Ngay lập tức cả đám đông ùa tới bọn ta. Bọn ta cứ đứng đó, đối diện Butch và người đàn ông kia, lúc này ông ta giữ Sấm Sét. “Vì việc gì vậy, thưa ông da trắng?”, Ned nói.
“Vì việc nhà tù”, người đàn ông kia nói, “Ở đây tụi tôi gọi như vậy. Tôi không biết ở vùng của anh gọi là gì”.
“Vâng thưa ông”, Ned nói, “Ở vùng chúng tôi cũng có. Nhưng họ nói tại sao, ngay cả đối với tụi da đen”.
“Ồ, luật sư”, Butch nói, “Nó muốn xem giấy tờ. Cho nó xem. Thôi khỏi, để tôi.” Gã rút trong túi quần sau: một lá thư trong phong bì vấy bẩn. Ned cầm lấy. Ông đứng đó lặng yên, giữ nó trong tay. “Mày nghĩ sao”, Butch nói, “Một đứa thậm chí không biết đọc lại muốn xem giấy tờ. Vậy thì ngửi nó. Có lẽ mùi của nó ổn”.
“Vâng thưa ông”, Ned nói, “Nó ổn”.
“Đừng nói mày bằng lòng nếu mày không bằng lòng”, Butch nói.
“Vâng thưa ông”, Ned nói, “Nó ổn.” Bây giờ đám đông đã vây quanh bọn ta. Butch lấy lại phong bì trên tay Ned và nhét nó vào túi của gã rồi nói với họ: “Được rồi, tụi bay; chỉ hơi trục trặc pháp lý về việc ai là chủ con ngựa này. Cuộc đua không bỏ. Lần đua đầu vẫn có giá trị; hai lần đua kế tiếp chỉ hoãn tới ngày mai. Tụi phía sau có nghe rõ không?”.
“Tụi tôi hình như không rõ, cá cược có bị bỏ theo không”, một giọng nói vang lên. Có tiếng cười ha hả, rồi hai, ba tiếng.
“Tao không biết”, Butch nói, “Ai thấy con ngựa Memphis này đua với Akron hai lần hồi mùa đông vừa rồi mà vẫn cá độ cho nó thì đã vứt tiền của mình ngay cả trước khi đặt cược”, gã chờ, nhưng lần này không có tiếng cười; khi ấy giọng nói ‐ hay một giọng khác ‐ thốt lên:
“Walter Clapp cũng nghĩ như vậy hả? Thêm ba mét nữa thì con màu hạt dẻ hôm nay sẽ thắng nó.”
“Thôi được, thôi được”, Butch nói, “Ngày mai tính. Không có gì thay đổi; hai lần đua kế tiếp chỉ hoãn tới ngày mai. Năm chục đô la tiền cá độ vẫn có giá trị và Đại tá Linscomb mới thắng một lần. Nào, nào; tụi tao phải bắt con ngựa này và nhân chứng về thị trấn để làm rõ mọi việc và chuẩn bị cho đua lại ngày mai. Ai phía sau đem hộ chiếc xe ngựa của tao tới.” Khi ấy ta thấy Boon, cao hơn họ một cái đầu. Mặt ông lúc này khá bình tĩnh, vẫn bê bết máu, và người ta (ta đoán ông bị còng tay, nhưng không; bọn ta vẫn có dân chủ; ông chỉ là thiểu số chứ không phải là kẻ dị giáo) đã buộc cánh tay áo rách quanh cổ để ông che thân. Khi ấy ta cũng thấy Sam, ông chỉ hơi bị xước, ông là người lấn tới trước tiên. “Nào, Sam”, Butch nói, “Tụi tôi cố tránh ông ba chục phút vừa rồi, nhưng ông không để tụi tôi tránh”.
“Ừ đúng, tôi sẽ không để anh tránh”, Sam nói, “Tôi hỏi anh lần nữa, và đây là lần cuối. Chúng tôi bị bắt phải không?”.
“Ai bị bắt?”, Butch nói. “Hogganbeck. Tôi. Anh da đen kia.”
“Lại thêm một luật sư nữa”, Butch nói với người đàn ông kia. Bây giờ ta lập tức biết ông ta là luật pháp ở Parsham; ông là người mà cô Reba đã nói với bọn ta tối hôm qua: một viên chức cảnh sát do dân bầu của khu vực, nơi Butch với cái huy hiệu và khẩu súng của gã cũng chỉ là khách như bọn ta, vì (Butch) chỉ là một kẻ được bổ nhiệm không nhiệm kỳ nhờ gia đình quen biết văn phòng ông hội đồng của Sở cảnh sát quận hạt ở Hardwick cách đây mười ba dặm. “Có lẽ hắn cũng muốn xem giấy tờ.”
“Không”, người đàn ông kia, ông cảnh sát dân cử, nói với Sam, “Ông muốn đi đâu tùy ông”.
“Vậy tôi sẽ về Memphis tìm luật pháp”, Sam nói, “Tôi nói là thứ luật pháp một người như tôi có thể tìm tới mà không bị lột cả quần dài lẫn quần lót. Nếu tối nay tôi không quay lại thì sáng sớm mai tôi sẽ tới.” Ông nhìn thấy ta. Ông nói, “Nào. Cậu đi với tôi”.
“Không”, ta nói, “Cháu ở lại đây.” Ông cảnh sát dân cử nhìn ta.
“Cháu có thể đi với ông ấy, nếu cháu muốn”, ông nói. “Không thưa ông”, tôi nói, “Cháu ở lại đây”.
“Cậu này con cái nhà ai?”, ông cảnh sát dân cử nói.
“Cậu ấy đi với tôi”, Ned nói. Ông cảnh sát dân cử nói như thể Ned chưa lên tiếng, chưa hề có tiếng đáp lại: “Ai mang cậu này tới đây?”.
“Tôi”, Boon nói, “Tôi làm việc cho bố cậu ấy”.
“Tôi làm việc cho ông nội cậu ấy”, Ned nói, “Chúng tôi đã săn sóc cậu ấy”.
“Khoan đã”, Sam nói, “Tôi sẽ cố quay lại tối nay. Khi ấy mình lo liệu mọi việc”.
“Và khi ông quay lại”, ông cảnh sát dân cử nói, “Hãy nhớ rằng ông không ở Memphis hay Nashville. Thậm chí ông không ở quận hạt Hardwick ngoại trừ lúc chọn ứng cử viên. Lúc này, và mỗi lần ông xuống xe lửa ở nhà ga đằng kia, ông đang ở Khu Bốn.”
“Cho tụi nó biết, ông tòa”, Butch nói, “Đất nước tự do Possum, Tennessee”.
“Tôi cũng đang nói với anh”, ông cảnh sát dân cử bảo Butch, “Anh có lẽ là người cần cố gắng nhớ điều đó nhất.” Chiếc xe ngựa tới chỗ họ đang giữ Boon. Ông cảnh sát dân cử ra hiệu cho Ned tới đó. Thình lình Boon vùng vẫy, Ned nói gì đó với ông. Rồi ông cảnh sát dân cử quay qua tôi, “Anh da đen đó nói cháu về nhà với cụ Possum Hood”.
“Vâng thưa ông”, ta nói.
“Bác nghĩ bác không thích như vậy ‐ một đứa bé da trắng ở với một gia đình da đen. Cháu về nhà với bác.”
“Không thưa ông”, ta nói.
“Về với bác”, ông nói, nhưng vẫn thật tử tế, “Nào. Bác bận”.
“Có lúc ông nên ngừng lại”, Ned nói. Ông cảnh sát dân cử trở nên hoàn toàn bất động, xoay nửa người.
“Anh nói gì?”, ông nói.
“Có lúc luật pháp nên ngừng lại để người ta đi”, Ned nói. Và ông cảnh sát dân cử vẫn bất động thêm một tích tắc nữa ‐ một ông lớn tuổi hơn ta thoạt nghĩ, gầy, khá tráng kiện, nhưng già hơn, không mang súng trong túi hay bất cứ chỗ nào, và nếu ông ta có huy hiệu thì nó cũng không lộ ra.
“Anh nói đúng”, ông nói. Ông bảo ta: “Cháu muốn ở lại đó phải không? Với cụ Possum?”. “Vâng thưa ông”, ta nói.
“Thôi được”, ông nói. Ông quay lưng. “Lên xe,” ông nói.
“Ông làm gì với thằng đen?”, Butch nói. Gã đã cầm dây cương từ tay người đem cỗ xe ngựa lại, chân gã đã đặt trên bàn đạp để bước lên chỗ người đánh xe, Boon và Sam đã lên phía sau, “Để nó cưỡi con ngựa của ông hay sao?”.
“Anh cưỡi con ngựa của tôi”, ông cảnh sát dân cử nói. “Nhảy lên”, ông bảo Ned. “Anh là người thành thạo về ngựa ở đây.” Ned cầm cương từ tay Butch rồi leo lên và chặn bánh xe cho ông cảnh sát dân cử lên bên cạnh ông. Boon vẫn nhìn xuống ta, mặt ông bầm rách nhưng lặng lẽ, máu đã khô.
“Đi với Sam”, ông nói.
“Cháu không sao đâu”, ta nói. “Không”, Boon nói, “Tôi không thể…”.
“Tôi biết Possum Hood”, ông cảnh sát dân cử nói, “Nếu tôi cảm thấy lo cho cậu ta thì tối nay tôi sẽ quay lại tìm cậu ta. Đi nào.” Họ lên đường. Họ đi khuất. Ta cô đơn. Ta muốn nói là nếu bị để lại một mình như khi hai người thợ săn tách ra trong rừng hay trên cánh đồng để chốc nữa gặp lại, dù cho gặp lúc tối khuya ở trại, thì ta vẫn không cô đơn như thế. Đúng vậy, ta cô đơn. Ta là hòn đảo giữa vòng mũ đẫm mồ hôi, quần áo lao động và sơ mi không cà vạt, những khuôn mặt không tên xa lạ đã quay lưng lại khi ta tìm họ, và không ai nói một lời với ta Ừ hay Không hay Đi hay Ở: kẻ ‐ ta ‐ đã bị bỏ rơi nay bị bỏ rơi lần nữa, và ở tuổi mười một ta chưa đủ lớn về tầm vóc để đáng bị bỏ rơi nhiều như vậy; ta sẽ bị xóa sạch, lu mờ, tan biến, bốc hơi. Tới khi một người trong số họ nói:
“Cậu tìm Possum Hood à? Tôi nghĩ ông ấy ở đằng kia bên cạnh cỗ xe của ông ấy, đang đợi cậu.” Đúng vậy. Xe chở hàng và xe ngựa lúc này đang kéo ra; phần lớn xe và tất cả bầy la và ngựa đã đi khỏi. Ta bước tới cỗ xe rồi ngừng lại. Ta không biết vì sao: ta chỉ ngừng lại. Có lẽ không còn nơi nào khác để đi. Ta muốn nói không có chỗ đặt bước chân kế tiếp trước khi có người di chuyển chiếc xe.
“Leo lên”, cụ Parsham nói, “Mình về nhà đợi Lycurgus”.
“Lycurgus”, ta nói như thể chưa bao giờ nghe cái tên ấy.
“Nó cưỡi con la ra thị trấn. Nó sẽ tìm xem chuyện gì xảy ra rồi về kể cho mình. Nó sẽ hỏi mấy giờ tối nay có chuyến xe lửa về Jefferson.”
“Về Jefferson?”, ta nói.
“Để cậu có thể về nhà”, ông không nhìn hẳn ta, “Nếu cậu muốn”.
“Cháu chưa thể về nhà”, ta nói, “Cháu phải đợi Boon”.
“Tôi nói nếu cậu muốn”, cụ Parsham nói, “Leo lên.” Ta leo lên. Cụ đánh xe băng qua bãi cỏ, lên con đường. “Đóng cổng lại”, cụ Parsham nói, “Tới lúc có người phải nhớ đóng cổng.” Ta đóng cổng rồi lên xe. “Cậu đã bao giờ điều khiển con la kéo xe chưa?”
“Chưa thưa cụ”, ta nói. Cụ đưa dây cương cho ta. “Cháu không biết cách,” ta nói.
“Vậy thì bây giờ cậu học. Con la không như con ngựa. Khi ngựa có ý niệm sai trong đầu thì cậu chỉ phải đổi cho nó một ý niệm khác. Phần lớn ý nào cũng xong ‐ một cái quất hay thúc hay chỉ dọa cho nó sợ bằng cách quát nó. Con la thì khác. Nó có thể có hai ý niệm cùng lúc, và cách để thay đổi một trong hai ý niệm là hành động như cậu tin rằng nó đã nghĩ tới việc đổi ý niệm đó trước. Nó sẽ biết, vì bọn la có đầu óc. Nhưng con la cũng là kẻ lịch lãm, và khi cậu cư xử nhã nhặn và nể trọng nó, không với ý định mua chuộc hay làm nó sợ, thì nó sẽ cư xử nhã nhặn và nể trọng cậu ‐ miễn là cậu đừng quá trớn với nó. Đó là lý do cậu không vỗ về con la như cậu vỗ về con ngựa: nó biết cậu không yêu nó, cậu chỉ có ý định dụ dỗ nó làm điều nó đã không định làm, và như vậy là làm nhục nó. Đối xử với nó như thế. Nó biết đường về nhà, nó sẽ biết không phải tôi cầm dây cương. Vì thế cậu chỉ cần bảo nó qua sợi dây cương là cậu cũng biết đường, nhưng nó sống ở đây, và cậu chỉ là một cậu nhỏ vì thế cậu muốn nó đi trước.”
Bọn ta tiếp tục đi, lúc này khá nhanh, con la khéo léo và lanh lẹ, chỉ làm tung nửa số bụi so với ngựa. Ta đã cảm nhận được điều cụ Parsham nói, qua sợi dây cương, ta cảm thấy không chỉ là sức mạnh mà là sự thông minh sắc sảo, không chỉ là khả năng mà là sự sốt sắng lựa chọn giữa hai giải pháp khi cần, và quyết định đúng mà không do dự. “Ở nhà cháu làm gì?”, cụ Parsham nói.
“Thứ Bảy cháu đi làm”, ta nói.
“Thế thì cháu dành dụm được một ít tiền. Cháu định dùng tiền mua gì?” Và bỗng nhiên ta nói chuyện, kể với cụ: về những con chó săn thỏ. Ta muốn săn cáo như anh Zack, và anh Zack nói nên học bằng một đàn chó săn thỏ; và bố trả ta mười xu mỗi thứ Bảy ở chuồng ngựa cho thuê, bố sẽ góp thêm tiền bằng số ta dành dụm được để ta có thể mua cặp chó đầu tiên trong đàn của mình, cặp chó giá mười hai đô la và ta đã có tám đô mười xu, rồi khi ấy, cũng bỗng dưng, ta khóc, thảm thiết: ta mệt, không vì đã đua ngựa một dặm, trước kia ta đã cưỡi ngựa nhiều hơn như thế, tuy không phải là đua thật; nhưng có lẽ vì thức dậy sớm và chạy ngược xuôi khắp vùng quê mà không ăn gì ngoài mẩu bánh ngô. Có lẽ thế: ta chỉ đói. Nhưng dù sao, ta ngồi đó, khóc thảm thiết như đứa bé, tệ hơn Alexander và tệ hơn cả Maury, dụi vào áo cụ Parsham trong khi cụ ôm ta trong vòng tay và tay kia đỡ lấy dây cương, không nói một lời, tới khi cụ bảo, “Bây giờ cháu ngưng được rồi. Mình sắp tới nhà; cháu sẽ có đủ thời giờ rửa mặt ở máng nước trước khi mình vào nhà. Cháu đâu có muốn các bà nhìn thấy mặt cháu như vậy”.
Ta vâng lời. Nghĩa là, trước tiên bọn ta tháo con la ra, cho nó uống nước, treo bộ yên cương lên, lau sạch mồ hôi cho nó, dắt vào chuồng và cho nó ăn, rồi đẩy cỗ xe về dưới chái nhà, khi ấy ta quẹt nước lem nhem lên mặt ở máng nước rồi lau khô (điệu nghệ) bằng cái găng cưỡi ngựa và bọn ta đi vào nhà. Và bữa ăn ‐ bữa ăn tối ‐ đã sẵn sàng tuy mới năm giờ, giờ dân quê, những nông dân ăn tối; bọn ta ngồi xuống: cụ Parsham với con gái cụ và ta, vì Lycurgus chưa từ thị trấn về, và cụ Parsham nói, “Ở nhà cháu cũng đọc kinh tạ ơn chứ?”, ta nói, “Vâng thưa cụ”.
Và cụ nói, “Cúi đầu”. Chúng ta cúi đầu, và cụ nói lời cầu nguyện, ngắn, nhã nhặn nhưng chững chạc, không hạ phẩm giá hay hèn mọn: một người đứng đắn và có tri thức nói với một người khác: thông báo cho Thiên đàng rằng chúng tôi sắp ăn và cảm ơn Nó về đặc ân này, nhưng đồng thời nhắc Nó rằng Nó cũng đã giúp; rằng nếu ai tên Hood hay Briggins (vì thế ta biết đó là họ của Lycurgus và mẹ anh) đã không đổ mồ hôi thì họ chỉ nên được đền đáp bằng cái đĩa không có thức ăn, rồi nói Amen và mở khăn ăn nhét một góc vào cổ áo đúng y như ông nội làm, rồi bọn ta ăn: món rau nguội lạnh đáng lẽ nên ăn nóng vào lúc mười một giờ nông thôn, nhưng có bánh qui nóng với ba loại mứt và sữa loãng. Mặt trời vẫn chưa lặn: hoàng hôn thật lâu, sau đó vẫn còn buổi tối dài, đêm dài, và ta thậm chí không biết mình sẽ ngủ ở đâu hay trên cái gì, cụ Parsham ngồi đó xỉa răng bằng cây tăm vàng như của ông nội và đọc được ý nghĩ của ta như thể nó là chiếc đèn kéo quân: “Cháu thích đi câu không?” Ta thật sự không thích lắm. Ta hình như không thể học để muốn ngồi yên lâu như thế ‐ hay có lẽ không muốn học. Ta đáp nhanh:
“Vâng thưa cụ.”
“Vậy thì đi. Tới lúc đó Lycurgus sẽ về đến.” Ba cần câu với dây, phao, chì, lưỡi câu đủ cả, gác trên hai cây đinh đóng lên bờ tường hiên sau. Cụ mang hai cần câu xuống. “Đi nào”, cụ nói. Trong lán dụng cụ có một hộp thiếc đục nhiều lỗ đinh trên nắp. “Hộp dế của Lycurgus”, cụ nói, “Ông thích giun.” Giun trong cái khay nông bằng gỗ đổ đầy đất; cụ ‐ không: ta; tôi nói: “Để cháu làm”, rồi lấy cái nĩa gẫy từ tay cụ và đào những con giun dài hoảng hốt ra khỏi đất cho vào hộp thiếc.
“Đi nào”, cụ nói, vác cần câu của cụ lên vai, đi ngang chuồng ngựa nhưng rẽ ngoặt xuống lòng con lạch, không xa; con đường mòn nhẵn nhụi giữa bụi dâu đen, rồi hàng liễu, rồi con lạch, nước dường như dịu dàng đón ánh chiều tà rồi dịu dàng phản chiếu lại; thậm chí có một khúc gỗ để ngồi. “Con gái của ông câu chỗ này”, cụ nói, “Trong nhà gọi nó là lỗ câu của Mary. Nhưng bây giờ cháu cứ câu ở đây. Ông sẽ xuống dưới bờ.” Rồi cụ đi khuất. Nắng lúc này tàn nhanh, chẳng mấy chốc sẽ tối. Ta ngồi trên khúc gỗ giữa tiếng vo ve nho nhỏ của bầy muỗi. Không khó lắm, ta chỉ cần nói Mình sẽ không nghĩ mỗi khi cần. Một lát sau ta nghĩ tới việc thả lưỡi câu xuống nước, khi ấy ta có thể xem sau bao lâu cái phao sẽ biến mất vào bóng đen khi đêm xuống. Ta thậm chí có ý móc một con dế của Lycurgus vào lưỡi câu, nhưng dế không dễ bắt, và Lycurgus sống gần lạch sẽ có nhiều thời giờ để câu và sẽ cần chúng. Vì thế ta chỉ nghĩ Mình sẽ không nghĩ; ta có thể thấy cái phao rõ hơn, lúc này nó nổi trên mặt nước; nó chắc sẽ là vật cuối cùng biến mất trong bóng đen, vì chính mặt nước sẽ biến mất trước nó. Ta không thấy, không nghe được cụ Parsham, ta không biết cụ đi theo bờ bao xa, và bây giờ đúng là lúc, là cơ hội để cư xử như một đứa bé, dù chẳng hay hớm gì khi cư xử như một đứa bé, khi phí phạm nước mắt mà không có ai ở đó để biết hay an ủi ‐ nếu muốn được an ủi, hay thật ra muốn về nhà vì điều ta thật sự muốn chỉ là cái giường êm ái quen thuộc để ngủ như trước kia, để tới nằm ngủ trên nó. Lúc này có những con chim đớp muỗi và xa xa ngoài lạch có chim cú, nghe tiếng kêu chắc là một con lớn, có lẽ phía đó có cây to, và nếu bầy chó săn của Lycurgus (hay có lẽ của cụ Parsham) giỏi săn Otis tối hôm qua thì chắc chúng có thể bắt thỏ hay sóc hay chồn. Vì thế ta hỏi cụ. Trời đã tối hẳn được một lúc. Cụ nói nhỏ từ đằng sau ta, ta thậm chí không nghe tiếng cụ cho tới khi:
“Câu được gì không?”
“Cháu không phải là dân đi câu”, ta nói, “Mấy con chó của cụ săn thế nào?”.
“Giỏi”, cụ nói. Cụ thậm chí không cất cao giọng:
“Kia kìa.” Chiếc áo trắng của cụ Parsham cũng đón ánh sáng, Lycurgus tiến tới chỗ bọn ta rồi cầm lấy hai cần câu, bọn ta theo sau, lên lại lối mòn, hai con chó săn đón bọn ta ở đó, vào lại nhà, dưới ánh đèn, một đĩa thức ăn phủ khăn đang đợi Lycurgus.
“Ngồi xuống”, cụ Parsham nói, “Cháu có thể nói trong lúc ăn.” Lycurgus ngồi xuống.
“Họ vẫn ở đó”, anh nói.
“Người ta chưa đưa họ đi Hardwick à?”, cụ Parsham nói. “Possum chưa có nhà tù”, cụ bảo ta. “Người ta nhốt họ trong cái lán gỗ sau trường học tới khi có thể đưa về nhà tù ở Hardwick. Nhà tù cho nam giới. Trước kia họ chưa hề có tù nhân phụ nữ.”
“Không, thưa ông”, Lycurgus nói, “Các cô kia vẫn ở khách sạn, có một người gác ở cửa. Chỉ có ông Hogganbeck ở trong lán gỗ. Ông Caldwell về lại Memphis trên chuyến Ba mươi mốt. Ông ấy dắt theo thằng nhóc đó”.
“Otis?”, ta hỏi, “Họ có lấy lại được cái răng không?”.
“Họ không nói”, Lycurgus vừa nói vừa ăn, anh liếc ta, “Con ngựa cũng ổn thỏa. Anh đi xem nó. Nó trong chuồng ngựa khách sạn. Trước khi đi, ông Caldwell đặt tiền bảo lãnh cho ông McCaslin để ông ấy có thể trông nom con ngựa.” Anh ăn. “Có chuyến xe lửa đi Jefferson lúc chín giờ bốn mươi. Mình có thể kịp nếu nhanh lên.” Cụ Parsham lấy cái đồng hồ lớn bằng bạc trong túi ra xem. “Mình kịp”, Lycurgus nói.
“Em không đi được”, ta nói. “Em phải đợi.” Cụ Parsham cất đồng hồ lại. Cụ đứng lên. Cụ nói, không to: “Mary.” Bà ở trong phòng phía trước, ta không nghe thấy tiếng động nào. Bà bước tới cửa.
“Con chuẩn bị rồi”, bà nói. Bà bảo Lycurgus: “Nệm của con trong hành lang.” Rồi bảo ta: “Cháu ngủ trên giường của Lycurgus chỗ cháu ngủ hôm qua”.
“Cháu không cần lấy giường của Lycurgus”, ta nói. “Cháu có thể ngủ với cụ Parsham. Cháu ổn mà.” Họ nhìn ta, yên lặng, rất giống nhau. “Cháu ngủ với Sếp nhiều lần”, ta nói, “Sếp cũng ngáy. Cháu không sao đâu”.
“Sếp nào?”, cụ Parsham nói.
“Chúng cháu gọi ông nội là Sếp”, ta nói, “Ổng cũng ngáy. Cháu không sao đâu”.
“Cũng được”, cụ Parsham nói. Bọn ta vào phòng cụ. Ngọn đèn của cụ vẽ hoa trên bóng bằng sứ, và bức chân dung lớn khung vàng trên giá vẽ vàng trong góc: một phụ nữ không già lắm nhưng mặc bộ áo kiểu xưa. Giường trải tấm chăn vải chắp tươi màu như của Lycurgus, và ngay cả trong tháng Năm cũng có than cháy âm ỉ trong lò sưởi. Có một cái ghế, một cái ghế đung đưa nữa, nhưng ta không ngồi xuống. Ta chỉ đứng đó. Rồi cụ lại vào phòng. Bây giờ cụ mặc bộ áo ngủ và đang lên dây chiếc đồng hồ bạc. “Cởi áo ra”, cụ nói. Ta vâng theo. “Mẹ cháu để cháu ngủ như thế ở nhà à?”
“Không, thưa cụ”, ta nói.
“Cháu không mang gì theo phải không?”
“Vâng, thưa cụ”, ta nói. Cụ để chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi rồi đi tới cửa và nói, “Mary.” Bà đáp. “Mang cái áo sạch của Lycurgus.” Một lúc sau bàn tay bà cầm áo đưa qua khe cửa. Cụ đỡ lấy. “Đây”, cụ nói. Ta đến mặc áo vào. “Cháu đọc Giờ đây con đặt mình trên giường hay quỳ gối.”
“Quỳ gối,” ta nói.
“Đọc đi”, cụ nói. Ta quỳ bên giường đọc lời cầu nguyện. Chiếc giường đã chuẩn bị xong. Ta leo lên, cụ thổi tắt đèn, ta lại nghe tiếng giường và khi ấy ‐ tối nay trăng lên muộn nhưng đã đủ sáng ‐ ta có thể thấy cụ, toàn đen trắng trên cái gối trắng và ria mép trắng uy nghi, nằm ngửa, tay cụ xếp trên ngực. “Sáng mai ông sẽ đưa cháu ra thị trấn, mình sẽ gặp ông Hogganbeck. Nếu ông ấy nói cháu đã làm hết điều cháu có thể làm ở đây rồi và cháu nên về nhà thì khi ấy cháu có về không?”
“Có thưa cụ”, ta nói.
“Bây giờ ngủ đi”, cụ nói. Trước khi cụ hỏi thì ta đã biết đó chính là điều ta muốn, điều ta muốn có lẽ từ hôm qua là về nhà. Ta muốn nói là chẳng ai thích ăn đòn, nhưng có lẽ nhiều lúc ta không sao tránh được, điều duy nhất ta có thể làm là đừng bỏ cuộc. Boon và Ned đã không bỏ cuộc, nếu không họ đã không ở chỗ bây giờ họ đang ở. Và có lẽ họ cũng không nói ta đã bỏ cuộc, khi chính họ bảo ta về nhà. Có lẽ ta quá nhỏ, quá trẻ, có lẽ ta không thể gánh phần mình, và nếu họ có người khác lớn hơn hay nhiều tuổi hơn hay có thể chỉ khôn khéo hơn thì bọn ta sẽ không bị ăn đòn. Thấy chưa? Như thế, với mọi vẻ bên ngoài và lý lẽ bên trong, thậm chí không thể bài bác, sự thật đơn giản chỉ là ta muốn về nhà và không đủ can đảm để thốt ra, nói gì đến thực hiện. Vì thế giờ đây, sau khi rốt cuộc đã thừa nhận ta không những là kẻ thất bại mà còn hèn nhát, tâm trí ta nên yên bình thanh thản, và ta nên ngủ như em bé: cụ Parsham đã ngủ, chỉ hơi ngáy (người ta nên nghe ông nội ngáy một lần). Chuyện đó cũng chả thành vấn đề, vì ngày mai ta sẽ ở nhà, sẽ không có gì can thiệp vào giấc ngủ ‐ không có con ngựa ăn cắp, hay các cô điếm trong trắng và những kẻ giang hồ soát vé toa xe lửa hạng sang, và Ned, và Boon Hogganbeck với bản tính tự nhiên của ông một khi ông ngoài tầm kiểm soát của bố ‐ chen vào giấc ngủ, tiếng gì đó oang oang hai hay ba lần trước khi ta vùng dậy thoát ra, hòa vào ánh sáng ban ngày, ánh nắng. Bên phía giường của cụ Parsham đã trống và lúc này ta nghe tiếng oang oang từ ngoài căn nhà: “Ê. Ê. Lycurgus. Lycurgus”, và bật dậy, phóng khỏi giường, chạy, băng tới cửa sổ, ở đó ta có thể nhìn ra sân trước. Ned. Ông có con ngựa.