• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bọn đạo chích
  3. Trang 4

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 3
  • 4
  • 5
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 3
  • 4
  • 5
  • More pages
  • 16
  • Sau

1

Ông nội nói: Boon Hogganbeck là loại người như thế. Treo trên bức tường ấy, nó có lẽ là bia mộ của ông ấy, tựa như tờ mô tả nhân dạng kiểu Bertillon1 hay tấm hình truy nã của cảnh sát; bất kỳ anh cớm nào ở Bắc Mississippi cũng sẽ tóm cổ ông ấy giữa đám đông sau khi đọc lướt qua ngày tháng.

1 Alphone Bertillon (1853 – 1914): sĩ quan cảnh sát Pháp phát minh ra phương pháp nhận dạng bằng cách ghi các đặc điểm trên cơ thể. (ND: người dịch).

Hôm đó là sáng thứ Bảy, khoảng mười giờ. Chúng ta ‐ cụ cố nội của cháu và ông ‐ đang ở trong văn phòng, bố ngồi ở bàn làm việc cộng số tiền trong túi vải bạt và so nó với bản liệt kê hóa đơn vận chuyển ta vừa mới đi vòng quanh quảng trường thu góp về; ta ngồi trên ghế quay lưng vào tường đợi tới giữa trưa để được trả số lương (hàng tuần) mười xu mỗi thứ Bảy, rồi chúng ta sẽ về nhà dùng bữa, và rốt cuộc ta sẽ được tha hồ tham dự trận bóng chày (lúc đó là tháng Năm) đã diễn ra không có ta từ bữa ăn sáng: với quan điểm (không phải của ta mà của cụ cố nội cháu) là ngay cả ở tuổi mười một, một người cũng nên kiếm ra tiền được một năm rồi, cậu ta nên nhận trách nhiệm với khoảng không gian mình chiếm ngự, với chỗ mình choán trong nền kinh tế thế giới (tức là nền kinh tế của Jefferson, bang Mississippi). Mỗi sáng thứ Bảy, ta cùng bố rời nhà ngay sau bữa điểm tâm, khi tất cả bọn con trai ngoài phố chỉ trang bị quả bóng chày, cây gậy và găng tay ‐ chưa kể ba đứa em trai của ta, ít tuổi hơn vì thế nhỏ hơn, may mắn hơn, bởi vì đây chính là logic, hay là lý luận, của bố: bất cứ một tay đàn ông trưởng thành nào đã đổ mồ hôi làm lụng xứng đáng được cân đối hoặc giảm bớt gánh nặng kinh tế từ bốn đứa con; bất kể đứa nào, mà thực ra chắc chắn là đứa lớn nhất, đủ sức đảm đương gánh nặng mà hoạt động kinh tế đòi hỏi: trong trường hợp này chính là việc mỗi sáng thứ Bảy đi mấy vòng cầm hóa đơn của những rương thùng hàng hóa mà trong tuần những người đánh xe da đen của chúng ta đã nhận ở nhà ga để giao đến cửa sau các hiệu tạp hóa, tiệm bán đồ gia dụng và tiệm bán nông cụ, rồi mang túi vải bạt về chuồng ngựa cho thuê để bố đếm và kết toán, rồi ngồi trong văn phòng cho hết buổi sáng để trả lời điện thoại ‐ đấy là để nhận mười xu mỗi tuần, thứ để xác nhận rằng ta đã sống trong công việc.

Chúng ta đang làm như vậy lúc Boon nhảy qua cửa. Đúng thế. Nhảy. Bậc thang lên hành lang thật ra không cao lắm ngay cả đối với đứa nhóc mười một tuổi (mặc dù ông cai ngựa John Powell đã bảo anh đánh xe trẻ nhất tên Son Thomas tìm, mượn, lấy ‐ ừ thì, nẫng ‐ đâu đó một khúc gỗ để làm bậc ở giữa cho ta), Boon lẽ ra đã có thể bước lên nó như thông lệ với sải chân dài một mét chín của ông ta. Nhưng lần này thì không, ông ta nhảy vào phòng. Trong trạng thái bình thường mặt ông ta đã chẳng bao giờ có vẻ hiền lành hay điềm tĩnh gì lắm; lúc này có vẻ như nó sắp nổ tung giữa hai vai vì kích động, khẩn trương hay đại loại thế, ông ta vừa xuyên qua văn phòng tới bàn làm việc vừa thét lên với bố: “Coi chừng, ông Maury, tránh ra!”, vừa lao qua bố vừa với tay tới ngăn kéo bên dưới, nơi cất khẩu súng lục của chuồng ngựa cho thuê; ta không rõ Boon lao tới ngăn kéo và đụng vào cái ghế (cái ghế xoay trên mấy bánh xe) hay bố hất lùi ghế để lấy chỗ đá văng bàn tay đang với tới của Boon, những đống tiền xu gọn ghẽ vung vãi trên bàn làm việc, lúc này bố cũng vừa quát tháo vừa giẫm lên ngăn kéo, hay bàn tay của Boon, hoặc có lẽ cả hai:

“Đồ chết tiệt, ngừng lại!”

“Tôi sẽ bắn thằng Ludus!”, Boon rú lên, “Lúc này chắc nó vẫn ngay bên kia quảng trường! Mặc tôi, ông Maury!”.

“Không!”, bố nói. “Biến đi!”

“Ông không cho tôi lấy nó?”, Boon nói. “Không, chết tiệt thật!”, bố thốt.

“Được rồi”, Boon nói, lại nhảy ngược ra cửa và biến mất. Nhưng bố chỉ ngồi đó. Ta chắc chắn cháu thường để ý thấy những người ngoài ba mươi hay bốn mươi khờ khạo thế nào. Ta không nói là hay quên. Nói như vậy là hời hợt và dễ dãi, quá dễ dãi nên mới nói Ồ papa (hay ông nội) hay mama (hay bà nội), họ già rồi mà; họ đãng trí rồi. Vì có một số điều, một số thực tế khắc nghiệt của cuộc đời, ta không quên bất kể ta bao nhiêu tuổi. Hồi còn là một đứa nhóc, chúng ta bước trên khúc gỗ để băng qua rãnh sâu, hố lớn. Ở tuổi ba mươi lăm hay bốn mươi, chúng ta rón rén lẩy bẩy lùi lại, và khúc gỗ để đặt chân biến mất; chúng ta thậm chí không nhớ có khúc gỗ nhưng ít nhất chúng ta không bước vào khoảng trống mà khúc gỗ từng bắc ngang. Hồi đó bố chính là như vậy. Boon nhảy vào văn phòng không báo trước, suýt làm đổ ghế của bố, chộp lấy ngăn kéo cất khẩu súng lục khi bố xoay xở đá hay đạp hay làm gì đó để hất bàn tay ông ấy ra thì Boon xoay người nhảy ngược ra khỏi văn phòng, và rõ ràng, hiển nhiên bố nghĩ tất cả chỉ có vậy thôi, xong rồi. Thậm chí bố ngưng mắng mỏ, chỉ trên nguyên tắc, như thể chưa hề có việc gì khẩn cấp, vừa lôi cái ghế lại bàn làm việc vừa nhìn đống tiền vung vãi và bây giờ sẽ phải đếm lại từ đầu, đó là khi ông lại bắt đầu mắng Boon, không vì khẩu súng lục mà chỉ vì Boon là Boon Hogganbeck, cho đến khi ta bảo với ông.

“Ông ấy sẽ xoay sang mượn súng của John Powell”, ta nói.

“Cái gì?”, bố nói. Rồi ông cũng bật dậy, cả hai chúng ta băng qua văn phòng ra hành lang, và từ hành lang tới khoảnh đất sau chuồng ngựa, nơi John Powell và Luster đang giúp ông thợ rèn Gabe đóng móng cho ba con la và một trong mấy con ngựa kéo xe, lúc này bố thậm chí không có thời giờ để chửi bới, cứ mỗi ba bước lại quát: “John! Boon! John! Boon!”.

Nhưng lần này ông cũng quá muộn. Vì Boon đã lừa được John ‐ lừa bọn ta. Vì khẩu súng của John Powell không chỉ là vấn đề đạo đức ở chuồng ngựa mà còn là vấn đề tình cảm nữa. Nó là khẩu súng lục 10,4 mm nòng ngắn khá cũ nhưng trong tình trạng hoàn hảo, vì John đã giữ gìn nó như thế từ khi ông mua lại của cha ông ngày ông hai mươi mốt tuổi. Vấn đề là ông ấy lẽ ra không nên có nó. Ý ta là, về mặt thủ tục thì nó không tồn tại. Theo quy định từ ngày thành lập thì khẩu súng duy nhất mà chuồng ngựa có là khẩu súng nằm trong ngăn kéo dưới cùng bên phải bàn làm việc trong văn phòng, và các quý ông ở đây thì ngầm thỏa thuận với nhau là không nhân viên nào trong cơ sở kinh doanh này sở hữu một khẩu súng từ lúc đến làm nhiệm vụ tới khi về nhà, nói gì tới việc mang súng theo mình trong lúc làm việc. Nhưng ‐ và John đã giải thích cho tất cả chúng ta và nhận được sự đồng tình và thông cảm, đó là một lập trường thống nhất bất khả lay chuyển đối với thế gian và cả đối với chính bố nếu cuộc khủng hoảng khó tưởng tượng ấy không xảy ra, mà nó sẽ không xảy ra nếu không có Boon Hogganbeck ‐ ông (John) kể với bọn ta rằng ông đã kiếm tiền mua khẩu súng bằng cách làm thêm bên ngoài vào giờ rảnh, ngoài lúc giúp cha ông ở nông trại, bằng giờ ăn ngủ của riêng ông, cho tới ngày sinh nhật hai mươi mốt ông đã trả đồng xu cuối cùng vào tay cha ông rồi nhận khẩu súng; kể cho bọn ta rằng khẩu súng là biểu tượng sinh động đánh dấu sự trưởng thành của ông, là bằng chứng không thể xóa nhòa rằng lúc ấy ông đã hai mươi mốt và là người lớn; rằng ông không bao giờ có ý định, thậm chí không muốn tưởng tượng có ngày ông sẽ bóp cò súng bắn một ai đó, nhưng ông phải có nó bên mình; để khẩu súng lại lúc ra khỏi nhà không khác gì để lại nhân cách của ông lại trong tủ áo hay trong ngăn kéo xa xôi khi ông đến làm việc; ông bảo với bọn ta (và chúng ta tin ông) nếu đến lúc phải chọn giữa việc để khẩu súng ở nhà, hay không dẫn xác đến làm việc thì khi ấy ông chỉ có một lựa chọn duy nhất.

Vì thế thoạt tiên vợ ông khâu một cái túi bền chắc gọn gàng, đựng vừa vặn khẩu súng bên trong tạp dề bộ áo lao động của ông. Nhưng John tự thấy ngay rằng không được. Không phải vì khẩu súng có thể rơi ra bất ngờ mà vì hình dáng của nó lộ rõ ràng qua vải, nom nó chẳng khác gì khẩu súng. Không phải rõ ràng với bọn ta, tất cả bọn ta đều biết nó nằm đó, từ ông da trắng Ballott chỉ huy chuồng ngựa, và Boon là phụ tá của ông (có nhiệm vụ trực đêm vì thế lúc này lẽ ra Boon nên nằm ngủ ở nhà), xuống tới mấy ông da đen đánh xe và giữ ngựa, xuống tới ông dọn chuồng hạng bét và thậm chí tới cả ta, một đứa chỉ thu thập hóa đơn chuyên chở tích lũy tới thứ Bảy và trả lời điện thoại. Xuống tới cả cụ Dan Grinnup Toe toét, một ông già bẩn thỉu có bộ râu lem luốc thuốc lá chưa bao giờ thực sự say, người chẳng có vai trò chính thức gì trong chuồng ngựa, người ta gọi ông là Grinnup có lẽ một phần vì rượu nhưng chủ yếu là vì cái tên ông, Grenier, một trong những cái họ cổ nhất của quận hạt cho tới khi dòng họ ông hết thời ‐ cụ Louis Grenier thuộc nhóm Huguenot2 từ Virginia và Carolina băng qua rặng núi từ sau thời Cách mạng3, xuống vùng Mississippi hồi thập niên chín mươi của thế kỷ Mười tám để thành lập và đặt tên cho thị trấn Jefferson ‐ ông (cụ Dan) chẳng sống cố định ở đâu (và không có gia đình, ngoại trừ thằng cháu trai ngốc hay em họ hay gì đó vẫn sống dưới túp lều trong khu rừng ven sông qua khỏi Khúc quanh Frenchman, chỗ đó đã có thời là một phần của đồn điền nhà Grenier) cho tới khi ông (cụ Dan), chưa bao giờ quá say tới nỗi không đánh xe được, lại xuất hiện ở chuồng ngựa đúng giờ để mang con ngựa còm ra nhà ga đón chuyến tàu chín rưỡi tối và bốn giờ mười hai phút sáng rồi chở bọn đi chào hàng về khách sạn, hay đôi lúc trực gác suốt đêm những khi có khiêu vũ hay bọn hát rong hay buổi diễn kịch ở nhà hát opera (nhiều lúc trong bữa nhậu thê lương thảm hại, ông nói hồi xưa nhà Grenier dẫn đầu xã hội thượng lưu ở Yoknapatawpha; bây giờ nhà Grinnup cầm cương cho họ), người ta nói ông có việc làm vì bà vợ đầu của ông Ballott là con gái ông, mặc dù tất cả bọn ta ở chuồng ngựa đều tin là vì khi bố còn nhỏ, ông thường đi săn chồn với cha của cụ Dan chỗ khúc quanh Frenchman.

2 Huguenot là người theo Tin lành ở Pháp từ thế kỷ Mười sáu, thường bị đàn áp vì cho rằng nghi lễ và hàng giáo phẩm của Giáo hội Công giáo La Mã không đem lại sự cứu rỗi cho giáo dân. (ND)

3 Cách mạng Hoa Kỳ chống lại sự cai trị của Anh quốc, mở đầu bằng bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của mười ba thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ. Chiến tranh giữa Anh và mười ba thuộc địa chấm dứt khi Anh và Hoa Kỳ ký Hiệp ước Paris năm 1783. (ND)

Không những (khẩu súng) rõ ràng với bọn ta mà với cả bố nữa. Vì bố cũng biết về nó. Ông phải biết; cơ sở kinh doanh của bọn ta quá nhỏ, quá dây mơ rễ má, quá đan chen khăng khít. Vì thế vấn đề đạo đức của bố giống y như John Powell, cả hai đều biết tới nó, và đối phó với nó theo cách những người lịch lãm hiểu nhau phải và nên làm: nếu bố buộc phải nhận có khẩu súng ở đó thì bố sẽ phải bảo John ngày mai để nó ở nhà hoặc đừng đến. John biết như vậy, và vì cũng là người lịch lãm, tự ông sẽ không bao giờ là người buộc bố phải “thừa nhận” sự tồn tại khẩu súng. Do đó, thay vì nằm trong tạp dề bộ áo lao động, vợ John khâu cái túi ngay bên dưới nách trái áo, khuất dạng (không lộ liễu ấy mà) khi John mặc bộ áo đó, khi thời tiết ấm áp (như lúc này) thì bộ áo được treo trên cây đinh riêng của John trong phòng chứa yên cương. Khẩu súng đang ở tình trạng ấy lúc Boon, kẻ được trả lương để hứa sẽ nằm ngủ ở nhà vào giờ này thay vì la cà ngoài quảng trường, nơi ông có thể bị xúc phạm tới mức chạy ngược về chuồng ngựa, nhảy qua cửa văn phòng và làm cho bố và John Powell thành hai kẻ nói láo.

Khổ nỗi bố cũng lại quá chậm. Boon đã lừa ông ‐ lừa chúng ta. Vì Boon cũng biết tới cây đinh trong phòng chứa yên cương. Và cũng tinh ranh nữa, quá tinh ranh không quay lại hành lang để từ đó phải đi ngang văn phòng. Khi bọn ta tới sân, John với Luster và Gabe (và ba con la với con ngựa nữa) vẫn đang nhìn cánh cổng bên hông còn bật qua bật lại sau khi Boon vừa mới biến mất qua đó, tay cầm khẩu súng. John và bố nhìn nhau độ mười giây trong lúc toàn bộ phong cách lịch lãm4 sụp đổ thành cát bụi. Mặc dù tinh thần lịch lãm,và trách nhiệm5, vẫn còn.

4 Nguyên văn: entendre-de-noblesse. (BV)

5 Nguyên văn: the noblesse, the oblige. (BV)

“Của tôi?”, John nói.

“Ừ”, bố nói, “Hắn đã gặp Ludus ngoài quảng trường”. “Tôi sẽ bắt hắn”, John nói, “Tước nó khỏi tay hắn.

Tôi hứa”.

“Chạy bắt thằng Ludus, tụi bay”, Gabe nói. Mặc dù thấp nhưng ông to khủng khiếp, to hơn Boon, với cái cẳng cong queo dễ sợ vì vết thương cũ trong nghề; ông có thể nhấc chân sau con ngựa hay con la rồi kẹp nó sau đầu gối méo mó và (nếu có vật gì ‐ cây cột hay bất kỳ cái gì ‐ để ông nắm) con ngựa hay con la sẽ hết giãy giụa để giật chân ra và cũng không đủ thăng bằng để dùng chân kia đá ông. “Ê, Luster, mày chạy bắt…”

“Khỏi lo cho Ludus”, John nói. “Ludus là đứa an toàn nhất ngoài đó. Tôi đã thấy tài bắn của Boon Hogganbeck”, ông không nói ông Boon và biết bố nghe thấy, ông không bao giờ bỏ ngoài tai lời của bất kỳ người da trắng nào mà ông xem như ngang hàng, vì John là một người lịch lãm. Nhưng bố cũng kiêu ngạo không kém, đó là khẩu súng không thể tha thứ, và bố biết điều ấy, “Tin tôi đi, thưa ông Maury”.

“Đừng”, bố nói. “Anh chạy vào văn phòng rồi điện thoại cho ông Hampton.” (Đúng vậy. Hồi đó cũng có một ông Hampton làm cảnh sát trưởng). “Nói với ông ta là tôi yêu cầu tóm ông Boon càng nhanh càng tốt.” Bố đi tới cánh cổng.

“Đi theo ông ấy”, Gabe bảo Luster. “Ông ấy có thể cần người chạy việc. Nhớ cài cổng.”

Thế là ba người bọn ta ra ngõ đi về hướng quảng trường, lúc này ta chạy lon ton theo cho kịp, không hẳn cố bắt kịp Boon để rồi đứng giữa Boon với khẩu súng và John Powell. Vì như chính John nói, chẳng ai cần lo cho Ludus. Tất cả bọn ta đều biết tài thiện xạ của Boon, nếu Boon bắn Ludus thì Ludus sẽ an toàn. Ông ấy (Ludus) cũng là một người đánh xe trong đoàn nhà chúng ta cho tới sáng thứ Ba vừa rồi. Sự việc xảy ra thế này, theo lời kể lại của Boon, ông Ballott và John Powell với vài lời từ chính Ludus. Một hay hai tuần trước, Ludus đã tìm được cô bồ mới, con gái (hay vợ, chúng ta không rõ) của một tá điền trong nông trại cách thị trấn sáu dặm. Chiều tối thứ Hai, Boon đến thay ông Ballott trong ca đêm, tất cả đội thú và xe cộ với người đánh xe đều có mặt, ngoại trừ Ludus. Ông Ballott bảo Boon điện thoại cho ông khi Ludus về đến, rồi ông về nhà. Ông Ballott khai báo như thế. Đây là lời khai của Boon, được John Powell chứng nhận một phần (bố đã về nhà trước đó một lúc), khi ông Ballott vừa mới ra khỏi cửa trước thì Ludus vào cửa sau, đi bộ vào. Ludus bảo Boon rằng một vỏ bánh xe bị lỏng, và ông đã ghé nhà ta để gặp bố, bố bảo đánh xe xuống vũng nước trong đồng cỏ để gỗ bánh xe nở ra bám lấy đai bánh sắt rồi nhốt mấy con la và cho chúng ăn trong sân nhà chúng ta, rồi sáng mai tới mang chúng về. Ta có thể thấy rằng dù Boon tin nhưng John Powell lập tức nghi ngờ, vì ai biết bố hoặc Ludus đều biết rằng bất kỳ bố thu xếp cỗ xe qua đêm thế nào đi nữa thì ông cũng sẽ bảo Ludus dẫn thú về ngăn của chúng trong chuồng ngựa để tắm rửa và cho ăn đúng mức. Nhưng Boon nói ông nghe kể như vậy, vì thế ông nói ông không thông báo cho ông Ballott để khỏi quấy rầy bữa ăn tối của ông ấy, vì bố biết chỗ mấy con la và cỗ xe, và bố chứ không phải ông Ballott là chủ của chúng.

Bây giờ John Powell kể, nhưng rất miễn cưỡng, ông thà không bao giờ nhắc tới nếu Boon đừng làm cho việc giữ im lặng về sự thật của ông (John) trở thành vấn đề đạo đức nghiêm trọng hơn lòng trung thành với chủng tộc của ông.

Khi thấy Ludus tay không bước vào cửa sau chuồng ngựa, tình cờ ngay sau khi ông Ballott ra về bằng cửa trước để lại một mình Boon chịu trách nhiệm, thì John thậm chí chẳng buồn nghe câu chuyện Ludus sắp kể. Ông đi ngược về hành lang, băng qua khoảnh sân ra ngõ rồi đi tiếp tới đầu ngõ và đứng ngay bên cạnh cỗ xe khi Ludus quay lại. Lúc ấy xe chở một túi bột, một bình năm lít dầu thắp và (John nói) một túi năm xu kẹo bạc hà. Việc xảy ra đại khái như vậy, vì mặc dù lời nói của John về bầy la và ngựa khi chúng ở trong chuồng là luật, không thể vi phạm, ngay cả đối với người trên Boon, lên tới ông Ballott hay ngay cả bố, nhưng trên vùng đất không người ngoài này thì ông chỉ là một kẻ làm công trong chuồng ngựa cho thuê của Maury Priest, cả ông lẫn Ludus đều biết điều đó. Có thể Ludus thậm chí còn nhắc lại với ông, nhưng ta không chắc. Vì Ludus chỉ cần nói đại khái: “Nếu chuyện tối nay tui mượng6 xe và đội la này tới tai Maury Priest thì có thể chuyện cái món đồ khâu trong bộ áo lao động anh mặc cũng sẽ tới tai ổng.”

6 Dịch từ chữ “borried”, theo cách phát âm chữ “borrowed” của người da đen. Tác giả thường dùng rất nhiều lối diễn tả trúc trắc khó hiểu, dài dòng, những câu cụt và cách phát âm đặc thù của miền Nam Hoa Kỳ, vì thế bản tiếng Việt sẽ cố chuyển lại phần nào những đặc điểm ấy. (ND)

Và ta cũng không nghĩ ông cần nói như thế vì ông ta và John đều biết, cũng như cả hai đều biết rằng nếu Ludus chờ cho John báo cáo với bố điều mà Ludus gọi là “mượng” cỗ xe và đội la thì bố sẽ không bao giờ biết, và nếu John chờ cho Ludus (hay bất cứ một ông da đen nào ở chuồng ngựa hay thị trấn Jefferson) kể cho bố về khẩu súng lục ấy thì bố cũng sẽ chẳng bao giờ biết. Vì thế chắc Ludus chẳng nói gì, và John chỉ nói, “Được rồi. Nhưng nếu mấy con la không về chuồng, mà không được đổ một giọt mồ hôi hay có vết roi trên thân thể và thậm chí đừng có vẻ buồn ngủ, đúng một giờ trước khi ông Ballott tới đây sáng mai” (Cháu sẽ thấy cả hai đã hoàn toàn gạt bỏ Boon ra khỏi vụ này, Ludus không nói: “Ông Boon biết mấy con la này tối nay sẽ không về, không phải ông ta là sếp cho tới sáng mai khi ông Ballott đến hay sao?”, và John cũng chẳng nói, “Bất cứ ai tin câu chuyện anh kể ở đây tối nay về mấy con la đều không đáng làm sếp. Còn tôi thậm chí không tin tên của sếp là Boon Hogganbeck”) “thì ông Maury chẳng những sẽ biết đội la và cỗ xe đó không ở đây tối hôm qua mà ông ấy cũng sẽ biết chúng đã ở đâu”.

Nhưng John không nói. Và chắc chắn là mặc dù mấy con la của Ludus đã trở về chuồng đúng một tiếng trước khi trời sáng, nhưng mười lăm phút sau, khi ông Ballott tới chuồng ngựa vào lúc sáu giờ sáng, ông nhắn tìm và bảo cho Ludus biết ông ta bị đuổi. “Ông Boon biết đội la của tôi không về”, Ludus nói, “Chính ông ấy bảo tôi đi kiếm một bình rượu cho ông ấy. Tôi mang rượu về cho ông ấy khoảng bốn giờ sáng nay”.

“Tao không bảo mày đi đâu cả”, Boon nói. “Tối hôm qua hắn về đây với chuyện láo toét rằng mấy con la ở lại sân nhà ông Maury, tôi đã chẳng buồn nghe. Thậm chí tôi không thèm hỏi hắn thực ra cỗ xe đang ở đâu, nói gì tới lý do tối hôm qua hắn cần cỗ xe và đội la đến như thế. Điều tôi nói với hắn trước khi hắn mang cỗ xe đó về sáng nay là nhờ hắn ghé nhà Mack Winbush đem về cho tôi một bình năm lít rượu của bác Cal Bookwright. Tôi đưa tiền cho hắn ‐ hai đô la”.

“Tôi đem rượu cho ông.” Ludus nói, “Tôi đâu có biết ông làm trò gì với nó”.

“Mày mang cho tao nửa bình rượu dởm, thứ nước rửa bát pha ớt”, Boon nói. “Tao không biết ông Maury sẽ làm gì mày về vụ giữ mấy con la ở ngoài suốt đêm, nhưng Calvin Bookwright sẽ làm gì mày là chuyện khác khi tao cho bác ta xem thứ rượu ấy và bảo bác ta là mày nói đó là rượu bác ta nấu.”

“Ông Winbush ở cách thị trấn tới tám dặm”, Ludus nói, “Nửa đêm tôi mới có thể về tới…”, rồi ngưng.

“À, vì vậy mày cần chiếc xe”, Boon nói. “Rốt cuộc mày bố láo bố lếu rông khỏi Jefferson rồi càn quét vùng quê tìm một cái cửa sổ sau nhà để mày bò vào. Ờ, bây giờ mày sẽ có khối thời giờ, điều đáng phiền duy nhất là giờ mày sẽ phải cuốc bộ!”

“Ông biểu tôi một bình rượu,” Ludus sưng sỉa nói, “Tôi đem cho ông một bình…”.

“Nửa bình cũng chưa tới”, Boon nói. Rồi nói với ông Ballott: “Quỷ thần ơi, bây giờ ông khỏi phải trả lương một tuần cho nó”. (Lương một tuần của người đánh xe là hai đô la; nên nhớ đây là năm 1905) “Nó nợ tôi khoản tiền rượu đó. Ông còn đợi gì? Đợi chính ông Maury tới đuổi nó à?”

Mặc dù nếu ông Ballott (và bố) quả thật có ý định đuổi Ludus cho xong thì họ vẫn sẽ trả ông tiền lương một tuần. Sự thật là họ không tỏ ra (và Ludus biết) rằng ông sẽ bị trừ một tuần lương (và cho nghỉ việc) chỉ vì giữ đội la bên ngoài suốt đêm mà không được phép, sáng thứ Hai tuần sau Ludus sẽ xuất hiện với những người đánh xe khác vào giờ quy định và John Powell sẽ chuẩn bị cho đội la của ông như thể chẳng có gì xảy ra. Nhưng, số phận ‐ lời đồn ‐ chuyện ngồi lê đôi mách phải xen vào.

Thế là bố, Luster và ta vội vàng ra ngõ tới quảng trường, lúc ấy ta chạy lon ton và như thế vẫn quá chậm. Bọn ta thậm chí chưa tới cuối ngõ đã nghe tiếng súng, đúng năm phát: ĐÙNG, ĐÙNG, ĐÙNG, ĐÙNG, ĐÙNG, chúng ta vội chạy vào quảng trường và nhìn thấy hiện trường (không xa: ngay góc phía trước cửa hiệu bán đồ gia dụng của ông anh họ Isaac McCaslin). Rất đông người, Boon rõ khéo chọn ngày để có nhân chứng; hồi đó thứ Bảy đầu tháng còn là phiên chợ, ngay cả vào tháng Năm khi ta nghĩ thiên hạ đang tíu tít bận trồng cấy. Nhưng ở quận hạt Yoknapatawpha này thì không. Tất cả họ có mặt ở đây, đen lẫn trắng: một đám chỗ ông Hampton (ông nội của Hub nhỏ bây giờ là cảnh sát trưởng, hay sang năm sẽ lại làm), hai hay ba người qua đường đang vật nhau với Boon, một đám nữa cách độ sáu mét, chỗ một ông cảnh sát khác đang giữ Ludus vẫn còn trong tư thế chạy, hay chết cứng trong tư thế đang chạy, hay trong tư thế chạy chết cứng, nói thế nào cũng đúng, và một đám đông nữa bên cửa kính tiệm ông anh họ Ike, nơi một viên đạn của Boon (họ không tìm được bốn viên kia bay đi đâu) làm vỡ tan sau khi xước qua mông con bé da đen lúc này đang nằm la hét trên lề đường cho tới khi đích thân anh Ike nhảy ra khỏi tiệm và át giọng con bé bằng giọng của anh, giận dữ thét lên với Boon không phải vì đã làm vỡ kính của anh mà vì (anh Ike hồi đó còn trẻ nhưng đã là tay đi rừng và thợ săn giỏi nhất quận hạt này từ trước tới nay) đã bắn hụt năm phát đạn với một mục tiêu chỉ cách sáu mét.

Sự việc tiếp tục diễn ra nhanh. Phòng mạch bác sĩ Peabody ngay bên kia đường, trên hiệu thuốc tây của bác Christian; ông Hampton, tay cầm khẩu súng của John Powell, dẫn đường, Luster và một ông da đen khác khiêng con bé đang kêu khóc và chảy máu như lợn bị cắt tiết lên cầu thang, bố đi kèm Boon, rồi đến ta và ông cảnh sát với Ludus, đám đông chen cứng trên cầu thang cho tới khi ông Hampton dừng lại quay xuống quát họ. Văn phòng thẩm phán Stevens ở ngay cuối hành lang qua khỏi phòng mạch bác sĩ Peabody, ông đang đứng trên đầu thang lúc bọn ta đi lên. Vì thế bọn ta ‐ ta muốn nói là bố, ta, Boon, Ludus và ông cảnh sát ‐ vào đó đợi ông Hampton từ phòng mạch bác sĩ Peabody trở lại. Cũng không lâu lắm.

“Được rồi”, ông Hampton nói, “Chỉ xước da con bé.

Mua cho nó bộ váy mới,” (bên dưới váy chẳng mặc gì) “một túi kẹo và đưa bố nó mười đô la, vậy là dàn xếp xong việc của Boon với con bé. Tôi chưa quyết định sẽ dàn xếp việc giữa hắn với tôi thế nào”. Ông thở phì phò vào Boon một lát, một ông to con với cặp mắt xám nhỏ rắn đanh, đúng vậy, to lớn như Boon, tuy không cao bằng. “Sao?”, ông hỏi Boon.

“Hắn sỉ nhục tôi!”, Boon nói, “Hắn bảo với Son Thomas tôi là đồ chó đẻ đít teo”.

Bây giờ ông Hampton nhìn Ludus. “Sao?”, ông nói. “Tui chưa hề nói ông ta đít teo”, Ludus nói. “Tui nói ông ta đầu teo.”

“Nói gì?”, Boon hỏi.

“Càng tệ hơn”, thẩm phán Stevens nói.

“Tệ hơn là chắc,” Boon kêu lên. “Các ông không thấy à? Tôi làm gì có lựa chọn nào. Tôi, một đứa da trắng, phải đứng đây để một thằng đen khốn nạn chuyên đánh vật với mấy con la chỉ trích cái phía sau riêng tư của tôi, hay là nói trước năm nhân chứng rằng đầu óc tôi có vấn đề. Các ông không thấy à? Làm gì có chuyện các ông không đòi lại gì, không thể. Với lại các ông không thể sửa sang gì hai chỗ ấy, bởi vì chúng chẳng có gì cần phải sửa, chẳng cái nào có vấn đề.” Lúc này ông gần như khóc, bộ mặt lớn xấu xí ửng đỏ cứng‐như‐sừng của ông choắt lại và nhăn nhó như mặt đứa trẻ. “Dù cho tôi xoay được một khẩu súng khác ở đâu đó để bắn Son Thomas thì chắc tôi cũng bắn hụt.”

Bố đứng lên, nhanh và dứt khoát. Ông là người duy nhất ngồi, ngay cả thẩm phán Stevens cũng đứng trước nền lò sưởi nguội lạnh, hai bàn tay dưới vạt áo đuôi tôm đúng y như trời mùa đông và đang có hỏa hoạn. “Tôi phải về làm việc”, bố nói, “Cây cưa cũ nói sao về tay thợ lười?” Ông nói, chẳng với ai cả: “Tôi muốn cả hai, Boon và đứa này, phải cam kết giữ trật tự; nào, một trăm đô la mỗi đứa; tôi sẽ làm cam kết. Nhưng tôi muốn cam kết hai chiều. Tôi muốn cả hai món tiền cọc sẽ bị hủy bỏ, hết hạn, ngay khi nào một trong hai đứa làm điều gì đó mà tôi…”.

“Việc đó không hợp với ông”, thẩm phán Stevens nói.

“Cám ơn”, bố nói tiếp, “… ngay giây phút một trong hai đứa làm mất trật tự. Tôi không biết như vậy hợp pháp hay không?”.

“Tôi cũng không biết,” thẩm phán Stevens nói. “Mình có thể thử. Nếu tiền cọc như vậy mà không hợp pháp thì nó nên hợp pháp.”

“Cám ơn”, bố nói. Chúng ta ‐ bố, ta và Boon ‐ tiến ra cửa.

“Bây giờ tui có thể về làm ngay, khỏi phải đợi tới thứ Hai”, Ludus nói. “Níu ông cần tui.”

“Không”, bố nói. Chúng ta ‐ bố, ta và Boon ‐ xuống thang ra đường. Lúc ấy vẫn là phiên chợ ngày thứ Bảy đầu tháng, nhưng bây giờ mọi việc đã xong ‐ đúng vậy, tới khi có một kẻ nào khác tên Boon Hogganbeck cầm được một khẩu súng khác. Bọn ta đi dọc đường về chuồng ngựa, bố, ta và Boon, lúc đó Boon nói qua đỉnh đầu ta tới sau lưng bố:

“Hai trăm đô la, một đô la mỗi tuần, mất một năm với bốn mươi tám tuần. Tôi đoán cửa kính của Ike mất thêm mười hay mười lăm tuần nữa, chưa kể con bé trên đường. Cứ cho là hai năm ba tháng. Tôi có chừng bốn chục đô. Nếu tôi đưa ông món tiền đó để đặt cọc, tôi đoán ông vẫn sẽ không nhốt tôi với Ludus và Son Thomas trong mấy cái chuồng ngựa bỏ trống rồi khóa cửa lại mười phút, đúng không?”

“Phải”, bố nói.