• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Bọn đạo chích
  3. Trang 12

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 16
  • Sau

9

Ned nói đúng. Ta muốn nói về tin đồn đã lan đi.

Tay ta không có gì rắc rối khi Everbe tháo cái găng cưỡi ngựa ra. Ta muốn nói là nó vẫn cảm giác như bàn tay của bất kỳ ai hôm qua bị cắt vào mấy ngón tay. Ta không nghĩ nó còn chảy máu, ngay cả khi ta dùng tay ghìm Sấm Sét chiều nay. Nhưng Everbe thì không. Vì thế trước tiên bọn ta ngừng ở nhà bác sĩ khoảng một dặm bên này thị trấn. Butch biết ông ta, biết chỗ, nhưng ta không biết làm cách nào Everbe thuyết phục gã đưa bọn ta tới đó ‐ chì chiết gã hay đe dọa hay hứa hẹn, hay có lẽ chỉ làm như một con cá mẹ to lớn bận rối rít bên cá con tới nỗi nó không cư xử như đang có lưỡi câu buộc vào sợi dây, và vì thế gã đi câu phải xoay xở để loại bỏ con cá nhỏ. Hay có lẽ không vì Everbe mà vì chai rượu bỏ túi đã cạn, vì ly rượu sắp tới sẽ phải ở khách sạn tận trong Parsham. Vì khi ta đi vòng về căn nhà, mẹ của Lycurgus đứng trên mép hiên cầm bát đường và xô nước với cái muỗng quả bầu, Butch và Boon đang nốc cạn hai ly, và Lycurgus đang nhặt cái chai cạn Butch đã ném vào bụi hồng.

Vì thế Butch đưa bọn ta tới nhà bác sĩ ‐ một căn nhà nhỏ có thời màu trắng trong mảnh sân nhỏ với đủ thứ bụi hoa mọc rậm rạp hôi hám nở vào cuối hè và thu, một bà mập, xám như chì, đeo kính kẹp mũi như cô giáo về hưu mười lăm năm sau vẫn ghét bọn trẻ con tám tuổi, bà ra cửa nhìn bọn ta một cái (Ned nói đúng) rồi nói vọng vào nhà, “Tụi đua ngựa”, rồi quay lưng biến mất vào phía sau, Butch bước ngay vào trước khi bà quay lưng, vui vẻ, chào hỏi ‐ hay người ta liệu hồn biết rằng gã đang vui vẻ chào (lại cái huy hiệu, thấy chưa, đeo nó, hay chỉ cần người ta biết là gã có nó thì vào bất kỳ nhà nào với một thái độ khác sẽ phản bội không những chính gã mà còn phản bội và làm mất phẩm cách tầng lớp của gã) ‐ gã nói:

“Ê, bác sĩ, có bệnh nhân cho ông”, với một ông cũng xám như chì nếu nước dãi thuốc lá được tẩy sạch khỏi bộ râu không cạo của ông, ông mặc áo trắng như Ned như không sạch bằng, và cũng cái áo vét đen nhiều ngày chưa thay trước khi quả trứng hôm qua vấy lên nó, ông cũng có vẻ bốc mùi, nhưng không chỉ mùi rượu, hay có lẽ toàn mùi rượu. “Tôi và người anh em Hogganbeck sẽ đợi trong phòng khách”, Butch nói, “Đừng lo, tôi biết chỗ để rượu. Đừng ngại bác sĩ”, gã nói với Boon, “Ông ta chả bao giờ đụng tới rượu trừ phi bắt buộc. Luật cho phép ông ta hớp một hơi men mỗi khi chữa một bệnh nhân chảy máu hay gãy lòi xương. Nếu chỉ là vết cắt cũ sơ sài hay ngón tay gãy hay rách da như thế này thì bác sĩ chia phần điều trị với bệnh nhân: ông ta nốc cạn hơi men và để hết phần chữa trị cho bệnh nhân. Ha ha ha. Lối này”.

Thế là Butch và Boon đi lối đó, Everbe và ta (hẳn nhiên ta thấy không ai nhớ tới Otis. Bọn ta xuống xe ngựa, có vẻ là xe của Butch, dù sao gã là người đánh xe mà. Tại nhà cụ Parsham đã xảy ra một số trì trệ trong lúc Butch cố thuyết phục, rồi tán tỉnh, rồi buộc Everbe ngồi ghế trước với gã, cô tránh bằng cách vào ghế sau và một tay nắm cánh tay ta, tay kia giữ Otis trong xe, tới khi Boon lên ghế trước với Butch ‐ và người đầu tiên vào tiền sảnh nhà bác sĩ là Butch, rồi tới cả bọn, nhưng không ai nhớ Otis lúc ấy) theo bác sĩ vào một phòng khác có bộ ghế dài nhồi lông ngựa với cái gối bẩn và chăn bông trên ghế, một bàn có nắp cuộn để ngổn ngang lọ thuốc, nhiều chai khác trên mặt lò sưởi phủ lớp tro của lần đốt lửa cuối cùng mùa đông năm ngoái chưa quét, một giá để chậu và bình nước với cái bô chưa đổ trong góc và khẩu súng săn ở góc bên kia. Nếu mẹ ở đó thì móng tay ông ta sẽ không được đụng vào vết xước của bà, nói gì đến bốn ngón tay bị đứt, và hẳn nhiên Everbe đồng ý với bà, cô ‐ Everbe ‐ nói, “Để tôi mở nó ra.” Ta nói bàn tay lành rồi. Bác sĩ nhìn nó qua cặp kính gọng sắt.

“Cô bôi cái gì lên đó?”, ông nói. Everbe kể cho ông.

Bây giờ ta biết nó là chất gì. Bác sĩ nhìn cô. “Làm sao cô có sẵn nó?”, ông nói. Rồi ông nâng một góc mắt kính lên nhìn cô lần nữa rồi nói, “Ồ”. Khi ấy ông nói, “Được rồi, được rồi”, rồi lại hạ kính xuống và ‐ phải, ông thở dài một cái ‐ nói, “Ba mươi lăm năm tôi chưa tới Memphis”, và đứng đó một phút rồi ‐ lại một cái thở dài ‐ nói, “Ừ. Ba mươi lăm năm”, và nói, “Nếu tôi là cô, tôi sẽ không đụng tới nó. Chỉ băng nó lại thôi.” Phải, đúng như mẹ: ông lấy vải băng nhưng cô băng. “Ngày mai cháu là đứa cưỡi con ngựa đó hả?”, ông hỏi.

“Ừ”, Everbe nói.

“Lần này hãy thắng con ngựa của Linscomb, quỷ tha ma bắt nó đi.”

“Chúng tôi sẽ cố”, Everbe nói, “Chúng tôi phải trả ông bao nhiêu?”.

“Khỏi”, ông nói, “Cô đã chữa nó. Ngày mai chỉ việc thắng con ngựa khốn kiếp của Linscomb kia.”

“Tôi muốn trả công ông vì đã ngó tới nó”, Everbe nói, “Vì đã nói với chúng tôi là nó không sao.”

“Khỏi”, ông nói. Ông nhìn cô: cặp mắt của lão già phóng đại sau cặp kính nhưng không thể tập trung, phù như hai quả trứng, cho tới khi ta nghĩ chúng không thể thấy gì phía trước như là ta và Everbe.

“Vâng”, Everbe nói, “Sao vậy?”.

“Có lẽ nếu cô có dư cái khăn tay hay cái gì…” Ông nói:

“Ừ, ba mươi lăm năm. Có lần tôi có một cái, hồi tôi còn trẻ, ba mươi, ba mươi lăm năm trước. Rồi tôi lấy vợ, và nó…” Ông nói, “Ừ. Ba mươi lăm năm”.

“Ồ”, Everbe nói. Cô quay lưng lại bọn ta và cúi xuống, váy cô sột soạt, không lâu, nó lại sột soạt và cô quay lại. “Đây”, cô nói. Đó là cái nịt bít tất.

“Thắng con ngựa khốn kiếp đó!”, ông nói. “Thắng nó! Cháu thắng nó được!” Rồi bọn ta nghe tiếng nói ‐ tiếng của Butch ‐ ồn ào trong tiền sảnh nhỏ trước khi bọn ta ra đó:

“Biết không? Đường Phèn không uống nữa. Nam nhi với nhau dù sao cũng không bao giờ chụp giựt mà không huýt sáo trước, bây giờ hắn làm nhục tôi.” Gã đứng nhăn nhở nhìn Boon, đắc thắng, thách thức. Boon bây giờ có vẻ rất nguy hiểm. Như Ned (tất cả bọn ta), ông cũng mệt vì thiếu ngủ. Nhưng Ned chỉ phải lo cho con ngựa, Everbe và huy hiệu của Butch không phải là gánh nặng của ông. “Hả, mày?”, Butch nói, lúc này gã lại định vỗ lưng Boon với cái vỗ mạnh vui vẻ, chỉ hơi quá mạnh nhưng không quá lắm.

“Đừng làm vậy nữa”, Boon nói. Butch ngừng. Gã không rút tay lại: gã chỉ ngừng, nhăn nhở nhìn Boon.

“Tên tao là ông Mê Gái1”, gã nói, “Nhưng gọi tao là Butch”.

1 Nguyên gốc là Lovemaiden. (BV)

Một lát sau Boon nói, “Mê Gái”.

“Butch”, Butch nói.

Một lát sau Boon nói, “Butch”.

“Giỏi”, Butch nói. Gã nói với Everbe: “Bác sĩ chữa được chứ? Có lẽ tôi nên cảnh cáo cô về bác sĩ. Họ nói hồi ổng là một thằng láo lếu năm sáu chục năm trước, ổng kéo quần cô trước khi ổng giở nón”.

“Ồ”, Boon nói, “Cô trả tiền cho ông ta rồi hả?”.

“Ừ”, Everbe nói. Bọn ta ra ngoài. Khi đó có người nói, Otis đâu rồi? Không, dĩ nhiên là Everbe nói, cô chỉ nhìn một lần rồi gọi, “Otis!” rất lớn, khỏe, chưa kể vẻ khẩn cấp, báo động và tuyệt vọng.

“Đừng bảo là nó sợ cả mấy con ngựa bị buộc vào cổng”, Butch nói.

“Ôi dào”, Boon nói, “Nó chỉ đi trước, nó đâu có chỗ nào khác để đi. Mình sẽ đón nó dọc đường”.

“Nhưng tại sao?”, Everbe nói, “Tại sao nó không…”.

“Làm sao tôi biết?”, Boon nói. “Có lẽ hắn đúng.” Ông ám chỉ Butch. Rồi ông nói tới Otis: “Thằng nhỏ mất dạy từ Arkansas hay Missippi hay từ đâu đó chui ra ấy, dù sành sỏi bao nhiêu nó vẫn là đứa cực kỳ hèn nhát. Nào.” Thế rồi bọn ta lên xe ngựa vào thị trấn. Nhưng ta đồng ý với Everbe về Otis, khi không thấy nó thì đúng là lúc nên tự hỏi nó đang ở đâu và tại sao. Ta chưa hề thấy ai làm mất lòng tin của công chúng nhanh như nó; bây giờ nó sẽ khó tìm được ai trên chiếc xe ngựa này dẫn nó tới một sở thú khác hay bất kỳ đâu. Và không bao lâu nữa nó cũng sẽ chẳng tìm được ai ở Parsham tin nó.

Nhưng bọn ta không bắt kịp nó. Nó không có trên đường tới khách sạn. Và Ned đã sai. Ta nói về đám mê đua ngựa từ nay bọn ta sẽ gặp càng lúc càng đông. Có lẽ ta đã tưởng họ xếp hàng đầy trên hiên khách sạn, đợi bọn ta đến. Nếu như thế ta sai, chẳng có ai ở đó. Dĩ nhiên mùa đông thì khác, vào mùa săn chim cút và nhất là trong hai tuần Đua ngựa Toàn quốc. Nhưng hồi đó, không như London2, Parsham không có mùa hè, người ta đi nơi khác: xuống biển hay lên núi, Raleigh, gần Memphis, hay Iuka ở Mississippi cách không xa, hay lên rặng Ozarks hay Cumberlands. (Về việc này, bây giờ có mùa hè không, kể cả ở các nơi khác nữa, có mùa đông hay mùa hè không; bây giờ chẳng còn mùa nào nữa, khi trong nhà mười lăm độ vào mùa hè và ba mươi độ vào mùa đông một cách nhân tạo, để những kẻ bệnh kinh niên tái phát già khú như ta phải ra ngoài để tránh lạnh mùa hè và tránh nóng mùa đông; kể cả xe ô tô có thời chỉ là nhu cầu kinh tế nhưng nay là nhu cầu xã hội, đã tới lúc nếu toàn thể nhân loại ngừng cử động cùng lúc thì mặt đất sẽ bất động, đông đặc: chúng ta quá đông; nhân loại sẽ tự hủy diệt không vì đẻ mà vì một từ bắt đầu bằng chữ đ khác3 vừa là động từ vừa là thể điều kiện trong ngữ pháp; ta sẽ không thấy lúc đó nhưng các cháu có thể thấy: một xã hội tàn khốc và điên rồ sẽ ban hành đạo luật bắt buộc và cưỡng chế ‐ không phải vì kinh tế: xã hội ‐ tuyệt vọng cho phép nữ giới chỉ có một con như hiện nay đang được phép chỉ có một chồng).

2 Nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ, như Arkansas, Kentucky, Minnesota, Ohio, Texas… đều có thành phố London. (ND)

3 Nguyên văn humanity will destroy itself not by fission but another beginning with f which is a verb-active also as well as a condition state. (BV)

Nhưng dĩ nhiên vào mùa đông (như bây giờ) thì khác, với mùa săn chim cút và Chung kết Đua ngựa Toàn quốc, với những món tiền giàu có của các đại gia dầu hỏa và lúa mì từ Wall Street và Chicago và Saskatchewan4, và những con chó đẹp có gia phả đáng ganh tị hơn các ông hoàng, những chuồng dạy và gây giống chó tốt chỉ cách vài phút lái xe ‐ Red Banks, Michigan City, La Grange và Germantown, và những tên tuổi ‐ Đại tá Linscomb, ngựa của ông (bọn ta đoán) sẽ đua với bọn ta vào ngày mai, rồi Horace Lytle và George Peyton huyền thoại trong giới nuôi chó săn chim tương tự như Babe Ruth và Ty Cobb5 trong giới hâm mộ môn bóng chày, rồi ông Jim Avant ở Hickory Flat và ông Paul Rainey chỉ cách đường xe lửa của Đại tá Sartoris vài dặm về hướng Jefferson ‐ cả hai là người nuôi chó săn, (ta cho rằng) họ tự xem mình chỉ là kẻ tò mò tìm hiểu trong giới chuyên nuôi giống chó nòi đánh hơi và chó săn chim; rồi khách sạn lớn mở tràn lan, thanh lịch và có nhân viên phục vụ, không khí đỏm đáng và rủng rỉnh tiền, đủ những dải huy chương màu sắc và ngổn ngang cúp bạc.

4 Chicago là nơi đặt thị trường chứng khoán và mậu dịch của Mỹ. Saskatchewan là nơi đặt thị trường nông phẩm và gia súc ở Canada. (ND)

5 Babe Ruth (1895-1948) và Ty Cobb (1886-1961): hai cầu thủ nổi tiếng trong môn bóng chày rất phổ biến ở Mỹ. (ND)

Nhưng bây giờ chẳng còn ai ở đó, con đường yên vắng với bụi tháng Năm (lúc này đã sau sáu giờ; dân Parsham sẽ về nhà ăn tối ‐ hay đang chuẩn bị ăn), vắng ngay cả Otis, dù nó có thể, chắc là, ở bên trong. Và ngạc nhiên hơn nữa, ồ đối với ta, cũng vắng cả Butch. Gã chỉ đưa tới cửa, cho bọn ta xuống rồi đánh xe đi, ngừng chỉ đủ lâu để liếc Everbe một cách đểu cáng, giễu cợt, hắc ám và nhìn Boon một cách giễu cợt, đểu cáng, hắc ám, hơi hắc ám hơn với Everbe, vừa nói, “Mày đừng lo, tao sẽ quay lại. Nếu còn việc gì chưa làm, tốt hơn nên làm xong trước khi tao trở lại nếu không có thể rách việc”, rồi đánh xe đi. Vì thế hiển nhiên gã cũng có một nơi phải thỉnh thoảng trở về: một căn nhà; ta vẫn ngốc nghếch và ngây thơ (không nhiều như hai mươi bốn giờ trước, nhưng vẫn có) nhưng ta về phe Boon, lòng trung thành của ta đối với ông, chưa kể đối với Everbe, và ta đã lĩnh hội đủ từ hôm qua (dù ta đã tiêu hóa hết hay chưa) để biết chính xác mình nghĩ gì khi hy vọng có lẽ gã có một bà vợ trong căn nhà đó ‐ lòng ngây thơ mê muội; hay hơn nữa: một bà già cay nghiệt phản trắc có khả năng đối phó với gã bằng cách ông ăn chả bà ăn nem. Vì chắc phân nửa thú gian dâm của gã đều xác định được ai là nạn nhân. Nhưng ta đã sai về gã. Gã độc thân.

Nhưng bên trong cũng không có Otis: chỉ duy nhất một ông quản lý trong tiền sảnh hơi khép rèm cửa và duy nhất một ông bồi đang đập đen đét khăn ăn sau cửa phòng ăn che kín rèm, với duy nhất một cái bàn dọn sẵn cho bọn khách vô danh ghé ngang như bọn ta ‐ tới lúc này vẫn vô danh. Nhưng không thấy Otis. Boon nói, “Tôi không lo về việc nó ở đâu bằng việc mình chưa biết nó sẽ làm cái quỷ gì lần này”.

“Chẳng có gì!”, Everbe nói, “Nó chỉ là đứa trẻ con!”.

“Ừ”, Boon nói, “Chỉ là đứa trẻ con có vũ khí. Khi nó đủ lớn để ăn cắp…”.

“Thôi đi!”, Everbe nói, “Tôi không…”.

“Được rồi, được rồi”, Boon nói, “Vậy thì để tìm. Tìm đủ tiền mua con dao tấc rưỡi thay vì con dao bỏ túi năm phân, ai mà đưa lưng lại nó thì nên mặc thứ áo giáp sắt hồi xưa như mình thấy trong viện bảo tàng. Tôi muốn nói chuyện với cô”, ông bảo cô, “Bữa tối sắp dọn lên, sau đó mình phải đón xe lửa. Rồi con ngựa đực đeo huy hiệu thiếc sẽ hí và nhảy cỡn tới đây bất cứ lúc nào”. Ông nắm cánh tay cô, “Nào”.

Khi ấy ta phải bắt đầu lắng nghe Boon. Ta muốn nói ta phải nghe. Everbe bắt ta. Cô sẽ không đi với ông nếu ta không đi cùng. Bọn ta ‐ họ ‐ đi tới phòng khách của quý bà, lúc này không còn nhiều thời giờ, bọn ta phải ăn tối rồi ra ga đón cô Reba. Hồi đó phụ nữ không ra vào phòng của đàn ông trong khách sạn như ta nghe nói bây giờ họ làm, thậm chí họ mặc, như ta nghe nói, loại y phục các nhà quảng cáo gọi là quần ngắn hay xì líp có khả năng cho phụ nữ sự tự do cần thiết trong cuộc tranh đấu đòi tự do của họ; thật vậy, trước đó ta chưa hề thấy phụ nữ một mình trong khách sạn (mẹ sẽ không có mặt ở đây nếu không có bố) và ta nhớ ta đã tự hỏi làm sao Everbe không đeo nhẫn cưới mà vẫn có thể vào. Khách sạn có phòng khách cho phụ nữ, như căn phòng bọn ta vào ‐ một phòng nhỏ hơn tuy thanh lịch hơn, phần lớn cũng che vải dày. Nhưng ta vẫn về phe Boon, ta không bước qua cửa mà ngừng lại bên ngoài, nơi Everbe biết ta ở đó, trong tầm gọi, ngay cả nếu cô không thật sự thấy ta. Vì thế ta nghe. Ồ phải, lắng nghe. Dù sao ta cũng sẽ lắng nghe, lúc này ta đã đi quá xa, quá sành điệu và thạo đời để ngừng lại, như ta đã đi quá xa sau khi ăn cắp ô tô và ngựa đua để bỏ cuộc. Vì thế ta có thể nghe họ: Everbe; và gần như lập tức cô lại khóc: “Không! Tôi không! Để tôi yên!”. Rồi Boon: “Nhưng tại sao? Cô nói cô yêu tôi cũng là nói dối à?”. Rồi Everbe: “Chính vì tôi yêu anh. Để tôi yên! Buông tôi ra! Lucius! Lucius!”. Rồi Boon: “Im đi. Thôi nào!”. Rồi im lặng một lát. Ta không nhìn, không ngó trộm, ta chỉ lắng nghe. Không, chỉ nghe: “Nếu tôi nghĩ cô cắm sừng tôi vì thằng huy hiệu thiếc trời đánh đó…”. Rồi Everbe: “Không! Không! Tôi không hề!”. Rồi ta không nghe rõ, tới khi Boon nói: “Cái gì? Không làm nữa? Cô nói gì, thôi?”. Rồi Everbe: “Ừ! Tôi thôi! Không làm nữa. Không bao giờ!” Rồi Boon: “Làm sao cô sống? Cô lấy gì mà ăn? Cô sẽ ngủ ở đâu?”. Và Everbe: “Tôi sẽ tìm việc. Tôi có thể làm việc”.

“Cô làm việc gì? Cô học hành không hơn tôi. Cô làm gì để sống?”

“Tôi có thể rửa bát. Tôi có thể giặt ủi. Tôi có thể học nấu ăn. Tôi có thể làm bất cứ gì, thậm chí tôi có thể cuốc đất và hái bông gòn. Buông tôi ra, Boon. Làm ơn. Làm ơn. Tôi phải thôi. Anh không thấy tôi phải thôi hay sao?” Rồi tiếng chân cô chạy, ngay cả trên thảm dày, cô đã đi khuất. Vì thế Boon bắt gặp ta lần này. Mặt ông giờ đây khá tệ. Ned may mắn, ông ấy chỉ phải mệt với vụ đua ngựa.

“Nhìn tôi đây này”, Boon nói, “Nhìn tôi cho kỹ. Có vấn đề gì với tôi vậy? Vấn đề chết tiệt gì vậy? Trước kia tôi…” Mặt ông như sắp nổ bùng. Ông lại nói: “Tại sao lại là tôi? Vì cái quỷ gì lại là tôi? Vì cái quỷ gì cô ấy chọn tôi để hoàn lương? Chết tiệt, cô ấy là điếm, cô ấy không hiểu sao? Cô ấy được trả tiền để thuộc về tôi hoàn toàn lúc cô ấy đặt chân vào chỗ của tôi, cũng như tôi được trả tiền để thuộc về Sếp và ông Maury hoàn toàn lúc tôi đặt chân vào chỗ của họ. Nhưng bây giờ cô ấy bỏ nghề. Vì lý do riêng. Cô ấy không làm nữa. Cô ấy không được quyền tự bỏ nghề mà không được tôi đồng ý, cũng như tôi không được bỏ nghề mà không được Sếp và ông Maury đồng ý…”

Ông ngừng lại, thịnh nộ và lúng túng, tức giận và vô vọng; và hơn nữa: kinh hoảng. Ông bồi da đen bây giờ đang đập chiếc khăn ăn của ông ở cửa. Boon cố gắng ghê gớm; Ned chỉ việc thắng cuộc đua ngựa, ông ấy thậm chí không biết rắc rối gì. “Đi bảo cô ấy tới ăn. Mình phải đón chuyến xe lửa. Phòng cô ấy số năm.”

Nhưng cô không ra. Vì thế Boon và ta ăn một mình. Mặt ông vẫn không khá hơn. Ông ăn như bỏ thịt vào cối xay: không như muốn ăn và cũng không như chẳng muốn ăn, mà chỉ là tới giờ ăn. Một lát sau ta nói, “Có lẽ nó đi bộ về Arkansas. Hồi chiều nó đã nói hai, ba lần là đáng lẽ lúc này nó đã tới nơi nếu đừng ai can thiệp”.

“Ừ”, Boon nói, “Có lẽ nó đi trước để tìm việc rửa bát cho cô ấy. Hay có lẽ nó cũng hoàn lương, rồi cả hai đi thẳng lên thiên đàng khỏi ngừng ở Arkansas hay bất cứ chỗ nào, nó chỉ đi trước để tìm cách qua khỏi Memphis mà không ai thấy cả hai.” Rồi tới giờ đi. Ta đã thấy vạt áo của cô đằng sau cánh cửa phòng ăn khoảng hai phút, nhưng bây giờ chính người bồi tới.

“Hai lẻ tám, thưa ông,” ông ta nói, “Mới kéo còi qua Ngã ba Một Dặm”. Vì thế bọn ta băng qua nhà ga, không xa, ba chúng ta đi cùng nhau, những người khách thông thường ngủ qua đêm ở khách sạn. Ta muốn nói bọn ta ‐ họ ‐ lúc này không cãi nhau nữa; bọn ta ‐ họ ‐ thậm chí có thể trò chuyện, đàm thoại, đơn điệu và vụn vặt. Everbe sẽ nói, chỉ cần Boon nói trước. Không xa: băng qua đường ray để tới thềm ga, chiếc xe lửa bây giờ đã trong tầm mắt, hai người (Boon và Everbe) ràng buộc nhưng xa lạ, cách trở nhưng không thể chia lìa, bực dọc nhưng không thể tách rời, không khác ý nghĩ mà Boon cho là bốc đồng: kẻ (Boon) suốt đời không lớn hơn ta và thậm chí không biết rằng phụ nữ không bốc đồng cũng chẳng nghi ngờ hay ảo tưởng hay bị bệnh tiền liệt tuyến. Chiếc xe lửa, đầu máy rít ầm ĩ ngang qua bọn ta, bánh thắng toé lửa, đoàn xe dài, một đoàn lớn, chuyến xe lửa tốc hành, chuyến Đặc biệt: các toa hành lý, toa hút thuốc Jim Crow6 nửa giá, rồi các toa hành khách thường và vô số toa hạng sang, toa ăn cuối cùng, đi chậm lại; chiếc xe lửa của Sam Caldwell, và nếu Everbe với Otis đến Parsham trong toa dành cho nhân viên của chuyến xe chở hàng thì cô Reba đi toa khách, nếu không nói cô đi toa riêng của tổng thống; cuối cùng xe lửa ngừng tuy toa hành khách vẫn chưa mở cửa, chẳng thấy phu khuân vác mặc áo khoác trắng và ông soát vé, mặc dù Sam chắc đang tìm bọn ta; tới khi Boon nói, “Đồ quỷ. Toa hút thuốc”, và bắt đầu chạy. Khi ấy bọn ta thấy họ ở đằng trước: Sam Caldwell mặc đồng phục đứng trên đá cuội giúp cô Reba xuống, một người nữa ‐ một phụ nữ ‐ đi theo cô, không từ toa hút thuốc mà từ toa Jim Crow nửa giá cùng với người da đen; chiếc xe lửa ‐ chuyến Đặc biệt đi Washington và New York, chuyến xe tốc hành phảng phất phụ nữ giàu sang đeo kim cương và các ông hút xì gà một đô la trong cuộc di cư đỏm đáng và cách ly qua bên kia Trái đất ‐ lại di chuyển vì thế Sam chỉ kịp vẫy tay chào bọn ta từ bậc thang, rồi thu nhỏ dần về hướng đông sau những cụm khói đứt quãng và tiếng còi dài vang dội, cuối cùng cặp đèn đỏ mờ dần, và hai phụ nữ đứng giữa đống hành lý trên bãi đá cuội vắng vẻ, cô Reba nổi bật, xinh đẹp và thanh lịch, Minnie bên cạnh cô nom như đã chết.

6 Nhân vật da đen trong vở nhạc kịch của Thomas Dartmouth Rice (1808-1860). Ở đây nói tới toa cho người da đen vì thời đó họ không được đi chung toa dành riêng cho dân da trắng. (ND)

“Chúng tôi gặp rắc rối”, cô Reba nói, “Khách sạn ở đâu?” Bọn ta đi về. Giờ đây trong tiền sảnh thắp sáng, bọn ta có thể thấy Minnie. Mặt cô không như chết. Chết là yên bình. Khuôn mặt ủ ê mím chặt môi bất động của Minnie báo điềm không yên bình, và nó cũng chẳng báo trước cho cô. Ông quản lý đến. “Tôi là bà Binford”, cô Reba nói, “Ông đã nhận điện tín của tôi về cái chõng cho cô hầu gái trong phòng tôi chứ?”.

“Vâng, thưa bà Binford”, ông phụ trách nói, “Chúng tôi có khu ở riêng cho người hầu, với phòng ăn riêng của họ…”.

“Ông cứ giữ lấy mà dùng”, cô Reba nói, “Tôi đã nói một cái chõng trong phòng tôi. Tôi muốn cô ta ở chung với tôi. Chúng tôi sẽ đợi trong phòng khách trong khi ông thu xếp. Phòng khách ở đâu?” Nhưng cô đã nhìn thấy phòng khách của phụ nữ, bọn ta đi theo. “Nó đâu?”, cô nói.

“Nó nào ở đâu?”, Everbe nói.

“Cô biết nó nào”, cô Reba nói. Và ta chợt biết nó nào, và chốc nữa ta sẽ biết tại sao. Nhưng ta không có thời giờ. Cô Reba ngồi xuống. “Ngồi xuống”, cô bảo Minnie. Nhưng Minnie không cử động. “Thôi được”, cô Reba nói, “Kể cho họ”. Minnie mỉm cười với bọn ta. Khủng khiếp: cái hé miệng điên rồ trần trụi ây, một hố sâu khổ não chỗ hàm răng đẹp vô địch nhô ra khỏi vòm miệng tối, chỗ đã từng có chiếc răng vàng; bây giờ ta biết vì sao Otis đã trốn khỏi Parsham dù nó phải đi bộ; ồ phải, vào lúc đó, năm mươi sáu năm trước, ta cũng sửng sốt và kinh khiếp không tin như các cháu bây giờ, tới khi Minnie và cô Reba kể cho bọn ta.

“Chính nó!”, Minnie nói, “Tôi biết chính nó! Nó lấy trong lúc tôi ngủ!”.

“Đồ quỷ sứ”, Boon nói, “Một đứa ăn cắp cái răng trong miệng cô mà cô không biết à?”.

“Chết tiệt, nghe này”, cô Reba nói, “Minnie thuê làm cái răng như vậy để cô ấy có thể gắn vào lấy ra ‐ làm thêm, tằn tiện và dành dụm ‐ bao nhiêu năm, Minnie? Ba năm phải không? ‐ tới khi cô ấy đủ tiền nhổ răng và gắn cái răng vàng trời đánh đó vào. Ồ phải, tôi đã cố hết sức can cô ấy ‐ làm hỏng bộ răng tự nhiên mà ai cũng muốn đổi một ngàn đô la và các thứ khác để có một bộ như cô ấy; chưa kể các khoản chi thêm để có thể tháo răng ra khi cô ấy ăn…”.

“Tháo răng ra khi cô ấy ăn?”, Boon nói, “Cô ấy giữ hàm răng để làm quỷ gì?”.

“Tôi muốn có cái răng ấy lâu rồi”, Minnie nói, “Tôi làm lụng và dành dụm để có nó, làm thêm. Tôi không muốn nó lẫn lộn với thức ăn”.

“Vì thế cô ấy tháo nó ra khi cô ấy ăn”, cô Reba nói, “Và để nó ngay trên bàn chỗ cô ấy thấy được nó, vừa nhìn vừa thưởng thức nó trong lúc cô ấy ăn. Nhưng thằng nhỏ không lấy cái răng cách đó, cô ấy nói cô ấy đeo răng vào sau khi ăn sáng xong, tôi tin cô ấy, cô ấy chưa bao giờ quên vì cô ấy hãnh diện về nó, nó đắt tiền, cô ấy tốn quá nhiều tiền; không khác gì anh để quên con ngựa trời đánh đó ở chỗ có thể làm mất của anh hơn một cái răng vàng, rồi quên nó…”.

“Tôi biết tôi không bao giờ quên”, Minnie nói, “Tôi gắn nó lại ngay sau khi tôi ăn xong. Tôi nhớ. Nhưng tôi kiệt sức, mệt quá…”.

“Đúng”, cô Reba nói. Rồi cô nói với Everbe: “Tôi nghĩ tôi đang uống tì tì lúc mọi người về tối hôm qua. Trời hừng sáng tôi vẫn chưa đủ tỉnh trí để ngưng uống, cuối cùng khi mặt trời lên tôi bảo Minnie ực một ngụm gin rồi đóng cửa trước và đi ngủ lại, tôi lên lầu gọi Jackie dậy nói cô ta đừng mở cửa, mặc kệ nếu có thằng khốn động cỡn nào dưới St. Louis tới gõ cửa, không cho ai vào trước sáu giờ chiều nay. Vì thế Minnie đi nằm trên cái chõng của cô ấy trong kho phía hiên sau, thoạt tiên tôi nghĩ có lẽ cô ấy quên khóa cửa kho…”.

“Dĩ nhiên tôi khóa”, Minnie nói, “Bia trong đó. Tôi khóa cái cửa ấy từ ngày thằng nhỏ đó tới đây vì tôi biết nó từ hồi nó tới thăm mùa hè năm ngoái”.

“Cô ấy nằm trong kho”, cô Reba nói, “mệt nhoài, đóng cửa ngủ như chết trên chõng, không hề biết gì cho tới khi…”.

“Tôi thức dậy”, Minnie nói, “Tôi vẫn còn mệt và kiệt sức tới mức tôi ngủ quá say, như cô; tôi nằm đó rồi tôi biết miệng tôi cảm thấy hơi lạ. Nhưng tôi chỉ nghĩ có lẽ mẩu gì vướng trong đó dù tôi cẩn thận đến mấy, cho tới khi tôi ngồi dậy rồi đi tới gương và thấy…”.

“Tôi không biết ở Chattanooga người ta có nghe cô ấy không, nói gì tới Parsham”, cô Reba nói, “Và cánh cửa vẫn đóng…”.

“Chính nó!”, Minnie vừa nói vừa khóc, “Tôi biết chính nó! Nó hỏi tôi ít nhất mỗi ngày một lần là tốn bao nhiêu, tại sao tôi không bán nó, tôi sẽ bán được bao nhiêu, tôi sẽ bán nó ở đâu…”.

“Ừ”, cô Reba nói, “Vì vậy sáng nay nó kêu la ầm ĩ như mèo rừng khi cô bảo là nó không về nhà mà phải tới Parsham với cô”, cô bảo Everbe, “Vì vậy khi nó nghe tiếng còi xe lửa là nó chạy hả? Cô nghĩ nó đang ở đâu? Vì tôi sẽ lấy lại cái răng của Minnie”.

“Tụi tôi không biết”, Everbe nói, “Nó biến mất khỏi xe ngựa hồi năm giờ rưỡi. Tụi tôi nghĩ nó phải về đây, vì nó đâu còn chỗ nào khác để đi. Nhưng tụi tôi chưa tìm thấy nó”.

“Có lẽ cô tìm không đúng chỗ”, cô Reba nói, “Nó không phải là thứ cô có thể huýt sáo gọi ra. Cô phải hun khói nó như chuột hay rắn”. Ông phụ trách trở lại. “Xong rồi à?”, cô Reba nói.

“Vâng, thưa bà Binford”, ông quản lý nói. Cô Reba đứng lên.

“Tôi sẽ để Minnie nằm nghỉ và ở với cô ấy tới lúc cô ấy ngủ. Rồi tôi sẽ ăn tối”, cô bảo ông phụ trách, “Món gì cũng được”.

“Giờ hơi trễ”, ông phụ trách nói, “Phòng ăn…”.

“Một lát nữa sẽ còn trễ hơn”, cô Reba nói, “Món gì cũng được. Nào, Minnie”. Cô và Minnie đi ra. Khi ấy ông phụ trách cũng đi. Bọn ta đứng đó; không ai ngồi xuống; cô ‐ Everbe ‐ chỉ đứng đó: một cô gái trưởng thành khi yên lặng trông đẹp, và buồn nữa khi cứ yên lặng thế này. Hay có lẽ sự xấu hổ còn lớn hơn nỗi buồn.

“Nó không bao giờ khá được ở đó”, cô nói, “Vì vậy tôi nghĩ… Đưa nó đi dù chỉ một tuần hồi hè năm ngoái. Rồi năm nay, nhất là sau khi mọi người tới, và ngay khi thấy Lucius tôi biết lúc nào tôi cũng muốn nó như vậy, nhưng tôi không biết cách bảo nó, dạy nó. Vì vậy tôi nghĩ có lẽ chỉ cần ở gần Lucius, dù chỉ hai hay ba ngày…”.

“Ừ”, Boon nói, “Phong cách lịch sự”. Ông lại gần cô, lúng túng. Ông không vòng tay quanh người cô nữa. Ông thậm chí không đụng cô, thật vậy. Ông chỉ vỗ về lưng cô, bàn tay ông thô thiển, như vô tình và nặng nề, gần như khi Butch vỗ lưng ông chiều nay. Nhưng nó khác hẳn. “Được rồi”, ông nói, “Có gì đâu nào. Cô đã cố hết sức. Cô đã làm tốt. Nào, nào.” Ông bồi bàn lại vào.

“Người đánh xe của ông trong bếp, thưa ông”, ông ta nói, “Anh ta nói việc quan trọng”.

“Người đánh xe nào của tôi?”, Boon nói, “Tôi không có ai đánh xe”.

“Ned”, ta vừa nói vừa đi. Everbe cũng đi, trước Boon. Bọn ta theo sau ông bồi bàn trở lại bếp. Ned đang đứng khá gần bà bếp, một bà da đen khủng khiếp đang lau đĩa ở bồn rửa bát. Ông đang nói.

“Nếu người đẹp lo về tiền bạc, tôi là người…”, rồi thấy bọn ta và đọc ý nghĩ của Boon trong chớp nhoáng: “Đừng lo. Nó đang ở đằng nhà cụ Possum. Lần này nó làm gì?”.

“Cái gì?”, Boon nói.

“Otis”, ta nói, “Ned tìm thấy nó”.

“Tôi không tìm”, Ned nói, “Tôi chưa bao giờ mất nó. Bầy chó của cụ Possum tìm thấy. Đuổi nó lên cây bạch đàn sau chuồng gà độ một giờ trước, tới khi Lycurgus đi bắt nó. Nó không chịu tới đây với tôi. Thật ra, nó lập tức cư xử như nó không định đi đâu. Lần này nó làm gì?” Bọn ta kể cho ông. “Vậy là cô ta cũng ở đây”, ông nói. Ông nói nhỏ: “Hi hi hi”. Ông nói: “Vậy thì nó sẽ không có ở đó lúc tôi trở lại”.

“Anh nói thế nghĩa là sao?”, Boon nói.

“Nếu ông là nó thì ông có còn ở đó không?”, Ned nói, “Nó biết giờ này cô ta đã thức dậy và thấy mất cái răng. Bây giờ nó phải biết cô Reba đủ lâu để biết sẽ không có cái gì cản cô ấy tới khi cô ấy túm được nó rồi lộn ngược nó rồi lắc tới khi cái răng đó rơi ra khỏi bất kỳ chỗ nào nó cất. Chính tôi cho nó biết tôi với con la đó đi đâu, và bất kỳ ai ở đó cũng có thể cho nó biết chuyến xe lửa tới lúc mấy giờ và mất bao lâu để người ta trở lại đó. Nếu ông có cái răng ấy thì ông có còn ở đó không?”.

“Thôi được”, Boon nói, “Nó định làm gì với cái răng?”.

“Nếu là ai khác”, Ned nói, “tôi đoán có ba cách với cái răng: bán hay giấu hay cho đi. Nhưng vì là nó, nó chỉ có hai cách: bán hay giấu nó, và nếu phải giấu đâu đó thì nó sẽ lo là cái răng có thể trở lại miệng cô ta. Vì thế chỗ tốt nhất để bán gấp cái răng vàng là về Memphis. Nhưng Memphis xa quá nếu đi bộ, và để đi xe lửa (thì sẽ tốn tiền, chắc nó có tiền, miễn là nó đủ tuyệt vọng để tiêu tiền của nó) nó sẽ phải quay lại Possum, nơi người ta có thể gặp nó. Vì vậy chỗ tốt thứ nhì để bán nhanh cái răng vàng sẽ là ở đường đua ngày mai. Nếu là ông hay tôi, rất có thể ngày mai mình sẽ đánh cược cái răng đó trên một trong hai con ngựa. Nhưng nó không là dân cá cược. Cá cược quá chậm cho nó, chưa kể là bấp bênh. Nhưng đường đua sẽ là chỗ tốt để khởi sự tìm nó.

Tệ quá, tôi không biết chuyện cái răng đó lúc tôi tóm được nó tối nay. Có lẽ tôi đã có thể nói phải trái với nó. Rồi nếu nó là cháu tôi thì khi ông Sam Caldwell ghé ngang đây trên chuyến xe lửa đi về hướng tây lúc sáu giờ bốn mươi sáng mai, tôi sẽ đưa nó ra nhà ga giao nó cho ông Sam và bảo ông Sam đừng buông tay khỏi nó tới khi đóng cửa chuyến xe lửa đầu tiên đi Arkansas ngày mai”.

“Ngày mai anh có tìm được nó không?”, Everbe nói, “Tôi phải tìm nó. Nó chỉ là đứa trẻ con. Tôi sẽ trả tiền cho cái răng, tôi sẽ mua cái khác cho Minnie. Nhưng tôi phải tìm thấy nó. Nó sẽ nói nó không lấy, nó chưa bao giờ thấy, nhưng tôi phải…”.

“Ừ”, Ned nói, “Tôi cũng sẽ nói vậy nếu là tôi. Tôi sẽ cố. Sáng sớm mai tôi sẽ tới đón Lucius, nhưng cơ hội tìm nó tốt nhất là ở vòng chạy ngày mai ngay trước khi đua.” Ông bảo ta: “Người ta đã ghé qua sân nhà cụ Possum như thể họ vô tình, có vẻ như thử tìm xem lần này ai là kẻ vẫn tin con ngựa đó có thể chạy đua. Vì vậy có lẽ mình sẽ có một đám khá đông ngày mai. Bây giờ trễ rồi, vì vậy cậu đi ngủ trong khi tôi đem con la của cụ Possum về nhà cũng để đi ngủ. Găng của cậu đâu? Cậu không làm mất nó chứ?”.

“Trong túi cháu”, ta nói.

“Nhớ đừng để mất”, ông nói, “Đi đôi với nó là cái găng bên trái, và găng bên trái xui xẻo trừ phi cậu đeo cả hai.” Ông quay đi, nhưng khi tới gần bà bếp béo, ông nói với bà: “Trừ phi tôi đổi ý ở lại thị trấn tối nay. Người đẹp mấy giờ dọn điểm tâm?”.

“Ngay sau khi hàm răng anh ở quá xa để nhai”, bà bếp nói.

“Chúc mọi người ngủ ngon”, Ned nói. Rồi ông đi. Bọn ta trở lại phòng ăn, lúc này ông bồi mặc áo ngắn tay, không cổ cồn và cà vạt, mang cho cô Reba một đĩa sườn lợn, yến mạch, bánh quy và mứt dâu bọn ta đã ăn lúc nãy, không nóng cũng chẳng nguội mà âm ấm, một cách cẩu thả như bồi bàn, như người ta thường nói.

“Cô đã khuyên cô ấy đi ngủ à?”, Everbe nói.

“Ừ”, cô Reba nói, “Thằng nhóc chó đ…”, rồi dừng phắt và nói, “Xin lỗi. Tôi nghĩ tôi đã thấy mọi thứ trong nghề, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ tôi sẽ thấy một cái răng bị ăn cắp trong nhà mình. Tôi ghét tụi nhóc khốn kiếp. Chúng nó như bầy rắn con. Mình có thể đối phó với con rắn lớn vì đã được cảnh cáo phải coi chừng. Nhưng con rắn con có thể mổ sau lưng mình trước khi mình biết nó có răng. Cà phê của tôi đâu?” Ông bồi mang cà phê tới rồi bỏ đi. Và khi ấy ngay cả phòng ăn lớn che màn cũng chật chội, như thể mỗi lần Boon và Butch vào trong bốn bức tường ấy thì mọi thứ lớn lên, nảy nở, không chừa chỗ cho thứ gì khác. Gã ‐ Butch ‐ đã lại nhà bác sĩ, hay có lẽ trong nghề huy hiệu thiếc gã biết mọi người không dám không mời gã một cốc rượu. Trời đã khuya, ta mệt, nhưng gã lại có mặt; ta chợt biết rằng cho tới lúc này gã chưa thật sự giở trò gì và bây giờ bọn ta chỉ mới bắt đầu đối phó với gã, gã đứng ở cửa, huênh hoang, mắt sáng, tự tin, hồ hởi và hơi đỏ hơn, trên áo sơ mi đẫm mồ hôi của gã cái huy hiệu như có sức sống, dường như phình ra lấn át bọn ta, gã ‐ Butch ‐ đeo nó không như biểu hiệu chính thức cho sự cống hiến độc đáo của gã, mà như một hướng đạo sinh đeo chuyên hiệu: vừa như một phần thưởng độc đáo khó đạt và biểu tượng của chuyên môn, vừa như khả năng xá tội thần bí cho bất cứ hành động nào của gã; lúc đó Everbe đứng nhanh lên bên kia bàn và gần như vội vã đi vòng qua rồi ngồi xuống ghế bên cạnh cô Reba, Butch vừa nhìn cô, vừa huênh hoang. Khi ấy ta đánh giá Boon xuống thấp một mức và Everbe cao hơn về việc đối phó với rắc rối. Boon chỉ phải đối phó với Butch, cô đối phó với cả Boon lẫn Butch.

“Ồ, ồ”, Butch nói, “Cả phố Catalpa dọn về phía đông tới Possum hay sao?” Vì thế thoạt tiên ta nghĩ gã có thể là bạn hay ít ra là khách quen của nhà cô Reba. Nhưng nếu thế thì gã không nhớ tên cô. Nhưng ngay cả ở tuổi mười một ta biết có loại người như Butch, họ không nhớ ai trừ khi có nhu cầu cấp thiết, và điều gã cần bây giờ (hay có thể dùng đến) là một phụ nữ nữa, gã bất cần biết là ai, miễn là người ấy không nhiều thì ít phải trẻ và dễ ưa. Không: gã thật ra không cần ai: như con sư tử đang trên đường tới tranh một con linh dương với con sư tử khác mà nó nắm chắc phần thắng (ta muốn nói thắng con sư tử kia, không phải con linh dương), và sẽ là dại dột nếu nó không nhào vào con linh dương đi lạc mà nó tình cờ bắt gặp trên đường, dù chỉ để cầu may. Nhưng cô Reba hóa ra không phải là con linh dương. Butch gặp một con sư tử khác. Gã nói: “Tao thấy cách Đường Phèn dùng đầu óc; nó với tao tranh nhau một miếng thịt làm gì khi có một miếng khác y như vậy về mọi đặc điểm ngoại trừ có lẽ hơi khác lớp da”.

“Ai vậy?”, cô Reba nói với Everbe, “Bạn của cô hả?”.

“Không”, Everbe nói, cô khép nép: một cô to lớn, quá to lớn để khép nép. “Làm ơn…”

“Cô ấy đang nói cho cô biết”, Boon nói, “Cô ấy không có bạn bè gì nữa. Cô ấy không cần ai nữa. Cô ấy bỏ, bỏ nghề. Ngay sau khi tụi tôi thua vụ đua ngựa này thì cô ấy sẽ bỏ đi tìm một việc rửa bát. Cứ hỏi cô ấy”.

Cô Reba nhìn Everbe. “Làm ơn”, Everbe nói. “Ông muốn gì?”, cô Reba hỏi Butch.

“Chẳng muốn gì”, Butch nói, “Chẳng muốn gì hết. Tôi với Đường Phèn hơi lộn xộn với nhau một chút. Nhưng bây giờ cô xuất hiện, mọi thứ đều ổn thỏa. Hết sẩy”. Gã tới nắm cánh tay Everbe. “Nào. Xe ngựa bên ngoài. Mình đi cho họ rộng chỗ.”

“Gọi ông quản lý”, cô Reba nói, khá lớn, với ta. Ta thậm chí không phải đi; nếu để ý, ta có thể thấy ông thấp thoáng bên kia cửa. Ông đi vào. Cô Reba hỏi: “Có phải ông này là luật pháp ở đây không ?”.

“Sao vậy, tất cả chúng tôi ở đây đều biết Butch, thưa bà Binford”, ông quản lý nói, “Ông ấy có đông bạn bè ở Parsham như mọi người. Dĩ nhiên ông ấy ở trên Hardwick; nói đúng ra, chúng tôi không có cảnh sát ở Parsham; chúng tôi chưa lớn lắm”. Butch nồng nhiệt huênh hoang mời đón ông quản lý gần như trước khi ông vào, như thể ông ‐ ông quản lý ‐ đã nhào đầu tới rồi biến mất như con chuột nhào vào cục sáp còn mềm. Nhưng lúc này mắt Butch khá lạnh, gay gắt.

“Có lẽ ở đây rắc rối vì vậy”, gã bảo ông quản lý, “Có lẽ vì vậy các ông không phát triển và tiến bộ, các ông cần thêm một chút luật pháp”.

“A, Butch”, ông quản lý nói.

“Ông muốn nói bất kỳ ai muốn đều có thể từ ngoài đường bước vào rồi lôi bất kỳ khách phụ nữ nào của ông có vẻ ngoài vừa ý họ nhất tới cái giường gần nhất như kiểu ông là quản lý nhà thổ phải không?”, cô Reba nói.

“Lôi ai đi đâu?”, Butch nói, “Lôi bằng cái gì? Tờ hai đô la hả?” Cô Reba đứng lên.

“Nào”, cô nói với Everbe, “Tối nay có chuyến xe lửa về Memphis. Tôi biết chủ ổ chuột này. Tôi nghĩ ngày mai tôi sẽ đi gặp ông ta…”.

“A, Butch”, ông quản lý nói, “Khoan đã, thưa bà Binford…”.

“Mày ra tiếp khách, Virgil”, Butch bảo ông quản lý.

“Chỉ còn bốn tháng nữa là tới tháng Mười một; ông triệu phú với hai con chó săn chim hảo hạng có thể bước vào bất cứ lúc nào, không có ai ngoài đó để chỉ cho ổng chỗ ký tên. Đi đi. Bọn tao ở đây đều là bạn.” Ông quản lý đi. “Bây giờ hết ngáng đường”, Butch vừa nói vừa với cánh tay Everbe lần nữa.

“Vậy thì gặp ông cũng được”, cô Reba nói với Butch, “Tôi với ông ra phía trước, hay bất kỳ chỗ nào kín đáo. Tôi có vài lời với ông”.

“Việc gì?”, Butch nói. Cô không đáp, cô đã đi tới cửa. “Cô nói việc riêng?”, Butch nói, “Sao vậy, ừ; đâu phải lúc nào tôi cũng được tiếp riêng một cô xinh xắn, tôi sẵn lòng để Đường Phèn nhào vô.” Họ đi ra. Bây giờ ở tiền sảnh, bọn ta không thấy họ bên ngoài cửa phòng khách phụ nữ, gần một phút, có lẽ hơi lâu hơn, trước khi cô Reba trở lại, vẫn bước đều, nghiêm, đẹp và điềm đạm; rồi một giây sau Butch nói, “Vậy hả, hả? Rồi sẽ biết”, cô Reba bước đều tới chỗ bọn ta đợi, nhìn Butch băng qua tiền sảnh, gã thậm chí không nhìn bọn ta.

“Xong rồi à?”, Everbe nói.

“Ừ”, cô Reba nói, “Và cả anh nữa,” cô bảo Boon. Cô nhìn ta. “Chúa ơi”, cô nói.

“Cô làm quái quỷ gì với hắn?”, Boon nói.

“Chẳng làm gì”, cô nói qua vai, vì cô đang nhìn ta, “Tôi nghĩ tôi đã thấy đủ thứ rắc rối nhà thổ rồi. Cho tới khi tôi gặp một vụ có tụi con nít liên can. Cô đem một đứa tới” ‐ cô nói với Everbe ‐ “nó tống chủ đất ra rồi ăn cắp hết bộ răng tháo rời với mười bốn đô la bia; và nếu như vậy chưa đủ, Boon Hogganbeck đem tới một đứa khác để đưa các cô khốn khổ của tôi vào cảnh nghèo và đáng kính. Tôi đi ngủ còn các vị…”.

“Thôi nào”, Boon nói, “Cô đã nói gì với hắn?”. “Anh ở thị trấn nào nhỉ?”, cô Reba nói. “Jefferson”, Boon nói.

“Dân đô thị từ những chỗ như Jefferson và Memphis, với đầu óc thành phố lớn của anh, anh không biết nhiều về luật pháp. Anh phải tới mấy chỗ nhỏ, như chỗ này. Tôi biết, vì tôi lớn lên ở một chỗ nhỏ. Ông ta là cảnh sát do dân bầu. Ông ta có thể ở Jefferson hay Memphis một tuần mà thậm chí anh vẫn không gặp ông ta. Nhưng ở đây trong đám người bầu ông ta (đa số mười hai hay mười ba người bỏ phiếu cho ông ta, và thiểu số chín hay mười hay mười một người không bầu vì vậy đã hối tiếc hay sẽ sớm hối tiếc) ông ta bất chấp cảnh sát quận hạt hay thống đốc tiểu bang hay Tổng thống Hoa Kỳ cả ba nhập một. Vì ông ta là dân Tin Lành. Tôi muốn nói trước tiên ông ta theo đạo Tin Lành, sau đó ông ta là luật pháp. Khi ông ta có thể là dân Tin Lành và luật pháp cùng một lúc, ông ta sẽ là. Nhưng khi luật pháp gặp xung khắc ở chỗ không ai mời, luật pháp biết nó có thể làm gì và làm ở đâu. Người ta nói Pharaoh Ai Cập là ông vua giỏi, và một ông khác thời Kinh Thánh tên Caesar đã làm hết khả năng của ông ấy. Họ nên tới thăm chỗ này để xem một ông cảnh sát do dân bầu ở Arkansas hay Missippi hay Tennessee một lần cho biết.”

“Nhưng làm sao cô biết ông ta là ai?”, Everbe nói. “Làm sao cô biết thậm chí có một ông ở đây?”

“Chỗ nào cũng có”, cô Reba nói, “Chẳng phải tôi vừa mới nói cho cô biết là tôi lớn lên ở một chỗ như thế này à ‐ cho tới khi tôi còn chịu được nó? Tôi không cần biết ông ta là ai. Tôi chỉ cần cho thằng khốn đó biết là tôi biết ở đây cũng có một ông là đủ. Tôi sẽ…”.

“Nhưng cô nói gì với hắn?”, Boon nói, “Thôi nào. Tôi có thể muốn nhớ câu cô nói”.

“Chẳng nói gì cả, tôi đã bảo anh rồi”, cô Reba nói, “Nếu tới lúc này tôi chưa biết cách đối phó với lũ ngựa giống khốn kiếp một tay cầm huy hiệu còn tay kia kéo giải rút quần thì tôi đã sống trong nhà tế bần từ lâu. Tôi bảo hắn nếu tối nay tôi thấy mặt hắn ở đây lần nữa thì tôi sẽ bảo gã quản lý mặt cừu đó đánh thức ông cảnh sát dân cử dậy để nói có một thằng cảnh sát quèn ở Hardwick vừa mới đăng ký hai cô điếm Memphis ở khách sạn Parsham. Tôi đi ngủ, mọi người cũng nên ngủ. Nào, Corrie. Tôi ghi đức hạnh dễ sợ của cô vào sổ của gã quản lý đó, bây giờ cô phải giữ lấy, ít nhất khi hắn thấy cô”. Họ đi. Rồi Boon cũng đi, có thể ông đã theo Butch ra cửa trước chỉ để giám chắc chiếc xe ngựa đã đi. Khi ấy Everbe bỗng sà xuống ta, to lớn như thế: một cô to lớn, thì thầm nhanh:

“Cháu không mang gì theo phải không? Cô muốn nói quần áo. Cháu mặc bộ này từ hôm cháu rời nhà.” “Có sao đâu?”, ta nói.

“Cô sẽ giặt nó”, cô nói, “Quần áo lót, tất, áo ngoài của cháu. Cả cái găng cháu mang nữa. Nào, cởi ra”. “Nhưng cháu chẳng còn gì cả”, ta nói.

“Được mà. Cháu cứ đi ngủ. Cô sẽ sẵn sàng hết tất cả mấy thứ này khi cháu thức dậy. Nào.” Vì thế cô đứng ngoài cửa khi ta cởi áo quần rồi nhét áo ngoài, quần áo lót, tất và găng cưỡi ngựa qua khe cửa cho cô, rồi cô chúc ngủ ngon và ta đóng cửa rồi lên giường; nhưng vẫn chưa xong, còn những việc bọn ta chưa làm, chưa giải quyết: cuộc hội ý bí mật trước khi đua; vạch chiến lược chặt chẽ, ác liệt, táo bạo, âm thầm cho ngày mai. Rồi ta nhận ra rằng, nói đúng ra, bọn ta chẳng có chiến lược gì; bọn ta chẳng có gì để lập kế hoạch ngay cả với con ngựa có chủ nhân mờ ám và thậm chí không biết ai là chủ (trừ phi Ned thật sự biết), bọn ta chỉ biết là trong quá khứ nó đã kiên quyết chạy vừa đủ nhanh để về đích sau con ngựa khác trong cuộc đua. Nó sẽ đua ngày mai, ta không rõ chính xác ở đâu, tranh với con ngựa tất cả bọn ta chưa hề thấy và (nếu bọn ta quan tâm) phải tin là có thật. Rồi ta nhận ra rằng trong mọi thứ nghề của con người, xét về mọi mặt, nghề đua ngựa chắc chắn nằm trong tay Chúa. Rồi Boon bước vào, ta đã nằm trên giường, đã thiêm thiếp.

“Quần áo của cậu đâu?”, ông nói.

“Everbe giặt”, ta nói. Ông đã cởi quần dài và giày, và đã với tay tắt đèn. Ông ngừng lại, chết sững.

“Cậu nói ai?” Ta chợt tỉnh nhưng đã quá muộn. Ta nằm đó nhắm mắt, không cử động. “Cậu nói tên gì?”

“Cô Corrie”, ta nói.

“Cậu nói tên khác.” Ta có thể cảm thấy ông đang nhìn ta. “Cậu gọi cô ấy là Everbe.” Ta có thể cảm thấy ông đang nhìn ta. “Tên cô ấy à?” Ta có thể cảm thấy ông đang nhìn ta. “Vậy cô ấy đã nói tên thật của cô ấy cho cậu.” Rồi ông nói, khá dịu dàng: “Chết tiệt”, và ta thấy qua mí mắt trong căn phòng tắt đèn, rồi cái giường kẽo kẹt khi ông nằm xuống, như mọi cái giường vì ông quá nặng, như ta đã nghe từ ngày ta biết nhớ lúc ta ngủ với ông: một hay hai lần ở nhà khi bố đi vắng và ông đến nhà để mẹ khỏi sợ, và ở nhà cô Ballenbaugh hai đêm trước, và ở Memphis tối hôm qua, rồi ta nhớ rằng mình đã không ngủ với ông ở Memphis: mà với thằng Otis. “Chúc ngủ ngon”, ông nói.

“Ngủ ngon”, ta nói.