ cứ giữ lại rồi bán cho người ta, có lẽ cũng mấy người quen, vào thứ Hai. Nhưng giậm‐giật thì khác. Người ta có thể bán nó tối hôm nay rồi lại quay lại bán cái giậm‐giật đó lần nữa ngày mai. Đâu có mất gì. Nếu họ định đặt cái luật xanh đó lên giậm‐giật, cảnh sát sẽ tới ngăn họ”.
“Giậm‐giật là cái gì?”, ta nói.
“Mày biết nhiều lắm phải không?”, Ned nói với Otis, “Hèn chi Arkansaw giữ mày không nổi. Nếu toàn bộ dân ở đó biết nhiều như mày khi ở tuổi mày thì tới khi họ hai mươi mốt ngay cả Texas cũng không đủ chỗ chứa”.
“Cứ… t”, Otis nói. “Giậm‐giật là cái gì?”, ta hỏi.
“Cậu cố nghĩ cách giậm thức ăn cho con ngựa đó”, Ned nói với ta, vẫn lớn tiếng. “Cố bảo nó im để đưa nó tới Possum, chưa kể trước tiên phải đưa nó lên xe lửa. Ông soát vé chủ đường ray đó, vừa đẩy toa chở hàng mà không cần rút tay khỏi túi, là người làm nó nhớ tới cái đó? Có lẽ một chậu nước xà phòng cũng đủ để bà dì của mày…” ‐ lúc này ông nói với Otis ‐ “… có thể dắt mày ra phía sau chỗ nào đó rửa miệng mày.”
“Cứ… t”, Otis nói.
“Hay có lẽ thậm chí một cái roi trên tay”, Ned nói. “Cứ… t”, Otis nói. Và dĩ nhiên bọn ta gặp một ông cảnh sát. Ta muốn nói Otis thấy ông cảnh sát ngay cả trước khi ông cảnh sát thấy con ngựa. “Hết sẩy”, Otis nói. Ông cảnh sát biết cô Corrie. Rồi hiển nhiên ông cũng biết Sam.
“Anh đem nó đi đâu?”, ông ta nói, “Anh ăn trộm nó hả?”.
“Mượn nó”, Sam nói. Họ không ngừng lại. “Chúng tôi cưỡi nó để tới tới buổi cầu nguyện tối nay, bây giờ tụi tôi dắt nó về nhà.” Bọn ta đi tiếp. Otis lại nói Hết sẩy.
“Chưa từng thấy”, nó nói, “Mỗi khi tao thấy cảnh sát nói chuyện với ai là họ đưa ông ta cái gì đó. Như Minnie và cô Reba đã để sẵn cho ông ta chai bia ngay cả trước khi ông ta thò chân vào, dù cô Reba chửi ông ta trước khi ông ta tới và chửi ông ta lần nữa sau khi ông ta đi. Từ khi tao tới đây hồi mùa hè năm ngoái và biết được điều đó, mỗi ngày tao lên quảng trường Tòa án chỗ thằng cha người Ý có quầy trái cây và đậu phộng, rồi tụi cảnh sát tới, tỉnh bơ lấy quả táo hay một nắm đậu phộng.” Nó gần như chạy lon lon để bắt kịp bọn ta, nó nhỏ hơn ta nhiều. Ta muốn nói nó có vẻ không nhỏ hơn nhiều lắm cho tới khi thấy nó lon ton để theo kịp. Nó có cái gì trục trặc. Nếu là mình thì mình sẽ tự nhủ Sang năm mình sẽ lớn hơn bây giờ, chỉ vì lớn hơn vừa là tự nhiên vừa không thể tránh khỏi, bất kể mình khó tưởng tượng được mình sẽ ra sao hay có vẻ như thế nào. Và đối với mấy đứa con nít khác cũng vậy, tụi nó cũng đâu có tránh được. Nhưng Otis trông như hai, ba năm trước nó đã lớn tới cỡ lẽ ra sang năm mới tới, rồi sau đó nó thụt lùi. Nó vẫn đang nói, “Vì vậy hồi đó tao nghĩ làm cảnh sát là nhất. Nhưng không lâu tao bỏ ý đó liền. Bị hạn chế quá”.
“Hạn chế cái gì?”, Ned nói.
“Chỉ có bia, táo với đậu phộng”, Otis nói. “Ai thèm phí thời giờ vào bia, táo với đậu phộng?” Rồi nó nói ba lần Hết sẩy. “Thị trấn này là chỗ lừa‐xìn.”
“Lừa‐xìn gì?”, Ned nói. “Dĩ nhiên ở đây có con lừa. Memphis không cần mấy con la như chỗ khác sao?”
“Lừa‐xìn”, Otis nói. “Xu teng. Tiền mặt. Tui nghĩ tới thời gian tui phí phạm ở Arkansas trước khi người ta kể cho tui về Memphis. Cái răng đó. Ông đoán xem cái răng đó đáng giá bao nhiêu? Nếu bà ấy đi vào ngân hàng rồi gỡ nó ra đặt lên quầy và nói, Tui bán?”
“Ừ”, Ned nói. “Tao nhớ có một thằng nhóc như mày dưới Jefferson cũng luôn luôn nghĩ tới tiền. Mày biết bây giờ nó đang ở đâu không?”
“Ở Memphis này, nếu nó biết suy nghĩ”, Otis nói.
“Nó chưa bao giờ đi xa cỡ đó”, Ned nói. “Xa nhất là nó vào trại cải tạo của tiểu bang ở Parchman. Và tiếp tục cái kiểu như của mày thì rốt cuộc đó sẽ là nơi mày tới.”
“Nhưng không phải ngày mai”, Otis nói. “Có thể cũng không phải ngày mốt. Hết sẩy, chỗ nào mà không có một thằng cảnh sát khốn kiếp lượn lờ mà thiếu chai bia hay quả táo hay nắm đậu phộng đặt đúng vào tay hắn ngay cả trước khi hắn hỏi. Tám mươi lăm xu người ta cho tui tối hôm qua để bơm cái pee a noler thằng chó đẻ đó lấy của tui tối nay. Tui có thể bơm cái pee a noler đó miễn phí nếu tui không tình cờ biết họ định cho tui tiền để bơm, nếu tui tình cờ bước ra ngoài cửa thì tui có thể đã mất cơ hội. Và nếu tui không có ở đó thì họ sẽ cho đứa khác, bất kỳ đứa nào tình cờ đi ngang. Thấy tui nói gì không? Đôi khi chỉ nghĩ tới thôi tui cũng cảm thấy muốn bỏ cuộc, muốn dẹp.”
“Bỏ cuộc gì?” Ned nói, “Sao lại bỏ?”.
“Cứ bỏ thôi”, Otis nói, “Khi nghĩ tới bao nhiêu năm tui sống trên cái ruộng khốn nạn đó bên Arkansas, trong khi Memphis ngay đây bên kia sông mà tui không hề biết. Nếu hồi bốn, năm tuổi tui biết là sẽ phải đợi tới năm ngoái mới biết, đôi khi tui chỉ muốn bỏ cuộc và dẹp tất. Nhưng chắc tui sẽ không bỏ cuộc. Tui chắc có thể gỡ gạc lại. Ông dính tay được bao nhiêu về vụ con ngựa đó?”.
“Mày đừng để ý tới con ngựa đó”, Ned nói. “Cái mày cần làm là ngược lại đoạn đường đó về chỗ mày ngủ tối nay rồi lên giường.” Ông thậm chí ngừng lại, hơi xoay người. “Mày biết đường về không?”
“Ở đó không có gì đâu”, Otis nói. “Tui đã thử rồi. Họ canh chừng kỹ quá. Không như ở Arkansas, hồi dì Corrie còn ở nhà dì Fittie, tui có cái lỗ nhìn trộm. Nếu ông đổi chiếc ô tô đó lấy nó thì ông phải dính tay ít nhất hai trăm…” Lần này Ned xoay hẳn lại. Otis vụt chạy, phóng đi, vừa chửi Ned vừa gọi ông là đồ mọi đen ‐ một điều bố và ông nội chắc đã dạy ta trước khi ta có thể nhớ vì ta không biết hồi nào, ta chỉ biết: Người lịch lãm không bao giờ nói tới ai bằng màu da hay tôn giáo của họ.
“Nào”, ta nói. “Họ đang bỏ rơi mình.” Bây giờ họ đã cách gần hai dãy nhà và đang rẽ ở góc đường. Bọn ta chạy lon ton, Ned cũng chạy, mới bắt kịp. Nhà ga trước mặt bọn ta, Sam đang nói với một ông mặc bộ áo lao động đầy dầu mỡ cầm đèn lồng ‐ ông bẻ ghi xe lửa, một ông đường sắt.
“Thấy tôi nói chưa?”, Ned nói. “Cậu có thể tưởng tượng nổi cảnh sát cử một ông cầm lồng đèn để chỉ đường cho mình hông?” Và cháu thấy ý ta chứ: toàn thế giới (ta muốn nói tới con ngựa đua ăn cắp); ai phục vụ đức hạnh sẽ làm việc một mình, không người phụ giúp, trong vùng chân không lạnh lẽo của phán xét đã định sẵn; ở đó, khi ta cam kết với phi đức hạnh, toàn bộ vùng quê sẽ náo nức kẻ tự nguyện tới giúp ta. Hình như Sam đang cố thuyết phục cô Corrie đợi trong nhà ga với Otis và ta trong lúc họ đi tìm toa chở hàng và đưa con ngựa lên, thậm chí tình nguyện đề nghị Boon bảo vệ bọn ta bằng vóc dáng to lớn, tuổi tác và giới tính của ông: chứng tỏ rằng dù sao Sam cũng là kẻ thân thiện và đáng tin trong tình huống đa phu bế tắc. Nhưng cô Corrie không chịu, cô phát biểu cho tất cả bọn ta. Vì thế bọn ta rẽ theo chiếc đèn lồng qua cổng, vào mê hồn trận của những thềm bốc dỡ và đường ray; giờ đây chính Ned phải tiến tới cầm dây thòng lọng và dỗ dành con ngựa tới khi bọn ta có thể đi tiếp giữa mùi armoniac nồng nặc nóng hổi của nó (quý vị chưa bao giờ ngửi mùi một con ngựa sợ hãi phải không?) và tiếng thì thầm đều đều của Ned đang nói với nó, cả hai ‐ tiếng thì thầm và mùi armoniac ‐ dày đặc, cô quánh, đậm đặc giữa cái bóng lù lù của các toa chở hàng và toa hành khách không đèn bên ánh lập loè xanh đỏ của những chỗ bẻ ghi; đi cho tới khi bọn ta qua khỏi sân ga hành khách rồi theo con đường rải đá cuội bên cạnh nhánh đường dẫn tới một nhà kho lớn tối tăm có thềm bốc dỡ phía trước. Và cũng có một toa chở hàng, ánh trăng (đúng. Bây giờ bọn ta dưới ánh trăng. Không còn đèn đường và đèn nhà ga, bây giờ bọn ta ‐ ta ‐ có thể thấy ánh trăng) rọi sáng khoảng trống tám mét giữa toa xe và điểm gần nhất của thềm bốc dỡ ‐ một khoảng cách lớn ngay cả cho một con ngựa biết phóng, nói gì con ngựa ba tuổi đua trên đất phẳng (theo Ned) lại hơi khó chạy. Sam rủa thầm toàn bộ tổ chức nhà ga: ông bẻ ghi, đội nhân viên sân bãi, ông bán vé và tất tần tật.
“Tôi đi lấy con dê”, ông cầm đèn nói.
“Mình không cần con dê”, Ned nói. “Không cần biết nó có thể nhảy xa cỡ nào. Cái mình cần là rời thềm bốc dỡ hay toa chở hàng đó.”
“Anh ta nói về cái máy bẻ ghi”, Sam bảo Ned. “Đừng”, ông bảo người đàn ông cầm đèn lồng. “Tôi đã nghĩ tới việc này. Đối với đội bẻ ghi thì tám mét coi như không đáng kể. Đó là lý do tôi bảo anh mang chìa khóa khu nhà. Đi lấy mấy cái xà beng. Có lẽ ông Boon sẽ vui lòng giúp anh.”
“Sao anh không tự đi lấy?”, Boon nói. “Đường ray của anh mà. Tôi là người lạ ở đây.”
“Sao anh không đem mấy đứa nhóc này về nhà đi ngủ, nếu anh rụt rè với người lạ?”, cô Corrie nói.
“S ao cô kh ông tự đem tụi nó về nhà?”, Boon nói. “Thằng bạn cũ của cô đã bảo cô là cô khô ng có việc gì ở đây.”
“Tôi đi với ông ta lấy xà beng”, cô Corrie bảo Sam.
“Anh để mắt trông chừng mấy đứa nhỏ được chứ?”
“Thôi được, thôi được”, Boon nói. “Làm gì đi chứ, vì Chúa. Năm sáu tiếng nữa xe lửa sẽ tới trong lúc mình cứ cãi cọ ai chịu vất vả trước. Kho dụng cụ ở đâu, Jack?” Rồi ông cùng ông cầm đèn ra đi, bây giờ bọn ta chỉ còn ánh trăng. Con ngựa bây giờ không còn mùi nữa, ta thấy nó dúi mũi vào áo vét của Ned như con thú cưng. Và Sam đang nghĩ tới điều ta đã nghĩ từ khi thấy thềm bốc dỡ.
“Phía sau có một cái bệ thoai thoải”, ông nói, “Nó đã bao giờ đi trên bệ dốc chưa? Sao anh không dắt nó đi để nó thấy. Khi chúng tôi đem toa xe tới nơi, cả bọn chúng tôi có thể giúp anh khiêng nó lên nếu mình phải…”.
“Ông đừng phí thời giờ lo cho tụi tôi”, Ned nói. “Ông cứ đem cái toa chở hàng đó tới chỗ nào tụi tôi không phải nhảy qua cái hố ba thước vào toa. Con ngựa này cũng muốn đi khỏi Memphis như ông.” Nhưng ta sợ Sam nói, Anh không muốn cậu này đi với anh à? Vì ta muốn thấy cái toa chở hàng đó di chuyển. Ta không tin. Thế là bọn ta đợi. Không lâu sau, Boon và ông cầm đèn lồng quay lại với hai cái xà beng dài ít nhất hai mét, và ta nhìn (cô Corrie và Otis cũng nhìn) trong khi họ làm. Người đàn ông để cái đèn lồng xuống, leo thang lên mui xe rồi nhả bánh thắng, Sam và Boon thọc đầu xà beng giữa hai bánh sau và đường ray, bấu rồi đẩy từng cái ngắn như bơm nước, và ta vẫn không tin: toa xe đen lù lù, to cao dưới trăng, chắc nịch và vuông vắn như bức tường đen bên trong khoảng hẹp của ánh trăng bạc, một vóc dáng cao gầy vặn bánh thắng trên mui và hai vóc dáng gầy khác vừa lom khom vừa trườn vừa nhích hai cây xà beng sắt như hai cây giáo bạc phía sau hai bánh xe. Thoạt tiên toa xe nom khổng lồ và bất động, không có vẻ nhúc nhích, mà là Boon và Sam cúi rạp mình hào hùng câm nín bấu từng ly ra phía sau sức nặng chôn chặt của toa xe, toàn cảnh đất trời đắm trong ánh trăng: giờ đây nó chuyển động nhẹ nhàng tới nỗi Sam và Boon buông xà beng, rồi Boon một mình dùng tay đẩy nhẹ toa xe như thể nó là chiếc xe đẩy trẻ con, tới dọc theo thềm bốc dỡ và vào vị trí, Sam nói, “Được rồi”, và người đàn ông trên mui chèn lại bánh thắng. Vì thế bọn ta chỉ còn phải đưa con ngựa vào toa. Một việc giống như nói, Mình đang ở Alaska; bây giờ mình chỉ việc tìm mỏ vàng. Bọn ta đi vòng ra sau nhà kho. Ở đó có một cái bệ dốc. Nhưng thềm ga được xây đúng chiều cao xe bò để bốc dỡ hàng hoá, và cái bệ dốc giống đường đi cho xe cút kít và xe ba gác đẩy tay, đủ vững chắc nhưng chỉ rộng khoảng một mét rưỡi, không tay vịn. Ned đang đứng nói với con ngựa. “Nó thấy rồi”, ông nói. “Nó biết mình muốn nó bước lên, nhưng nó chưa quyết định là nó muốn lên hay không. Bây giờ tôi nhờ ông Toa Chở Hàng làm thêm một việc, mượng một cây roi.”
“Anh có roi rồi”, Boon nói. Ông ám chỉ ta ‐ một trong những tiểu xảo trời ban của ta. Ta tạo ra tiếng roi bằng cách đánh lưỡi vào màng hướng âm trong miệng, cổ họng, vòm miệng ‐ một tiếng rất sắc và lớn, khi làm đúng sẽ sắc và lớn như tiếng quất roi; cuối cùng mẹ cấm ta làm bất cứ nơi nào trong sân, khỏi nói trong nhà. Hồi đó có lần ta làm bà nội giật mình chửi thề. Nhưng chỉ một lần. Lần đó gần một năm trước vì thế bây giờ ta có thể đã quên cách làm.
“Ừ đúng”, Ned nói, “Mình có rồi”. Ông bảo ta: “Lấy một cành cây dài. Bụi hàng rào đằng kia chắc có”. Một bụi cây thủy lạp, chắc là bãi cỏ hay vườn của ai trước khi sự tiến bộ, kỹ nghệ, thương mại, đường xe lửa tới. Ta bẻ cành cây rồi trở lại. Ned dắt con ngựa tới đối diện cái bệ dốc. “Nào hai ông lớn, ông Boon và ông Toa Chở Hàng, mỗi ông bước tới một bên như hai cây trụ cổng.” Họ làm theo, bây giờ Ned đã lên nửa cái bệ dốc, cầm sợi dây dắt ngựa, đứng đối diện con ngựa và nói với nó. “Nào”, ông nói. “Thẳng tiến cái đường gà đi này tới hào quang và Possum, Tennessee, lúc hừng đông sáng mai.” Ông trở xuống, xoay con ngựa, vừa di chuyển khá nhanh vừa bảo ta: “Nó thấy cây roi rồi. Tới ngay sau nó. Đừng đụng nó hay tặc lưỡi cho tới khi tôi bảo cậu”. Ta làm theo, cả ba chúng ta ‐ Ned, con ngựa, rồi tới ta ‐ đi ra xa khỏi bệ dốc có lẽ hai chục mét, khi ấy Ned quay ngay lại và xoay con ngựa cho tới khi nó đối diện cái bệ dốc lên giữa Boon và Sam cách đó hai chục mét, ta vẫn theo sau. Khi thấy cái bệ dốc, nó dò xét. “Póp”, Ned nói. Ta tặc lưỡi, một cái lớn; con ngựa hơi nhảy, Ned cất bước, bây giờ hơi nhanh hơn, ngược về cái bệ dốc. “Lần này khi tôi bảo cậu tặc lưỡi thì cậu lấy cây roi chạm nó. Đừng đánh: chỉ chạm vào mông nó một giây sau khi cậu ‘póp’.” Ông đã đi qua Boon và Sam và lên bệ dốc. Con ngựa lúc này đang cố quyết định nên làm gì: từ chối, hay bỏ chạy (còn thêm một rắc rối nữa là phải quyết định giữa Boon và Sam, ai dễ đạp hơn) hay nhảy bổ tới rồi càn qua tất cả bọn ta. Việc ấy gần xảy ra, có lẽ Ned chờ lúc đó, một trí thông minh yếu bóng vía và nhút nhát với khả năng mỗi lúc chỉ có thể nghĩ một việc, ý nghĩ thứ hai xen vào sẽ gây hỗn loạn. “Póp”, Ned nói. Lần này ta vỗ nhẹ con ngựa như Ned đã bảo. Nó chồm, nhảy lên, hai chân trước của nó lên nửa cái bệ dốc, một chân sau (bên Boon) đạp mép bệ dốc rồi sắp trượt ra khi Boon, trước khi Ned kịp nói, dùng cả hai tay nắm chặt chân nó rồi để lại lên bệ dốc, tì sức nặng của ông lên hông nó, giờ đây con ngựa bất động, run rẩy, cả bốn chân lúc này trên bệ dốc. “Nào”, Ned nói, “Để cành cây của cậu hai bên khuỷu chân sau của nó để nó biết có vật phía sau giúp nó không ngã”.
“Để nó khỏi lùi xuống bệ dốc phải không”, Sam nói. “Mình cần một trong hai cái xà beng. Đi lấy nó, Charley.”
“Ừ”, Ned nói, “Lát nữa mình sẽ cần cái xà beng đó. Nhưng bây giờ mình chỉ cần cành cây này. Cậu nhỏ quá”, ông bảo ta, “Để ông Boon với ông Toa Chở Hàng cầm nó. Vòng phía sau khuỷu chân sau của nó như mặc quần”. Họ làm như thế, mỗi người một bên cành cây mềm. “Nào, đưa nó đi lên. Khi tôi nói ‘póp’ lần này, ‘póp’ lớn, để nó nghĩ cái quất cũng mạnh.” Nhưng ta không cần ‘póp’ nữa. Ned nói với con ngựa: “Ngoan nào, con. Mình đi Possum”, và con ngựa di chuyển, Boon và Sam di chuyển theo nó, cành cây như một vòng dây ép nó đi, hai chân trước của nó lúc này trên thềm cứng, rồi ào vội vàng một cái cuối cùng, mặt thềm bốc dỡ vang dội như thể nó nhảy lên cây cầu gỗ.
“Mình cần thêm thứ khác ngoài cành cây này hay tiếng tặc lưỡi của cậu ấy mới đưa nó vào toa xe được”, Sam nói.
“Cái xà beng sẽ đưa nó vào toa hàng”, Ned nói, “Xà beng tới chưa?” Cây xà beng tới. “Cậy cái đường gà đi này ra”, Ned nói.
“Khoan”, Sam nói, “Để làm gì?”.
“Cho nó bước lên để vào toa hàng”, Ned nói. “Bây giờ nó quen rồi. Nó đã biết đằng kia không có gì làm hại hay làm trượt chân nó”.
“Nhưng nó chưa ngửi mùi bên trong toa hàng trống rỗng bao giờ”, Sam nói, “Tôi đang nghĩ tới chuyện đó”. Nhưng ý kiến của Ned có lý. Vả lại, bọn ta đã đi quá xa để do dự lúc này, ngay cả nếu Ned ra lệnh cho bọn ta phá sập cả hai bức tường nhà kho để con ngựa không phải quay ngang. Vì thế Boon và ông đường ray cậy cái bệ dốc khỏi thềm bốc dỡ.
“Chết tiệt”, Sam nói, “Không thể làm khe khẽ một chút được à?”.
“Ông không đến đây với tụi tôi hả?”, Ned hỏi, “Chắc chắn với mấy cái cúc đồng đó ông có thể giúp hơn là chỉ đeo nó rồi đi loanh quanh.” Nhưng cần tất cả bọn ta, kể cả cô Corrie, mới đủ sức vác cái bệ dốc lên thềm bốc dỡ rồi khiêng nó qua đặt nằm như cầu nối từ thềm vào lỗ trống đen ngòm của cánh cửa toa đang mở. Khi ấy Ned dắt con ngựa lên, và lập tức ta hiểu Sam muốn nói gì. Con ngựa không những chưa bao giờ ngửi mùi một toa chở hàng trống rỗng, mà khác với người, nó còn thấy được bên trong; ta nhớ mình nghĩ Bây giờ đã phá cái bệ dốc, mình không thể đưa nó ra khỏi thềm bốc dỡ nữa trước khi trời sáng. Nhưng việc ấy không xảy ra. Ta muốn nói là chẳng có gì xảy ra. Ta muốn nói ta không biết chuyện gì xảy ra; bọn ta chẳng ai biết. Ned dắt con ngựa tới đầu bệ dốc hiện là cây cầu, móng nó vang rền trên mấy tấm ván, Ned đứng trên cầu ngay bên trong cửa, vừa nói với con ngựa vừa kéo nhẹ sợi dây thòng lọng tới khi con ngựa đặt một chân trước lên cầu, và ta không biết mình đang nghĩ gì; một tích tắc trước ta tin rằng tất cả Memphis cũng không đủ người để đưa con ngựa này vào cái lỗ đen ấy, rồi một giây sau ta mong rằng một cái chồm và nhảy tương tự sẽ đưa con ngựa vào toa hàng như lúc nó lên cái bệ dốc; khi con ngựa nhấc chân và lùi lại thềm bốc dỡ, nó và Ned đối diện nhau như một hoạt cảnh. Ta nghe Ned thở một cái. “Mọi người lùi lại bức tường”, ông nói. Bọn ta lùi lại. Ta không biết lúc ấy ông làm gì. Ta chỉ thấy một tay ông cầm sợi dây thừng, tay kia vuốt ve, sờ mõm con ngựa. Rồi ông bước lui vào toa xe và biến mất, sợi dây thừng kéo căng nhưng chỉ có tiếng ông vọng ra: “Nào, con. Xong rồi”.
“Ối trời ơi”, Sam nói. Bởi vì thế là xong. Chiếc cầu ọp ẹp lách cách, hang tối bên trong toa xe vang tiếng móng ngựa, thế thôi. Bọn ta mang đèn lồng vào, mắt con ngựa lấp lánh hờ hững rồi biến mất nơi Ned đứng trong góc.
“Ván với đinh ông nói đâu?”, ông hỏi Sam, “Khiêng cái đường gà đi đó vào, nó đã là nguyên một bức tường rồi”.
“Đồ quỷ”, Sam nói, “Khoan đã”.
“Sáng mai người ta tới đây đã thấy mất nguyên một toa chở hàng”, Ned nói, “họ sẽ không có thời giờ chấp nhặt tới việc mất cái thang tự chế trong chuồng gà nhà ai đó.” Vì thế cả bọn chúng ta trừ Ned ‐ kể cả cô Corrie ‐ một lần nữa khiêng cái bệ dốc ăn cắp vào toa, dựng nó lên và giữ nó đứng tại chỗ trong khi Boon, Sam và ông đường ray (Sam cũng đã mang sẵn mấy tấm ván và đinh) làm một cái chuồng chung quanh con ngựa ở góc toa; trước khi Ned có thể càu nhàu, Sam đã có một xô nước, một thùng ngũ cốc và thậm chí một bó cỏ khô; giờ đây tất cả mọi người lùi lại trong tiếng nhai nhóp nhép thỏa mãn của con ngựa. “Ngay lúc này nó y như đang ở Possum”, Ned nói.
“Quý vị nên ước gì ngày mốt nó vượt qua vạch đích trước tiên”, Sam nói. “Mấy giờ rồi nhỉ?” Rồi chính ông bảo bọn ta: “Vừa mới quá nửa đêm. Tới lúc ngủ một chút trước khi xe lửa đi lúc bốn giờ.” Rồi ông nói với Boon, “Ông với Ned hẳn muốn ở lại đây với con ngựa của ông; vì thế tôi đem thêm mớ cỏ khô đó. Vậy ông ngủ ở đây, tôi sẽ đưa Corrie với mấy cậu này về nhà rồi cả bọn mình sẽ gặp ở đây lúc…”.
“Cứ làm như anh nói”, Boon nói, không khó chịu nhưng với vẻ dứt khoát lạnh lùng. “Anh gặp ở đây lúc bốn giờ. Nếu anh không ngủ quên, có lẽ chúng tôi sẽ gặp anh.” Ông đã quay lưng, “Đi nào, Corrie”.
“Ông định để chiếc ô tô của sếp ông ‐ tôi muốn nói con ngựa của sếp ông ‐ tôi muốn nói con ngựa này, bất kể nó thật sự của ai ‐ ở đây không ai canh chừng trừ anh chàng da đen này?”, Sam nói.
“Không”, Boon nói, “Con ngựa đó bây giờ của bên đường sắt. Tôi có giấy gửi hành lý chứng minh. Có lẽ anh chỉ mượn bộ áo xe lửa đó để lấy le với đàn bà và con nít, nhưng khi mặc nó anh nên xài nó để lấy le với hành lý ký gửi nếu không ngành đường sắt có thể không thích”.
“Boon!”, cô Corrie nói. “Tôi không về nhà với ai! Đi nào, Lucius, cháu với Otis.”
“Thôi được”, Sam nói, “Mình cứ quên là Boon phải đầu tắt mặt tối năm, sáu tháng trên ruộng bông gòn hay bất kỳ chỗ nào để được ở một đêm trên đường Catalpa. Mọi người cứ đi. Tôi sẽ gặp mọi người ở trên tàu”.
“Anh không nói một tiếng cảm ơn được à?” cô Corrie nói với Boon.
“Ừ,” Boon nói. “Tôi nợ ai tiếng cảm ơn? Con ngựa?”
“Thử nói với Ned kìa”, Sam nói. Ông nói với Ned:
“Anh muốn tôi ở đây với anh không?”.
“Tụi tôi yên ổn cả,” Ned nói, “Có lẽ nếu ông cũng đi luôn thì ở đây sẽ đủ yên lặng cho người ta ngủ. Bây giờ tôi chỉ ước gì tôi nghĩ kịp để…”.
“Tôi đã nghĩ tới,” Sam nói. “Cái xô kia đâu, Charley?” Ông đường sắt ‐ ông bẻ ghi, hay ông gì đó ‐ đã mang nó; nó nằm cùng góc toa với mấy tấm ván, đinh, dụng cụ và thức ăn cho ngựa; cái xô đựng một miếng bánh mì thịt nguội dày, một lít nước và một chai rượu nửa lít. “Đây”, Sam nói, “Cả điểm tâm nữa”.
“À”, Ned nói, “Ông tên gì, ông da trắng?”. “Sam Caldwell”, Sam nói.
“Sam Caldwell”, Ned nói, “Tôi bỗng thấy Sam Caldwell là cái tên đẹp cho kiểu làm ăn liên quan tới ngựa này, đẹp gấp đôi mấy cái tên có thể kể ra ở đây. Ngoài ra, tôi ước gì tôi và ông gặp nhau đủ thường xuyên để quen biết lâu dài. Cảm ơn rất nhiều”.
“Tôi rất hoan nghênh”, Sam nói. Thế là bọn ta (tất cả, chỉ trừ Boon và Otis) tạm biệt Sam, Ned và Charley rồi đi về nhà cô Reba. Giờ đây đường phố trống vắng và yên tĩnh, Memphis dùng ngày cuối tuần mệt mỏi rã rời để ít ra là ngủ và nghỉ ngơi, sẵn sàng đối diện với sáng thứ Hai. Bọn ta cũng lặng lẽ đi qua những ngọn đèn hoang vắng giữa các bờ tường và khung cửa sổ tối, trừ ngọn đèn đơn độc yếu ớt mà bản năng phóng đãng mới có không thể sai lầm của ta đã mơ hồ nhận ngay ra là chỗ cạnh tranh với cô Reba; một ngọn đèn đơn độc cũng vàng vọt tương tự phía sau màn cửa nhà cô Reba, vì ngay cả ở đây nỗi day dứt lúc này cũng phải tự tàn lụi; ngay cả Minnie cũng đã ngủ hay về nhà hay nghỉ ở đâu đó sau buổi kinh chiều của công việc làm ăn chỗ cô Reba. Vì chính cô Reba mở cửa trước cho bọn ta, nồng nặc mùi gin và trong vẻ bay bướm rắn rỏi của cô, thậm chí có vẻ cô cũng sắp đi ngủ. Cô cũng đã thay lớp vỏ bên ngoài. Lớp này không có gì che phủ, và hồi đó các mệnh phụ ‐ phụ nữ ‐ không bôi mặt, vì thế đó cũng là lần đầu tiên ta thấy. Và cô đeo nhiều kim cương hơn, cũng lớn và vàng nhạt như hai viên trước. Không: năm. Nhưng Minnie cũng chưa ngủ. Cô đang đứng ở cửa phòng cô Reba, có vẻ sắp kiệt sức.
“Xong hết rồi hả?”, cô Reba vừa nói vừa khóa cửa lại sau lưng bọn ta.
“Ừ”, cô Corrie nói, “Tại sao cô không đi ngủ? Minnie, đưa cô ấy đi ngủ”.
“Lẽ ra cô bảo tôi câu đó một giờ trước”, Minnie nói, “Tôi ước gì hai giờ nữa không ai bảo câu đó. Nhưng cô không ở đây hồi hai năm trước”.
“Đi ngủ đi”, cô Corrie nói, “Thứ Tư tụi tôi từ Possum về…”.
“Là Parsham, chết tiệt”, cô Reba nói.
“Được rồi”, cô Corrie nói, “… thứ Tư, Minnie sẽ tìm ra chỗ ông ấy ở đâu rồi mình sẽ đi đem ông ấy về.”
“Ừ”, cô Reba nói, “Rồi lần này chôn hắn ngay trong cái mương đó, cuốc xẻng đủ cả, nếu tôi còn biết nghĩ. Nhậu không?”, cô nói với Boon, “Minnie là tín đồ phái Khoa học Kito1 trời đánh hay một tay Cộng hòa hay gì đó và không chịu uống”.
1 Christian Science là một giáo phái do bà Mary Baker Eddy sáng lập năm 1866, đặt nền tảng trên Kinh Thánh và sách Science and Health with Key to the Scriptures của bà, dựa trên đức tin để chữa trị bệnh tật. (ND)
“Ở đây có người không cần là loại nào”, Minnie nói, “Khỏi cần là Cộng hòa. Chỉ cần mệt hết hơi rồi muốn đi ngủ”.
“Cả bọn chúng tôi cũng cần ngủ”, cô Corrie nói, “Chuyến xe lửa đó rời ga lúc bốn giờ, bây giờ đã quá một giờ. Nào, nào”.
“Thì cứ đi ngủ”, cô Reba nói, “Đứa quỷ nào cản cô?” Vì thế bọn ta lên lầu. Khi ấy Otis và ta lại lên tầng trên; nó biết đường: gác sát mái nhà, trên đó chẳng có gì ngoài rương hòm và một cái nệm trải trên sàn làm giường ngủ. Otis có áo ngủ (áo ngủ vẫn còn nếp, ta chắc cô Corrie đã mua từ cửa hàng may sẵn), nhưng nó đi ngủ như ta: cởi quần và giày rồi tắt đèn nằm xuống. Căn gác có một cửa sổ nhỏ, giờ đây bọn ta có thể thấy trăng, rồi nhờ ánh trăng ta có thể thấy bên trong phòng; thằng này có điều gì trục trặc; ta mệt mỏi và lúc lên cầu thang ta đã nghĩ mình sẽ ngủ trước khi kịp nằm xuống. Nhưng ta có thể cảm thấy nó đang nằm đó cạnh mình, không chỉ tỉnh thao láo, mà như một kẻ cả đời chưa hề ngủ. Và bất chợt ta cũng cảm thấy mình có điều gì trục trặc. Như thể ta chưa biết là gì ngoại trừ có điều gì đó trục trặc, và trong tích tắc ta sẽ biết và sẽ căm ghét; ta bỗng không muốn ở đó nữa, không muốn ở Memphis hay từng nghe tới Memphis, ta muốn ở nhà. Otis lại nói Hết sẩy.
“Chỗ này là chỗ lừa‐xìn”, nó nói. “Thậm chí mày có thể ngửi thấy nó. Thiệt là bất công khi chỉ đàn bà mới có thể làm tiền giậm‐giật trong khi đàn ông chỉ có thể cố gỡ gạc một chút lúc nó thoáng qua…” Lại chữ đó, ta đã hỏi nghĩa của nó hai lần. Nhưng sẽ không hỏi nữa, không hỏi nữa, ta nằm đó căng thẳng, ánh trăng chiếu qua cửa sổ vắt lên chân ta và Otis, cố không nghe nó nhưng phải nghe: “… một trong mấy căn phòng ngay bên dưới; tối nào đông như thứ Bảy, mày có thể nghe tiếng họ xuyên qua sàn. Nhưng ở đây không có cơ hội. Ngay cả nếu tao kiếm được cái khoan rồi dùi một lỗ nhìn trộm qua sàn thì bà da đen đó và cô Reba sẽ không cho tao đem ai lên đây để kiếm tiền, và ngay cả nếu tao kiếm ra chắc chắn họ sẽ tịch thu của tao như thằng chó đẻ đã lấy số tiền pee a noler đó hôm nay. Nhưng hồi ở nhà dì Fittie thì khác, khi Bee…”, nó ngừng lại. Nó nằm không nhúc nhích. Nó lại nói Hết sẩy.
“Bee?”, ta nói. Nhưng quá trễ. Không, không quá trễ. Vì bây giờ ta đã biết.
“Mày mấy tuổi?”, nó nói. “Mười một”, ta nói.
“Vậy thì mày hơn tao một tuổi”, nó nói, “Bết quá, sau tối nay mày không còn ở đây. Nếu mày ở lại đây tuần tới thì mình có thể tìm cách moi cái lỗ nhìn trộm đó”.
“Để làm gì?”, ta nói. Thấy chưa, ta phải hỏi. Vì ta muốn về nhà. Ta cần mẹ. Vì ta nên được chuẩn bị để học kinh nghiệm, kiến thức, hiểu biết: chứ không để bị tấn công bất ngờ trong bóng tối như khi gặp bọn cướp đường cướp chợ. Ta mới mười một, nhớ chứ. Trên đời có những điều, tình huống, hoàn cảnh không nên gặp nhưng phải gặp, và ta không thể tránh nó, thật ra, ta sẽ không tránh nó ngay cả nếu ta có cơ hội, vì nó cũng là một phần của Vận động, của việc tham gia vào cuộc sống khi còn sống. Nhưng lẽ ra những điều ấy nên đến một cách khoan dung, tề chỉnh. Ta đang phải học quá nhiều và quá nhanh, không ai phụ giúp; ta không có nơi nào để cất chúng, không chỗ đựng, không sẵn ngăn kéo, nhưng phải nhận chúng mà không được đau đớn và rách toạc. Nó đang nằm ngửa, như ta. Nó không cử động, ngay cả cặp mắt của nó. Nhưng ta có thể cảm thấy nó đang nhìn mình.
“Mày không biết nhiều phải không?”, nó hỏi, “Mày nói mày ở đâu tới?”.
“Missippi”, ta nói.
“Cứ‐t”, nó nói, “Hèn chi mày chả biết gì”. “Thôi được”, ta nói, “Bee là cô Corrie”.
“Đây này, tao đang ném tiền qua cửa sổ”, nó nói, “Nhưng có lẽ cả tao lẫn mày có thể từ đó kiếm chác được. Ừ. Tên dì là Everbe Corinthia, cùng tên với bà ngoại. Cái tên thiệt là quái quỷ. Ngay cả ở Kiblett cũng không làm ăn được với cái tên đó, ở đó một số người đã biết và quen với nó, một số khác luôn luôn chế nhạo bất kể dì ấy tự xưng là gì. Nhưng ở Memphis này, trong cái nhà như thế này, họ bảo tao là con gái ở Memphis đều muốn vào mỗi khi có phòng trống. Vì vậy cũng không khác gì với hồi ở Kiblett sau khi má dì chết và dì Fittie nuôi dì rồi bắt đầu cho dì hành nghề ngay khi dì đủ lớn. Rồi khi biết ở Memphis có nhiều tiền hơn nên dì tới đây, không ai biết về Everbe vì vậy dì có thể tự xưng là Corrie. Vì vậy mỗi khi tao tới đây thăm dì, như hè năm ngoái và bây giờ, vì tao biết về Everbe nên dì cho tao năm xu mỗi ngày để đừng nói với ai. Mày thấy chưa? Thay vì kể cho mày như tao đã buột miệng, thay vào đó tao chỉ cần tới nói với dì: Năm xu mỗi ngày cháu có thể cố đừng quên, nhưng mười xu mỗi ngày thì sẽ khó quên gấp đôi. Nhưng chẳng sao; ngày mai tao có thể nói với dì là mày cũng biết, và có lẽ hai đứa mình có thể…”.
“Dì Fittie là ai?”, ta hỏi.
“Tao không biết”, nó nói, “Người ta gọi bả là dì Fittie. Bả có thể là họ hàng với tụi tao, nhưng tao không biết. Bả sống một mình trong căn nhà ở ven thị trấn tới khi bả đem Bee về sau khi má Bee chết, và ngay khi Bee đủ lớn, không cần lâu vì Bee đã to lớn từ hồi chưa tới mười, mười một, mười hai hay tuổi nào đó, rồi bắt đầu…”.
“Bắt đầu cái gì?”, ta hỏi. Thấy chưa? Ta phải hỏi. Ta đã đi quá xa để bây giờ ngừng lại, như hôm qua ở Jefferson ‐ hay có phải là hôm qua? Năm ngoái, một thời khác, một đời khác, một Lucius Priest khác. “Giậm‐giật là gì?”
Nó bảo ta, với vẻ khinh bỉ nhưng gần như ngờ vực, gần như kinh ngạc, gần như sửng sốt kính nể. “Đó là chỗ tao có lỗ nhìn trộm ‐ một mắt gỗ trên bức tường phía sau, có miếng thiếc che để không ai ngoài tao biết cách mở, trong khi dì Fittie ở bên ngoài thu tiền và coi chừng. Mấy đứa cỡ mày phải đứng lên cái thùng, tao tính năm xu, tới khi dì Fittie biết tao cho mấy ông người lớn nhìn lấy mười xu, thay vì để họ phải vào trong tốn năm chục xu, rồi dì kêu réo như con mèo rừng…”
Lúc này ta vùng dậy, đánh nó, dữ tới nỗi nó ngạc nhiên (cả ta nữa), ta phải cúi khom túm lấy nó và kéo giật nó lên. Ta không biết gì về đấm bốc và chẳng biết đánh nhau. Nhưng ta biết chắc điều ta muốn làm: không chỉ làm nó đau mà còn muốn diệt nó nữa. Ta nhớ lúc ấy có lẽ mình ân hận một tích tắc (vì tinh thần hiệp sĩ truyền thống nơi sân trường Eton2) là nó không gần bằng cỡ với ta.
2 Eton College là trường trung học ở Anh, do hoàng đế Henry VI thành lập năm 1440 đã đào tạo nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới. (ND)
Nhưng không lâu hơn một tích tắc, ta đánh, cào, đá không phải một thằng mười tuổi teo tóp, mà là thằng Otis lẫn mụ tú bà: thằng quỷ con làm nhục đời tư cô ấy và mụ phù thủy làm băng hoại sự vô tội của cô ấy ‐ một xác thân để bầm dập và tan nát, một tâm hồn để đày đọa và thống khổ; hơn nữa: không chỉ hai kẻ ấy, mà tất cả những kẻ đã tham dự vào việc hạ thấp cô ấy, không chỉ hai kẻ lừa gạt, mà cả bọn trẻ đê tiện vô cảm lẫn bọn đàn ông tàn nhẫn trơ tráo đã trả đồng xu của chúng để nhìn cô mất danh giá, vô phương tự vệ, không ai bênh vực và không được trả thù. Nó nhào sõng soài qua nệm giường, bò lồm cồm, quờ quạng tìm cái quần đã cởi của nó; ta không biết vì sao (bất cần), ngay cả khi tay nó đưa lên. Khi ấy ta mới thấy lưỡi dao bỏ túi nằm trong tay nó, ta cũng bất cần; con dao làm bọn ta ngang sức, cho ta carte blanche3. Ta giật con dao khỏi tay nó. Ta không biết mình làm cách nào; ta không hề cảm thấy lưỡi dao; ta ném con dao đi rồi lại đánh nó, khi thấy máu trên mặt nó, ta nghĩ là máu của nó.
3 Tự do hành động. (ND)
Rồi Boon nhấc bổng ta khỏi sàn nhà, lúc này ta vừa vùng vẫy vừa khóc. Ông đi chân trần, chỉ mặc cái quần. Cô Corrie cũng ở đó, trong bộ kimono, tóc cô buông xõa quá eo. Otis bị đẩy sát vào tường, không khóc nhưng nó chửi như đã chửi Ned. “Việc quái gì đây”, Boon nói.
“Tay nó”, cô Corrie nói. Cô ngừng đủ lâu để quay nhìn Otis. “Đi qua phòng dì”, cô nói. “Đi.” Nó đi ra. Boon đặt ta xuống. “Để cô xem”, cô nói. Lúc đó ta mới biết máu từ đâu chảy ra ‐ một vết cắt gọn qua lòng bốn ngón tay; chắc ta đã nắm lưỡi dao lúc Otis định giật lại. Máu vẫn chảy. Máu lại chảy khi cô Corrie mở bàn tay ta.
“Cậu đánh nhau vì việc quái quỷ gì thế?”, Boon hỏi. “Không gì cả”, ta nói, rút tay lại.
“Cứ nắm đến khi cô quay lại”, cô Corrie nói. Cô đi ra rồi trở lại với chậu nước, một khăn lau, một cái chai và một thứ trông như mảnh áo sơ mi đàn ông. Cô lau sạch máu rồi rút nút chai. “Sẽ bị nhói đấy”, cô nói. Nhói. Cô xé một dải áo sơ mi rồi băng tay ta.
“Nó vẫn không nói tụi nó đánh nhau vì việc gì”, Boon nói, “Ít nhất tôi hy vọng nó là đứa gây sự: vóc dáng không bằng nửa cậu dù nó lớn hơn một tuổi. Hèn gì nó rút dao…”.
“Nó nhỏ hơn”, ta nói, “Nó mười tuổi”.
“Nó nói với tôi nó mười hai”, Boon nói. Khi ấy ta biết Otis trục trặc chuyện gì.
“Mười hai à?”, cô Corrie nói. “Thứ Hai tuần sau nó mười lăm tuổi.” Cô nhìn tôi, “Cháu muốn…”.
“Cứ để nó ngoài đó”, ta nói, “Cháu mệt. Cháu muốn đi ngủ”.
“Đừng lo về Otis”, cô nói, “Sáng nay nó sẽ về nhà. Có chuyến xe lửa lúc chín giờ. Cô sẽ bảo Minnie ra ga với nó, và
bảo cô ấy coi chừng nó lên xe và đứng chỗ nào cô ấy thấy mặt nó qua cửa sổ cho tới khi xe lửa chạy”.
“Ừ”, Boon nói, “Và nó có thể lấy túi hành lý của tôi để đựng phong cách lịch sự và văn hóa mang về. Đem nó qua Memphis một tuần trong một cái…”.
“Anh im đi”, cô Corrie nói.
“… nhà để tìm phong cách lịch sự và văn hóa. Có lẽ nó tìm thấy rồi, nó có thể đã săn tìm nhiều năm khắp mấy cái ổ mèo ở Arkansas vẫn chưa thấy ai cùng cỡ với nó để rút con dao bỏ túi…”
“Thôi đi! Thôi đi!”, cô Corrie nói.
“Được, được”, Boon nói, “Nhưng dù sao Lucius cũng phải biết tên chỗ cậu ấy đang ở để khoe cậu ấy đã ở đâu.” Rồi họ tắt đèn và đi ra. Hay ta nghĩ như thế. Đèn lại bật lên, lần này là Boon. “Có lẽ cậu nên kể cho tôi là chuyện gì”, ông nói.
“Không”, ta nói. Ông nhìn xuống ta, khổng lồ, cởi trần, bàn tay ông đưa lên ngọn đèn để tắt nó lần nữa.
“Mười một tuổi”, ông nói, “đã bị dao cắt vì một vụ cãi nhau trong ổ điếm.” Ông nhìn ta. “Tôi ước gì tôi biết cậu ba chục năm trước. Có cậu dạy lúc tôi mười một tuổi thì có lẽ lúc này tôi cũng biết nghĩ. Ngủ ngon.”
“Chúc ngủ ngon”, ta nói. Ông tắt đèn. Khi ta đã thiếp ngủ, lần này là cô Corrie, quỳ bên cạnh tấm nệm. Ta thấy khuôn mặt cô và trăng xuyên qua tóc cô. Cô là người khóc lần này ‐ một cô gái to lớn, quá to lớn để biết cách khóc cho duyên dáng: chỉ lặng lẽ.
“Cô đã bắt nó kể cho cô”, cô nói, “Cháu đánh nhau vì cô. Cô đã có người ‐ bọn say ‐ đánh nhau bởi cô, nhưng cháu là người đầu tiên đánh vì cô. Cháu thấy đấy, cô không quen được như thế. Vì vậy cô không biết làm gì. Ngoại trừ một điều. Cô có thể làm điều đó. Cô muốn hứa với cháu. Hồi ở Arkansas là lỗi của cô. Nhưng cô sẽ không phạm lỗi nữa.” Thấy không? Ta phải học quá nhanh; ta phải nhảy bổ vào bóng tối rồi hy vọng Điều gì ‐ Nó ‐ Chúng ‐ sẽ giúp mình đặt bàn chân vào đúng chỗ. Vì thế, có lẽ rốt cuộc còn có những thứ khác ngoài cái nghèo và phi đức hạnh biết lo cho đồng loại.
“Cũng không phải lỗi của cô”, ta nói.
“Lỗi của cô. Chúng ta có thể chọn. Chúng ta có thể quyết định. Chúng ta có thể nói Không. Chúng ta có thể tìm một việc làm. Nhưng cô sẽ không phạm lỗi nữa. Cô muốn hứa với cháu điều đó. Cô sẽ giữ lời hứa, như cháu đã giữ lời hứa cháu kể với ông Binford trước bữa ăn tối nay. Cháu sẽ phải nhận lời hứa của cô. Cháu nhận không?”
“Vâng”, ta nói.
“Nhưng cháu phải nói cháu nhận lời hứa của cô. Cháu phải nói lớn.”
“Vâng”, tôi nói, “Cháu nhận lời hứa của cô”.
“Bây giờ cố ngủ lại”, cô nói, “Cô đã mang cái ghế, cô sẽ ngồi đây sẵn sàng đánh thức cháu dậy đúng giờ ra nhà ga”.
“Cô cũng đi ngủ đi”, ta nói.
“Cô không buồn ngủ”, cô nói, “Cô chỉ ngồi đây thôi. Cháu cứ ngủ lại đi.” Và lần này lại tới Boon. Ánh trăng chiếu qua ô cửa sổ đã chuyển qua nơi khác, vì thế tôi đã ngủ lần này, giọng ông cố thì thầm hay đều đều, lù lù cởi trần tới eo trên cái ghế nhà bếp nơi Everbe (ta muốn nói cô Corrie) ngồi, bàn tay ông nắm cánh tay mệt mỏi của cô:
“Nào. Mình chỉ còn một giờ.”
“Buông tôi ra”, cô cũng thì thầm, “Khuya quá rồi. Buông tôi ra, Boon.” Rồi tiếng thì thầm khó chịu của ông, vẫn cố, vẫn gắng thì thầm:
“Cô nghĩ tôi đi bằng ấy quãng đường, đợi bấy nhiêu lâu, làm lụng, dành dụm và chờ đợi để làm quái gì chứ…” Rồi hình ô cửa sổ sáng trăng di chuyển thêm, và ta nghe tiếng gà gáy đâu đó, bàn tay đứt của ta bị nằm đè lên và đau, có lẽ chính nó đã đánh thức ta. Cho nên ta không biết vẫn là lúc trước hay ông đã đi rồi trở lại: chỉ có tiếng nói, vẫn cố thì thầm, và nếu gà gáy thì đó là giờ thức dậy. Và, ồ phải, cô vẫn đang khóc.
“Không! Không! Để tôi yên!”
“Được rồi, được rồi. Nhưng tối nay, chỉ tối nay thôi; tối mai, khi mình ở Possum…”
“Không! Ngày mai cũng không! Tôi không thể! Không thể! Để tôi yên! Làm ơn, Boon. Làm ơn!”