• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bọn đạo chích
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 16
  • Sau

2

Hôm đó thứ Bảy. Ludus trở lại làm việc sáng thứ Hai. Thứ Sáu tuần ấy, ông của ta ‐ ông ngoại ta cha của bà cố của cháu ‐ mất ở Bay St. Louis.

Boon thật ra không thuộc về chúng ta. Ta muốn nói không thuộc về riêng chúng ta, dòng họ Priest. Đúng hơn, ta muốn nói tới cả nhà McCaslin và nhà Edmonds, mà cánh nhà Priest chúng ta có thể coi là nhánh út. Boon có ba chủ: không riêng nhà chúng ta, đại diện là ông nội và bố, anh họ Ike McCaslin và anh họ Zachary Edmonds, bố của anh ấy là McCaslin Edmonds, còn anh Ike vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt đã bỏ đồn điền McCaslin ‐ Boon không chỉ thuộc về chúng ta, mà còn thuộc về Thiếu tá De Spain và Tướng Compson nữa cho tới khi Boon chết. Boon là một tập đoàn, một công ty cổ phần trong đó cả ba nhà chúng ta ‐ McCaslin, De Spain và Tướng Compson ‐ có phần trách nhiệm ngang nhau tuy hoàn toàn không quy định rõ, một điều lệ tập đoàn đặc biệt ấn định rằng bất kỳ ai ở gần cơn khủng hoảng nhất sẽ lập tức nhảy tới giải quyết rắc rối do Boon gây ra hay phạm phải hay rơi vào; ông (Boon) là một hiệp hội bảo hộ ‐ giúp đỡ ‐ tương trợ lợi ích, trong đó Boon là kẻ hưởng mọi lợi ích, còn chuyện bảo hộ và giúp đỡ và tương trợ là của cả ba nhà chúng ta.

Bà nội Boon, là con gái của một trong các trưởng lão bộ lạc da đỏ Chickasaw của Issetibbeha1, đã lấy một ông da trắng buôn rượu. Nhiều khi tùy theo cốc của ông đầy hay vơi, Boon sẽ tuyên bố mình có ít nhất chín mươi chín phần trăm Chickasaw và đúng là dòng dõi hoàng tộc của chính cụ Issetibbeha; khi khác ông sẽ gây sự đánh nhau với bất kỳ ai dám dù chỉ là ám chỉ rằng ông có một giọt máu da đỏ trong huyết quản.

1 Nhân vật trong một số tiểu thuyết của Faulkner, Issetibbeha là lãnh tụ nhóm dân da đỏ Chickasaw sống ở phía bắc tiểu bang Mississippi. Năm 1832 chính quyền liên bang bắt họ phải dọn tới bang Oklahoma. (ND)

Ông mạnh mẽ, trung thành, can đảm và hoàn toàn không thể tin cậy; ông cao một mét chín, nặng một trăm mười ký và có tâm tính của một đứa trẻ; hơn một năm trước bố đã bắt đầu nói bây giờ ta sắp lớn hơn ông ấy rồi.

Thật ra, mặc dù ông rõ ràng là một con người bằng xương bằng thịt hoàn toàn bình thường về mặt sinh học (cứ xem những lúc trong những bữa nhậu khi ông không chỉ sẵn sàng và tình nguyện mà còn hăm hở đấm nhau với bất cứ kẻ hoặc những kẻ nào, chuyên nghiệp hay không, tùy theo mức độ mà chất cồn điều khiển ông, để bảo vệ quyền lợi của tổ tiên), ông đã phải sống ở đâu đó trong chín hay mười hay mười một năm đầu đời, và rồi như thể Boon mới sinh ra đã chín hay mười hay mười một tuổi, do cả ba nhà McCaslin‐De Spain‐Compson chúng ta tạo ra để giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan một hôm xảy đến ở trại săn của Thiếu tá De Spain.

Đúng vậy, đúng cái trại mà chắc các cháu vẫn tiếp tục gọi là trại McCaslin mấy năm sau khi anh Ike qua đời, giống như chúng ta ‐ ông và cha của các cháu ‐ tiếp tục gọi nó là trại của De Spain nhiều năm sau khi Thiếu tá De Spain qua đời. Nhưng vào thời cha ông của ta, khi Thiếu tá De Spain mua hay mượn hay thuê đất (bất kể làm cách nào các cụ xoay xở kiếm được giấy chủ quyền hợp lệ ở Mississippi từ 1865 đến 1870) rồi xây nhà trọ và chuồng ngựa và cũi chó thì đó là trại của cụ, cụ lựa chọn người mà cụ xem là xứng đáng để đi săn loài thú cụ quy định được săn, vì thế trong chừng mực nào đó cụ làm chủ kẻ săn thú lẫn nơi họ săn và thậm chí cả con thú: Gấu và nai, sói và beo dạo ấy cũng lai vãng ở đó, cách Jefferson chưa tới hai chục dặm ‐ bốn hay năm dặm vuông rừng cuối sông đã là một phần ước mơ vương giả vĩ đại của cụ Thomas Sutpen2, rốt cuộc mảnh đất ấy hủy hoại không những chính nó mà cả Sutpen nữa, dạo ấy nó là cửa ngõ phía đông để vào khu hoang dã hầu như chưa khai phá, gồm đầm lầy và rừng rậm trải dài về hướng tây từ dãy đồi tới các thị trấn và đồn điền dọc theo sông Mississippi.

2 Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết Absalom! Absalom! của Faulkner. (ND)

Hồi đó chỉ cách hai chục dặm, vào ngày Mười lăm tháng Mười một các cụ có thể rời Jefferson lúc nửa đêm bằng xe độc mã hay xe ngựa chở hàng (một người một ngựa đi còn nhanh hơn) tới bãi săn nai hay gấu lúc trời hừng sáng. Ngay cả hồi năm 1905 khi khu hoang dã đã lùi xa thêm hai chục dặm nữa, các cỗ xe ngựa mang súng, thực phẩm và đệm ngủ chỉ phải lên đường lúc mặt trời lặn. Bây giờ công ty khai thác gỗ phía bắc đã đặt đường ray nhánh để kéo gỗ ra đường ray chính gặp các toa tàu đã vào từ hôm trước, đường ray chính cách trại mới của Thiếu tá De Spain một dặm với một trạm dừng ưu đãi cho Thiếu tá De Spain và khách của ông xuống. Nhưng đến năm 1925 bọn ta đã có thể thấy ngày tàn. Ngoại trừ anh Ike và Boon, Thiếu tá De Spain và cả nhóm các cụ lúc này đã quá cố (bây giờ suốt từ Jefferson tới trạm dừng De Spain chỉ có sỏi đá), và những người thừa kế của họ tắt những động cơ ô tô trong tiếng ồn ào của cưa máy ở nơi một năm trước chỉ có tiếng chó săn chạy. Vì Manfred de Spain là chủ ngân hàng chứ chẳng phải dân săn bắn như bố ông ấy, ông ấy ký hợp đồng cho khai thác đất và gỗ và tới năm 1940 (bấy giờ đã là trại của McCaslin) họ ‐ chúng ta ‐ sẽ chất mọi thứ lên chiếc ô tô vận tải nhỏ rồi lái hai trăm dặm trên xa lộ trải nhựa tìm chỗ đủ hoang vắng để dựng lều. Mặc dù tới năm 1980, dùng ô tô để tới khu hoang dã sẽ lỗi thời như ô tô sẽ làm lỗi thời khu hoang dã nó tìm đến. Nhưng có lẽ người ta ‐ tức là các cháu ‐ sẽ tìm đến khu hoang dã phía bên kia sao Hỏa hay Mặt trăng và biết đâu chừng có cả gấu và nai lai vãng trên đó.

Và rồi một hôm Boon xuất hiện ở trại, hoàn chỉnh và đã mười, mười một hay mười hai tuổi. Hồi đó, bởi vì quãng đường để tới trại chỉ có hai chục dặm nên Thiếu tá De Spain, Tướng Compson, McCaslin Edmonds, Walter Ewell, cụ Bob Legate và nửa tá người khác lúc tham dự lúc không. Tướng Compson mặc dù đã chỉ huy quân sĩ không quá thất bại khi là đại tá ở Shiloh3, và cũng không quá thất bại khi là chuẩn tướng hồi Johnston rút lui ở Atlanta, nhưng ông hơi kém về địa hình địa thế và sẽ lập tức lạc lối sau mười phút rời trại (con la ông thích cưỡi sẽ đưa ông về bất cứ lúc nào, nhưng ông không chỉ là một ông tướng phe miền Nam được tạm tha mà còn là một ông Compson, ông không chịu để con la hội ý hay cố vấn), vì thế ngay khi người đi săn cuối cùng về đến trại sau cuộc săn từ sáng, mọi người sẽ thay phiên nhau thổi tù cho tới khi Tướng Compson rốt cuộc cũng về tới nơi. Như thế cũng đáng hài lòng, dù sao cũng vẫn được việc, cho tới khi Tướng Compson bắt đầu nghễnh ngãng. Cho tới khi rốt cuộc một buổi chiều, Walter Ewell và Sam Fathers, nửa da đen nửa da đỏ Chickasaw, phải lần theo dấu của ông và ngủ ngoài rừng với ông suốt đêm, buộc Thiếu tá De Spain phải chọn giải pháp hoặc cấm ông rời lều hoặc trục xuất ông khỏi nhóm, khi ấy Boon Hogganbeck đã khổng lồ, dù mới mười hay mười một đã to hơn Tướng Compson, trông nom ông trở thành việc của Boon ‐ một đứa trẻ bơ vơ dường như tay trắng và chẳng biết gì ngoài cái tên của nó; ngay cả anh Ike cũng không chắc là McCaslin Edmonds hay Thiếu tá De Spain tìm thấy Boon trước ở chỗ người sinh ra đã bỏ ông lại. Ike chỉ biết ‐ nhớ ‐ Boon đã ở đó, chừng mười hai tuổi, đằng nhà cụ Carothers McCaslin, nơi McCaslin Edmonds đã nuôi Ike như thể ông ấy là bố của anh và bây giờ tiếp tục nhận Boon như thể ông ấy cũng là bố của Boon, mặc dù lúc ấy McCaslin Edmonds mới ba mươi.

3 Trận đánh đẫm máu tháng Tư 1862 ở Pittsburg Landing, bang Tennessee, hồi Nội chiến Mỹ (1861-1865). Quân miền Nam do tướng Albert Sidney Johnston chỉ huy thắng ngày đầu, nhưng sau đó thảm bại, không ngăn nổi quân miền Bắc tiến vào phía bắc bang Mississippi. (ND)

Dù sao đi nữa, khi Thiếu tá De Spain nhận ra rằng ông phải hoặc là trục xuất Tướng Compson khỏi nhóm, một việc khó, hoặc là cấm ông rời trại, một việc bất khả, vì thế ông phải trang bị cho Tướng Compson một thứ tương tự như Boon Hogganbeck, đúng lúc đó có một Boon Hogganbeck, do McCaslin Edmonds tạo ra hay có lẽ do cả hai tạo ra ‐ Edmonds và De Spain ‐ trong cơn khủng hoảng này. Ike còn nhớ được vụ khiêng nệm giường, súng ống và thực phẩm lên xe hôm Mười bốn tháng Mười một, với con của bà Tennie là Jim (ông nội của anh chàng Bobo Beauchamp mà quý vị sắp nghe kể tới) cùng với Sam Fathers và Boon (anh Ike hồi đó mới năm hay sáu tuổi, bốn, năm năm nữa anh mới lên mười để được đi theo) và chính McCaslin cưỡi ngựa đi trước tới trại. Ở trại mỗi sáng Boon sẽ cưỡi con la theo sau con la của Tướng Compson, cho tới khi, có lẽ bằng sức mạnh, Boon bắt ông đi đúng hướng để về trại kịp trước khi trời tối, mới mười hai tuổi Boon đã to hơn người nó phải trông nom.

Vì thế Tướng Compson biến Boon thành dân đi rừng thay vì chính ông ta, có thể nói, thuần túy vì tự phòng thân. Nhưng dù ăn cùng bàn, đi cùng khu rừng và ngủ dưới cùng cơn mưa, ngay cả Walter Ewell cũng không thể biến Boon thành tay thiện xạ. Một trong mấy câu chuyện được ưa thích ở trại là tài bắn của Boon, do Walter Ewell kể: Từ vị trí ông đã để Boon lại (Tướng Compson già cuối cùng đã về với tổ tiên ‐ hoặc với doanh trại những người lính già của trận chiến ấy, quân miền Bắc hoặc miền Nam, chắc họ đã khư khư ở đó vì có lẽ họ không hợp với bất kỳ một chỗ ở cố định nào ‐ và bây giờ Boon là dân săn bắn thường xuyên như bất kỳ ai) rồi nghe tiếng bầy chó săn và nhận ra con nai sẽ chạy ngang vị trí của Boon, rồi nghe năm phát đạn từ khẩu súng săn tồi tàn của Boon (Tướng Compson đã truyền nó lại cho Boon, nó chưa bao giờ ở trạng thái hoàn hảo hồi Compson làm chủ, và Walter nói ông ngạc nhiên khi khẩu súng bắn được hai phát mà không hóc, nói gì đến năm phát), khi ấy giọng Boon vang khắp khu rừng quanh họ: “Đồ khốn! Nó đi phía kia! Chặn đầu nó! Chặn đầu nó!”. Và ông ‐ Walter ‐ vội vàng chạy qua vị trí của Boon, thấy năm vỏ đạn trên mặt đất và cách đó chưa tới mười bước là dấu chân con nai đực bỏ chạy mà Boon thậm chí chẳng sờ tới được.

Rồi ông nội mua chiếc ô tô đó và Boon tìm thấy bạn tâm tình của mình. Lúc ấy Boon chính thức là nhân viên trong chuồng ngựa (theo thỏa thuận chung McCaslin‐ Edmonds‐Priest, ngay cả McCaslin Edmonds cũng bỏ cuộc hay cuối cùng tỉnh ngộ khi Boon ở đúp lại lớp Ba lần thứ hai ‐ hay có lẽ McCaslin thật sự tỉnh ngộ nhận ra rằng Boon sẽ không bao giờ sống trong bất kỳ nông trại nào đủ lâu để học làm nông dân). Thoạt tiên công việc phần lớn lặt vặt ‐ cho thú ăn, lau chùi yên cương và xe độc mã. Nhưng ta đã kể là Boon có khiếu về ngựa và la, chẳng bao lâu ông là người đánh xe thường xuyên của mấy chiếc xe cho thuê ‐ ngựa thuê và xe chở khách đón các chuyến xe lửa ban ngày, xe độc mã với xe hai chỗ ngồi và xe chuyên chở nhẹ đưa bọn đi chào hàng tới các cửa tiệm ở nông thôn. Lúc này Boon sống trong thị trấn, trừ lúc McCaslin và Zachary đi vắng ban đêm, khi ấy ông sẽ ngủ ở nhà để bảo vệ đàn bà và trẻ con. Ta muốn nói là ông sống ở Jefferson. Nghĩa là Boon thật sự có một nơi để về ‐ một căn phòng đơn thuê trong Khách sạn Thương Mại thời ông nội ta, người ta mở nó với hy vọng cạnh tranh với Nhà khách Holston nhưng chẳng bao giờ cạnh tranh nổi. Nhưng vẫn đủ vững: Khách sạn là nơi ăn ở của bồi thẩm đoàn trong thời gian xử án, nơi dân quê đi kiện và bọn buôn lừa ngựa cảm thấy thoải mái hơn là ở giữa mấy tấm thảm và ống nhổ bằng đồng cùng với ghế da và tấm vải lanh trải bàn bên kia thị trấn. Rồi trong thời ta thì nó thành Khách sạn Snopes với hai chữ S sơn tay lộn ngược sau khi ông Flem Snopes (chủ ngân hàng, mười hay mười hai năm trước bị giết chết vì một người bà con bị điên, có lẽ hắn không tin nổi ông anh họ của hắn quả thật đã đưa hắn vào khám, mà nghĩ ít nhất có thể giúp hay lẽ ra cũng cố giúp hắn khỏi đi tù) dẫn dòng tộc của ông về thị trấn, ra khỏi vùng hoang dã phía sau khúc quanh Frenchman; trong một thời gian ngắn giữa thập niên ba mươi nó được một mệnh phụ tóc đỏ thuê, chẳng hiểu bà ta từ đâu chợt đến rồi chợt đi, bố cháu và cảnh sát gọi bà ta là Nhỏ Chicago; nét huy hoàng ấy giờ đây chỉ là kỷ niệm, ngày nay các cháu biết đến nó chính là nhà trọ của bà Rouncewell. Nhưng vào thời Boon nó là Khách sạn Thương Mại. Ngoài những lúc ngủ trên sàn bếp nhà Compson hay Edmonds hay Priest, Boon sống ở đó khi ông nội ta mua chiếc ô tô.

Ông nội ta chẳng muốn có ô tô chút nào nhưng cụ buộc phải mua một chiếc. Là chủ ngân hàng, Chủ tịch Ngân hàng Jefferson lâu đời, ngân hàng đầu tiên ở quận hạt Yoknapatawpha, dạo ấy cụ tin và tin cho tới tận nhiều năm sau cho đến lúc chết rằng xe máy là một hiện tượng kỳ dị, như cây nấm độc mọc tối hôm qua, và bởi vì như nấm, nó sẽ biến mất dưới ánh mặt trời ngày mai, trong khi cụ tin như vậy thì mọi người ngay cả ở quận hạt Yoknapatawpha đã nhận thấy rằng ô tô sẽ tồn tại. Nhưng Đại tá Sartoris, chủ tịch Ngân hàng Nông Thương mới lên như nấm, đã buộc cụ mua một chiếc. Hay nói đúng hơn, một kẻ vỡ nợ khác, một tay phù thủy máy móc, mắt cận thị mơ mộng tên Buffaloe, đã buộc cụ mua. Vì chiếc ô tô của ông nội thậm chí không phải là chiếc đầu tiên ở Jefferson. (Ta không tính chiếc xe đua E.M.F. màu đỏ của Manfred de Spain. Mặc dù De Spain làm chủ nó và lái nó mỗi ngày trên đường phố Jefferson trong mấy năm, nó cũng như Manfred không có chỗ đứng trong chuẩn mực yêu vợ đúng đắn của cộng đồng, cả hai đều hết thuốc chữa và độc thân, chẳng hay hớm gì như một tối thứ Bảy kéo dài không dứt ngay cả khi Mansfred làm thị trưởng, màu đỏ chói lọi của nó không những là một thách thức đầy khinh miệt đối với thị trấn mà còn là một kiểu phớt tỉnh không thèm chú ý.)

Chiếc ô tô của ông nội không phải là chiếc đầu tiên từng đến Jefferson hay đại loại thế. Nó thậm chí cũng chẳng phải là chiếc đầu tiên ở lại Jefferson. Hai năm trước đã có một chiếc lái từ Memphis4 xuống tận đây, làm một cuộc hành trình tám mươi dặm chưa tới ba ngày. Rồi trời mưa, chiếc xe ở lại Jefferson hai tuần, trong thời gian đó chúng ta hầu như không có đèn điện và cũng khỏi có chuyên chở công cộng nếu chuồng ngựa cho thuê chỉ dựa vào Boon. Vì ông Buffaloe là người ‐ người duy nhất ở gần đây hơn Memphis và biết cách ‐ chạy nhà máy điện hơi nước và từ lúc chiếc ô tô cho thấy nó sẽ không đi xa hơn nữa, ít nhất là hôm ấy, thì ông Buffaloe và Boon không rời nó như hai cái bóng, một lớn và một nhỏ ‐ gã khổng lồ vụng về có mùi ammonia và dầu yên ngựa, cùng ông nhỏ bé màu bồ hóng lấm lem dầu mỡ với cặp mắt như hai bộ lông chim xanh rụng trên đống than nhỏ, một kẻ chưa tới bốn mươi lăm ký dù mang trong túi tất cả dụng cụ của ông (và của thành phố) ‐ một bóng bất động nhìn đăm đăm chiếc xe với vẻ say đắm hoài nghi như con bò đực thiến; bóng kia mơ màng, hiền từ, âu yếm, bàn tay bồ hóng dịu dàng như tay phụ nữ khi ông sờ mó nó, vuốt ve nó, mơn trớn nó, rồi tích tắc sau chổng mông nhào xuống dưới nắp máy đã mở.

4 Tên một thành phố ở tiểu bang Tennessee, sát biên giới phía bắc Mississippi. (ND)

Rồi trời mưa suốt đêm hôm ấy và mưa tiếp đến sáng hôm sau. Chủ chiếc xe được bảo cho biết, cam đoan ‐ hình như từ ông Buffaloe, hơi lạ vì chưa ai từng thấy ông rời xa nhà máy đèn hay cái xưởng nhỏ ở sân sau nhà ông để dùng đến đường sá đủ để tiên đoán tình trạng của nó ‐ rằng đường sẽ không đi được ít nhất một tuần, có thể mười ngày. Vì thế chủ xe trở về Memphis bằng xe lửa, để lại chiếc ô tô trong chỗ lẽ ra là chuồng ngựa hay chuồng bò ở sân sau của không ai khác chính nhà ông Buffaloe. Bọn ta cũng không thể nghĩ ra điều này: Làm sao ông Buffaloe, một người nhỏ bé, hòa nhã, rụt rè, hầu như thiếu hoạt bát, lúc nào cũng như mơ màng mộng du, lấm lem dầu mỡ tựa như không thuộc về thế gian này ‐ đã bằng cách gì, với khả năng thôi miên và lôi cuốn nào mà chính ông cũng không biết ông có, đã thuyết phục một kẻ hoàn toàn xa lạ bỏ món đồ chơi đắt tiền của hắn dưới sự coi sóc của mình.

Nhưng hắn đã để lại chiếc xe rồi trở về Memphis và bây giờ khi điện đóm trục trặc ở Jefferson thì người ta phải cuốc bộ hay cưỡi ngựa hay đi xe đạp ra nhà ông Buffaloe ở ven thị trấn, khi ấy ông Buffaloe sẽ xuất hiện từ góc nhà ở sân sau, lơ đãng mơ màng và vẫn từ tốn lau hai bàn tay. Đến ngày thứ ba, rốt cuộc bố biết Boon ở đâu (đã ở đâu) trong suốt thời gian ông ‐ Boon ‐ đáng lẽ phải ở chuồng ngựa. Vì hôm ấy chính Boon tiết lộ bí mật, vung vãi ra, với vẻ khẩn cấp điên cuồng và thịnh nộ. Ông và ông Buffaloe đã tới mức suýt đấm đá nhau, nếu ông Buffaloe ‐ một nguồn chứa vô tận của những bất ngờ và khả năng ‐ không rút khẩu súng dầu mỡ vấy bồ hóng nhưng hoàn toàn tốt gí vào Boon.

Đó là chuyện Boon kể. Ông và ông Buffaloe đã thỏa thuận và hiểu nhau không những hoàn toàn mà còn tức khắc, trong toàn bộ quá trình đem chiếc ô tô vào tay ông Buffaloe và đưa chủ nhân của nó ra khỏi thị trấn; để ông Buffaloe, theo suy nghĩ tự nhiên của Boon, nhanh chóng làm sáng tỏ bí mật vận hành nó, rồi khi trời tối họ sẽ lẻn đem nó ra và lái nó. Nhưng Boon hết sức kinh ngạc và giận dữ vì ông Buffaloe chỉ muốn biết tại sao nó chạy. “Ông ta làm hỏng nó!”, Boon nói. “Ông ta gỡ nó ra từng mảnh chỉ để xem bên trong! Ông ta sẽ không bao giờ ráp nó lại được!”

Nhưng Buffaloe ráp được. Hai tuần sau, ông đứng mơ màng hiền dịu, lấm lem dầu mỡ và hòa nhã, khi chủ nhân trở lại nổ máy rồi lái đi. Và một năm sau Buffaloe ráp một chiếc của riêng ông, máy móc, hộp số và đủ mọi thứ vào chiếc độc mã bánh cao su. Chiều hôm ấy, trong tiếng đinh tai nhức óc và sự ngây ngất, ông từ tốn lái băng qua quảng trường, khiến cặp ngựa kéo xe đồng màu của Đại tá Sartoris hoảng sợ chồm lên, gần như làm tan nát cỗ xe may mắn là đang trống trơn. Tối hôm sau văn khố Jefferson chính thức nhận một sắc lệnh của thành phố cấm lái bất kỳ xe máy đẩy nào trong các khu vực công cộng. Vì thế, với tư cách chủ tịch ngân hàng lâu đời hơn, thâm niên hơn ở quận hạt Yoknapatawpha, ông nội ta buộc phải mua một chiếc, hay nói cách khác bị chủ tịch của ngân hàng mới hơn ra lệnh mua. Thấy ta muốn nói gì không? Không phải là vai vế xã hội trong thành phố, rất ít có sự thù địch trong đấy, mà chính là những chủ ngân hàng, giới tu sĩ tận tụy trong những bí ẩn khôn dò và bất khả tránh né của ngành Tài chính. Và mặc dù suốt đời thẳng cứng như cây thông nòng súng và kiên trì chống lại thời đại cơ khí, thậm chí không chịu biết tới nó, ngay từ đầu ông nội đã được cho một chỗ đứng trong một thứ ‐ đối với cụ ‐ ác mộng về một tương lai vô bờ và rộng lớn của đất nước chúng ta, trong đó đơn vị căn bản của nền kinh tế và sự thịnh vượng sẽ là cái hộp nhỏ với bốn bánh xe và một bộ máy được sản xuất hàng loạt.

Vì thế cụ mua ô tô, và Boon tìm thấy bạn lòng, mối tình trinh trắng trong trái tim thô thiển ngây thơ của ông. Đó là chiếc Winton Flyer (Chiếc đầu tiên ông nội ‐ giờ là chúng ta ‐ làm chủ, trước khi ông đổi nó lấy chiếc White Steamer vì hai năm sau rốt cuộc bà nội khăng khăng rằng bà không chịu nổi mùi xăng). Cái giá cho sự nguy hiểm khi đứng quay máy ở trước nó là một hay hai khúc xương cánh tay (miễn là nhớ đừng cài số), nó có mấy ngọn đèn dầu để lái ban đêm và khi trời sắp mưa thì năm hay sáu người có thể dễ dàng dựng mui và màn trong mười hay mười lăm phút, và chính ông nội trang bị cho nó một lồng đèn dầu, một cây rìu mới và một cuộn nhỏ dây kẽm gắn vào bộ ròng rọc nhẹ để lái bên ngoài phạm vi thị trấn. Với những thiết bị đó nó có thể ‐ và đã một lần, việc này tí nữa ta sẽ kể ‐ đi đến tận Memphis. Và tất cả chúng ta, ông bà, bố mẹ, cô dì, anh chị em họ và trẻ con, có trang phục đặc biệt để ngồi trên xe, bao gồm mạng che mặt, mũ, kính, găng dài, và miếng vải dài không hình dáng, màu mè rõ rệt để che cổ gọi là khăn che bụi, chốc nữa ta sẽ kể về nó.

Lúc này ông Buffaloe đã sớm dạy Boon cách vận hành chiếc xe tự chế tạo của ông. Tất nhiên họ không được dùng đường phố ở Jefferson ‐ thật vậy, nó chả bao giờ vượt qua hàng rào trước nhà ông Buffaloe nữa ‐ nhưng có một miếng đất trống sau nhà ông, ông Buffaloe và Boon đã nện và san phẳng (tương đối) thành một vòng đua xe khá tốt. Vì thế khi Boon và ông Wordwin, người thu ngân ở ngân hàng của ông nội (ông ta độc thân, một trong những hội viên câu lạc bộ và nhân vật nổi bật nhất của thị trấn. Trong mười năm ông làm phù rể mười ba đám cưới), tới Memphis bằng xe lửa để mang chiếc ô tô về (lần này chưa tới hai ngày, một kỷ lục), thì số trời đã định Boon là kẻ thâm niên nhất trong đám tài xế ô tô ở Jefferson.

Thế rồi, như ước mơ bấy lâu của Boon, ông nội ta bỏ phế chiếc ô tô. Ông chỉ mua nó, Boon gọi là trả một đống lớn tiền làm ăn vất vả cho nó, nhìn nó một cách kỹ càng và bí hiểm một lần, rồi loại nó ra khỏi mọi suy nghĩ. Ông ‐ ông nội ‐ tất nhiên không thể làm một cách trọn vẹn; cái sắc lệnh ngạo mạn ấy của Đại tá Sartoris khiến ông ‐ ông nội ‐ là người lớn tuổi hơn không thể cho phép mình chấp nhận, bất kể chính cụ nghĩ gì về xe máy nổ. Thật ra, trong việc này, cụ và Đại tá Sartoris giống nhau y hệt. Cho tới khi họ chết (lúc ấy ở cả quận hạt Yoknapatawpha, không khí ban ngày sực nức mùi khói xăng, và ban đêm, nhất là thứ Bảy, đầy tiếng va chạm loảng xoảng của thanh cản và tiếng phanh rít) cả hai đều không cho ai vay một xu nếu họ nghi ngờ người ấy sẽ dùng món tiền đó để mua một chiếc ô tô. Tội của Đại tá Sartoris chỉ là đã qua mặt kẻ thâm niên hơn ông ấy trong một hành động cả hai đều đồng ý ‐ chính thức cấm ô tô trong Jefferson ngay cả trước khi nó tới đó. Thấy chưa? Ông nội mua ô tô không chỉ để thách thức sắc lệnh của Đại tá Sartoris. Đó chỉ là cách gạt bỏ nó một cách có cân nhắc và điềm tĩnh, dù chỉ bằng biểu hiện mỗi tuần.

Ngay cả trước khi có sắc lệnh của Đại tá Sartoris, ông nội đã cho chuyển cỗ xe và mấy con ngựa ra khỏi sân sau của cụ tới chuồng ngựa cho thuê, ở đó bà nội dễ điện thoại gọi chúng ta hơn là kêu lớn từ cửa sổ trên lầu phía sau, vì ở chuồng ngựa luôn luôn có người trả lời điện thoại. Trong khi Ned, trong bếp hay chuồng ngựa hay bất kỳ chỗ nào ông tình cờ có mặt lúc ấy (hay giả thử tình cờ có mặt lúc bà nội cần ông), luôn luôn không đáp. Thật vậy, ông rất thường ở ngoài tầm gọi từ nhà bà nội, vì một trong những người gọi là vợ ông. Vì thế bây giờ ta kể tới Ned. Ông là người đánh xe cho ông nội. Vợ ông (bà vợ ông hồi đó, ông có bốn bà) là Delphine, người nấu bếp của bà nội. Hồi đó chỉ có mẹ ta gọi ông là “chú” Ned. Ta muốn nói bà là người nhất quyết rằng tất cả bọn trẻ con chúng ta ‐ ba đứa, vì Alexander chưa biết nói năng thưa gửi với ai ‐ gọi ông là chú Ned. Chẳng ai để ý chúng ta có gọi như thế hay không, kể cả bà nội, cụ cũng là một người thuộc dòng họ McCaslin, và chắc chắn Ned cũng chẳng cần, ông chả đáng được gọi là “chú”, ngay cả nếu ông sống đủ lâu để cho viền tóc ôm lấy cái sọ hói bắt đầu ngả bạc thôi chứ đừng nói tới trắng (không bao giờ. Ta muốn nói tóc ông chả bao giờ trắng hay thậm chí ngả bạc. Ông chết lúc bảy mươi bốn tuổi, trừ việc trải qua bốn đời vợ thì ông chẳng thay đổi chút nào), và thật ra ông có thể không muốn được gọi là “chú”; chẳng ai muốn chỉ trừ mẹ ta, theo cách suy nghĩ của nhà McCaslin thì bà chẳng họ hàng gì với chúng ta, nhưng bà cứ nhất quyết như thế. Vì ông ‐ Ned ‐ là một kẻ mang họ McCaslin, sinh ra trong sân sau nhà McCaslin năm 1860. Ông là chuyện thầm kín của gia đình chúng ta; chúng ta truyền đời thừa kế ông, theo huyền thoại của ông (không ai kiên quyết tin nó bằng chính Ned) thì mẹ ông là con ruột của cụ Lucius Quintus Carothers với một nô lệ da đen. Ned không bao giờ để bất cứ ai trong chúng ta quên rằng ông, cùng với anh họ Isaac, là cháu ruột của cụ Lancaster danh giá lâu đời, từ đó chúng ta nặn ra dòng họ Edmonds và Priest, dù cho cả ba cụ cháu ta ‐ cháu, ta và ông nội ta ‐ được mang tên Lucius của cụ, nhưng chúng ta chỉ là mối liên hệ phai mờ và là kẻ dựa dẫm ăn theo.

Vì thế khi Boon và ông Wordwin mang ô tô về tới thì nhà để xe ngựa đã sẵn sàng: nền và cửa mới, cái khóa móc mới tinh nằm trên tay ông nội lúc cụ chậm chạp bước quanh chiếc xe, nhìn nó y như cụ khảo sát cái cày hay máy gặt hay cỗ xe ngựa (cả khách hàng nữa) mà một khách hàng tương lai của ngân hàng đặt cọc để mượn tiền. Rồi cụ ra hiệu cho Boon lái nó vào ga ra (ồ phải, chúng ta đã biết đó là tên của cái nhà để ô tô, ngay từ hồi 1904, ngay cả ở Mississippi).

“Sao?”, Boon nói.

“Lái nó vào”, ông nội bảo.

“Ông không thèm thử nó à?”, Boon nói.

“Không”, ông nội nói. Boon lái nó vào ga ra, và (chỉ có Boon) lại đi ra. Mặt ông lúc trước là ngạc nhiên, giờ thì sửng sốt, choáng, dạng như kinh hoảng. “Nó có chìa khóa không?”, ông nội hỏi.

“Cái gì?”, Boon nói.

“Cái chốt. Cái then. Cái móc. Một cái để khởi động nó.” Boon chậm chạp lấy trong túi ra một thứ gì đó rồi đặt vào tay ông nội. “Đóng cửa lại”, ông nội nói, rồi tự cụ bước tới bấm cái khóa mới và bỏ chìa đó vào túi cụ. Giờ đây Boon đang tranh đấu với chính mình. Ông gặp khủng hoảng, mà vấn đề chính từ sự tuyệt vọng. Ta ‐ chúng ta, ông Wordwin, bà nội, Ned, Delphine và mọi kẻ da trắng, da đen tình cờ có mặt dọc đường lúc chiếc ô tô đến thành phố ‐ đã chứng kiến quá trình ông đoạt được nó, hay nói những sự ràng buộc của nó với ông cũng được.

“Tôi sẽ quay lại sau bữa ăn, để cô Sarah (tức là bà nội) có thể đi thử. Lúc một giờ. Tôi có thể tới sớm hơn nếu như thế quá trễ.”

“Ta sẽ bảo chuồng ngựa”, ông nội nói. Vì đó là cuộc đụng độ toàn diện: không chỉ là một vụ xô xát vặt ngoài tiền đồn. Toàn diện, thắng hay bại; cả hậu cần lẫn địa hình; nghi binh thọc sâu, lẩn tránh, lừa đảo; nhưng trên hết là kiên nhẫn và tầm nhìn xa. Sự việc kéo dài ba ngày còn lại trong tuần cho đến thứ Bảy. Boon trở lại chuồng ngựa cho thuê, suốt chiều hôm ấy ông không hề rời xa máy điện thoại, dù bề ngoài, hẳn nhiên, không tiết lộ điều gì; thậm chí ông làm việc của ông ‐ hay họ nghĩ như thế, tới khi bố khám phá ra Boon tự quyền sai Luster mang ngựa đi đón chuyến xe lửa chiều, giờ xe đến ga (trừ phi trễ) luôn luôn cùng với lúc ông nội rời ngân hàng sau khi xong việc trong ngày. Dù trận chiến vẫn kìm nén, cần ‐ không, đòi hỏi ‐ cảnh giác và đề phòng liên tục hơn là một trận xung phong tạo đà lấn tới, nhưng Boon vẫn tự tin, vẫn chủ động: “Vâng. Tôi đã bảo Luster đi. Thị trấn này phát triển, chả mấy chốc sẽ tới lúc mình cần hai con ngựa ra đón xe lửa, tôi đã nhắm Luster làm đứa đánh xe thứ hai từ lâu. Đừng lo, tôi sẽ trông chừng nó”.

Nhưng điện thoại không reo. Lúc sáu giờ, ngay cả Boon cũng thú nhận rằng hôm nay sẽ không có gì. Nhưng đó là một hành động kiềm chế, chưa mất gì cả và trong bóng tối ông có thể hơi di chuyển lực lượng của ông. Sáng hôm sau, khoảng mười giờ, ông ‐ bọn ta ‐ vào ngân hàng như thể tình cờ. “Đưa tui chìa khóa”, ông bảo ông nội. “Bao nhiêu bụi bặm từ ở Missippi, chưa kể bùn đất bụi bặm hồi đi Tennessee bám phía dưới. Tôi sẽ lấy vòi nước ở chuồng ngựa đề phòng Ned để lạc vòi nước của ông ở đâu đó.”

Ông nội nhìn Boon, chỉ nhìn, không hề vội vã, như Boon là kẻ đưa cỗ xe hay kiện cỏ khô tới để mượn mười lăm đô la. “Ta không muốn nhà để xe bị ướt”, ông nội nói. Nhưng Boon tám lạng nửa cân với cụ, dửng dưng và thậm chí còn lãnh đạm hơn, như có thừa thời giờ chẳng biết làm gì.

“Được, được. Nhớ chứ, hắn ta nói máy nên chạy mỗi ngày. Không cần chạy đi đâu cả, chỉ là để bộ đánh lửa và bộ phát điện khỏi gỉ sét, tránh làm tốn của ông hai mươi hoặc hai mươi lăm đô mua cái mới mãi tận Memphis hay đâu đó, không chừng tuốt tới tận nhà máy. Tôi không trách ông, tôi chỉ biết hắn đã bảo ông, tôi cũng phải tin lời hắn. Nhưng ông có đủ điều kiện. Ông là chủ chiếc ô tô, nếu ông muốn để nó gỉ sét thì đó là chuyện của ông. Con ngựa thì khác. Cho dù ông không phải trả một trăm đô một con thì ông vẫn có tôi ban ngày thòng dây vào cổ nó bắt chạy vòng tròn để ruột gan nó hoạt động.” Vì ông nội là một chủ ngân hàng cừ khôi và Boon biết điều ấy: Ông nội biết khi nào tịch biên tài sản và cả khi nào điều đình và xóa bỏ hợp đồng. Cụ thò tay vào túi lấy đưa Boon hai cái chìa khóa ‐ một chìa mở khóa cửa và một cái mở máy xe. “Đi thôi”, Boon bảo ta, lưng đã quay đi.

Lúc vẫn còn ở ngoài đường chúng ta đã nghe tiếng bà nội gọi Ned từ cửa sổ trên lầu phía sau, mặc dù khi chúng ta tới cổng bà đã bỏ cuộc. Lúc chúng ta băng qua sân sau để lấy vòi nước, Delphine từ cửa bếp đi ra. “Ned đâu?”, bà hỏi. “Tụi tôi gọi ông ấy cả buổi sáng. Ông ấy có ở đằng chuồng ngựa không?”

“Có”, Boon nói. “Tôi sẽ bảo ông ấy. Nhưng cũng đừng mong ổng quá làm gì.” Ned ở đó. Ông và hai đứa em ta như một dãy bậc thang đang cố nhìn qua khe nứt trên cánh cửa ga ra. Ta đoán Alexander cũng sẽ ở đó nếu nó đã biết đi, ta không biết tại sao dì Callie không nghĩ tới. Thế rồi Alexander có mặt, mẹ bế nó từ nhà đến. Thế thì có lẽ dì Callie còn đang giặt tã. “Chào cô Alison”, Boon nói. “Chào cô Sarah”, ông nói tiếp, vì lúc này bà nội cũng có mặt, với Delphine phía sau bà. Bây giờ lại có thêm hai bà nữa, các bà láng giềng, đầu còn đội mũ trong phòng ngủ. Có lẽ vì Boon không phải là chủ ngân hàng cũng chẳng là tay lái buôn giỏi lắm. Nhưng ông đang chứng tỏ bản thân là một chiến binh du kích cừ khôi. Ông đi mở khóa ga ra rồi mở cửa. Ned là kẻ đầu tiên lọt vào trong.

“Nào,” Boon bảo ông, “anh ở đây từ lúc hừng sáng để nhìn trộm qua cái khe đó. Anh nghĩ sao về nó?”.

“Tôi chả nghĩ gì cả”, Ned nói. “Sếp Priest lẽ ra đã mua được con ngựa hai trăm đô tốt nhất quận Yoknapatawpha bằng món tiền ấy.”

“Quận Yoknapatawpha không có con ngựa hai trăm đô la nào”, Boon nói. “Nếu có thì chiếc ô tô này sẽ mua được mười con. Đi gắn cái vòi đó.”

“Đi gắn cái vòi đó, Lucius”, Ned bảo ta, ông không thèm nhìn xung quanh. Ông đi tới mở cửa xe. Cửa ghế sau. Hàng ghế trước hồi đó không có cửa, mình phải bước qua để vào xe. “Nào, cô Sarah, mời cô và cô Alison,” Ned nói. “Delphine có thể đợi chuyến sau với bọn trẻ con.”

“Anh đi gắn cái vòi đó như tôi đã bảo”, Boon nói. “Tôi phải mang nó ra khỏi đây trước khi có thể làm gì khác.”

“Ông không để xổng nó chứ?”, Ned hỏi. “Tôi nghĩ bọn mình có thể cưỡi đi xa. Tôi nghĩ tôi sẽ phải lái nó, vì vậy tôi bắt đầu học sớm chừng nào nhanh chừng ấy.” Ông nói: “Hi hi hi”. Ông nói: “Lên nào, cô Sarah”.

“Liệu có ổn không, Boon?”, bà nội nói.

“Rất ổn, cô Sarah”, Boon nói. Bà nội và mẹ lên. Trước khi Boon đóng cửa thì Ned đã ngồi lên ghế trước.

“Cút ra khỏi chỗ đó”, Boon nói.

“Cứ lo việc của ông đi, nếu đúng là ông biết làm thế nào,” Ned nói. “Tôi sẽ không sờ mó bất kỳ cái gì cho tới khi tôi học xong, còn ngồi ở đây tôi sẽ chẳng học được gì. Cứ việc gắn vòi, hay làm bất cứ cái gì ông muốn.”

Boon đi vòng qua bên tài xế rồi bật công tắc, để lỏng cần số, lại vòng ra phía trước quay máy. Đến lần quay thứ ba, máy rồ lên.

“Boon!”, bà nội thét lên.

“Không sao, cô Sarah!”, Boon vừa hét át tiếng ồn vừa chạy về bánh lái.

“Tôi không biết!”, bà nội nói. “Vào nhanh! Tôi sợ!”, Boon vào và làm máy êm lại rồi sang số, một tích tắc, rồi chiếc ô tô di chuyển êm, từ từ lui khỏi nhà để xe, vào sân, ánh nắng, rồi ngừng.

“Hê hê hê”, Ned nói.

“Cẩn thận, Boon”, bà nội nói. Ta thấy tay cụ nắm chặt thanh trụ bên trên.

“Vâng thưa cô”, Boon nói. Chiếc ô tô lại di chuyển, lùi, bắt đầu quay. Rồi nó tiến tới, vẫn quay, tay bà nội vẫn nắm chặt thanh trụ. Mặt của mẹ trông giống hệt một cô bé. Chiếc xe đi chậm và êm qua sân tới khi đối diện cổng ra đường, ra ngoài, ra thế giới, rồi ngừng. Và Boon không nói gì, ông chỉ ngồi đó phía sau tay lái, máy chạy đều và êm, đầu ông nghiêng vừa đủ cho bà nội thấy mặt ông. Ồ phải, có thể ông không là tay phù thủy thương lượng giấy tờ như ông nội, và ở Jefferson có kẻ sẽ nói ông cũng chẳng có tài cán gì, nhưng dù sao trong vụ đụng độ này ông là gã chiến binh tài năng và duyên dáng tuyệt vời. Bà nội ngồi khoảng nửa phút. Rồi bà hít một hơi sâu và thở hắt ra.

“Khoan”, bà nói. “Mình phải đợi ông Priest.” Có thể không là chiến thắng, nhưng dù sao phe chúng ta ‐ Boon ‐ không chỉ đã khám phá ra điểm yếu trên mặt trận của đối phương (của ông nội), mà tới giờ ăn tối hôm ấy chính đối phương cũng sẽ khám phá ra.

Khám phá ra sự thật rằng bên phe cụ đổi chiến tuyến. Chiều hôm ấy (thứ Bảy) sau khi ngân hàng đóng cửa như các chiều thứ Bảy kế tiếp, rồi đến mùa hè thì sẽ là mọi buổi chiều trừ hôm trời mưa, ông nội ngồi phía trước bên cạnh Boon và cả đám chúng ta thay phiên nhau ‐ bà nội, mẹ, ta và ba thằng em với dì Callie chăm sóc bọn ta lần lượt từng đứa, kể cả bố, Delphine và đủ thứ bà con dòng họ rồi hàng xóm và các bạn thân của bà nội theo thứ tự ‐ đeo vải lanh che bụi và mắt kính, sẽ cưỡi xe qua Jefferson và vùng quê lân cận. Dì Callie và Delphine đợi tới phiên nhưng Ned thì không. Ông leo lên nó một lần: đúng một phút lúc nó lùi từ từ khỏi ga ra, và hai phút lúc nó quay và từ từ băng qua sân đến khi bà nội hoảng hốt nói “không” với việc mở ra cánh cổng và thế giới bên ngoài, sau đó ông không lên lần nào nữa. Tới thứ Bảy tuần sau Ned hiểu ra, chấp nhận ‐ hay là bị thuyết phục ‐ rằng ngay cả nếu ông nội có ý định cho Ned là kẻ chính thức trông nom và vận hành chiếc ô tô, ông cũng chỉ có thể lại gần nó sau khi bước qua xác chết của Boon. Nhưng dù ông không chịu thừa nhận rằng chiếc ô tô hiện hữu, ông và ông nội lặng lẽ thỏa thuận với phong cách của những người lịch lãm: Ned không bao giờ tỏ lời khinh rẻ hay xúc phạm tới quyền sở hữu và sự hiện diện của chiếc ô tô, ông nội không bao giờ bảo Ned rửa và lau bóng xe như ông vẫn làm với cỗ xe ngựa ‐ một việc cả ông nội lẫn Ned đều biết Ned sẽ từ chối làm, ngay cả nếu Boon để ông làm. Bằng cách đó ông nội bắt Ned chịu hình phạt duy nhất về tội bất tuân của ông: Cụ không cho Ned có cơ hội công khai từ chối rửa chiếc ô tô trước khi Boon có thể có cơ hội công khai không cho ông làm.

Vì khi đó Boon chuyển sang ‐ được chuyển sang theo thỏa thuận hai bên và ngay lập tức ‐ từ ca ngày ở chuồng ngựa qua ca đêm. Nếu không, việc kinh doanh ở chuồng ngựa sẽ không còn biết đến ông nữa. Tầng lớp nhàn rỗi ấy của Jefferson chúng ta, bạn bè hay người quen của bố hay có thể chỉ là bạn của bầy ngựa, có thể dùng chuồng ngựa như một địa chỉ kinh doanh thường trực ‐ nếu họ có việc giao dịch nào đó hay đợi thư ‐ họ đều ít xa lạ với chuồng ngựa hơn Boon. Nếu ‐ khi ‐ ai, nghĩa là bố, bây giờ cần Boon thì ông bảo ta tới sân nhà ông nội, chỗ Boon rửa và đánh bóng chiếc ô tô ‐ ngay cả trong những tuần đầu ấy khi chiếc xe không ra khỏi sân từ thứ Bảy trước và sẽ không ra nữa cho tới thứ Bảy sau, mỗi sáng ông lùi nó ra khỏi nhà xe và lại rửa nó tới cái nan hoa và đinh ốc cuối cùng với lòng mải mê dịu dàng, rồi ngồi canh gác trong lúc nó khô.

“Hắn sẽ ngâm rã hết nước sơn của chiếc xe”, ông Ballott nói. “Sếp có biết hắn xịt nước chiếc ô tô ấy bốn, năm lần mỗi ngày không?”

“Ông cụ biết thì sao?”, bố nói. “Boon vẫn cứ ngồi trong sân suốt ngày nhìn nó.”

“Cho hắn làm ca đêm”, ông Ballott nói. “Lúc đó hắn muốn làm gì ban ngày tùy ý, đổi lại mỗi tối John Powell có thể về ngủ ở nhà.”

“Tôi đã làm rồi”, bố nói. “Ngay khi tôi tìm được người tới cái sân đó bảo Boon.”

Trong phòng yên cương có tấm nệm nhồi vỏ bắp, cho tới nay John Powell hoặc một trong mấy ông đánh xe hay coi ngựa dưới quyền ông ấy vẫn nằm nghỉ qua đêm, chủ yếu là để phòng cháy ban đêm. Bây giờ bố kê một cái chõng và nệm ngay trong văn phòng, Boon có thể ngủ ở đó, một điều ông cần, vì bây giờ suốt ngày không ai được đụng tới ông trong sân nhà ông nội, ông chỉ rửa chiếc ô tô hay ngắm nó.

Vì thế giờ đây mỗi buổi chiều bọn ta theo thứ tự thay phiên nhau ngồi đầy cứng trên ghế sau và lượn qua quảng trường rồi vào vùng quê. Ông nội đã lắp thêm bộ phụ tùng dùng lúc khẩn cấp, đó là một phần trang bị không thể tách rời của chiếc ô tô như động cơ của nó.

Nhưng trước tiên luôn luôn đi qua quảng trường.

Thiên hạ nghĩ rằng ngay khi mua chiếc ô tô ông nội sẽ làm điều họ sẽ làm, mua chiếc ô tô cho mục đích ấy: rình Đại tá Sartoris với cỗ xe ngựa của ông ấy và phục kích rồi dạy cho ông cách thông qua sắc lệnh hạn chế quyền lợi và đặc quyền của kẻ khác mà không hỏi trước ý kiến của bậc bề trên. Nhưng ông nội đâu có làm vậy. Cuối cùng chúng ta hiểu cụ không màng tới Đại tá Sartoris, cụ quan tâm tới các đàn thú, đoàn xe. Vì ta đã kể rằng cụ là người nhìn xa, một người có tầm nhìn. Bà nội ngồi căng thẳng và cứng ngắc, nắm chặt thanh sắt bên trên, không còn gọi ông nội là “Ông Priest” nữa như bà vẫn gọi từ ngày chúng ta biết bà, mà gọi ông bằng tên riêng như thể bà chẳng họ hàng thân thuộc gì với ông, khi con ngựa hay đàn thú chúng ta đang tiến tới gần phải ghìm cương và gắng sức để tránh, đôi khi thậm chí phải lùi lại, bà nội nói, “Lucius! Lucius!” và ông nội (nếu đang đánh xe kia là một người đàn ông và không có phụ nữ hay trẻ con trên chiếc độc mã hay xe chở hàng ấy) lặng lẽ nói với Boon:

“Đừng ngừng. Cứ đi. Nhưng bây giờ chậm lại.” Hay khi một phụ nữ đang cầm cương thì cụ bảo Boon ngừng lại rồi chính cụ bước ra, nói nho nhỏ đều đều với con ngựa hốt hoảng, cho tới khi cụ nắm được hàm thiếc và dắt cỗ xe qua rồi giở nón chào các mệnh phụ trên chiếc độc mã, sau đó quay lại và lên ghế trước, đến khi đó mới đáp lời bà nội: “Mình phải cho chúng quen. Biết đâu đấy? Mười hay mười lăm năm nữa ở Jefferson có thể lại có thêm một chiếc ô tô khác”.

Thật ra, giấc mộng ông Buffaloe một tay tự tạo ra trong sân sau nhà ông hai năm trước suýt nữa đã chữa khỏi một thói quen ông nội đã có từ năm mười chín tuổi. Cụ nhai thuốc lá. Lần đầu tiên cụ quay đầu để nhổ ra khỏi chiếc ô tô đang chạy, chúng ta ở ghế sau không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho tới khi đã quá muộn. Vì làm sao chúng ta biết được? Trước kia chúng ta chưa ai ngồi trên một chiếc ô tô đi xa hơn từ nhà để xe tới cổng (đây là chuyến đi đầu tiên), nói gì tới đi mười lăm dặm một giờ (và thế này nữa: khi chúng ta đi mười dặm một giờ Boon luôn luôn nói chúng ta đang đi hai mươi dặm, khi hai mươi dặm, ông luôn luôn nói là bốn mươi, chúng ta tìm thấy một đoạn đường thẳng độ nửa dặm cách thị trấn vài dặm, ở đó chiếc ô tô sẽ lên tới hai mươi lăm dặm một giờ. Ta nghe Boon kể cho một đám mấy ông trên quảng trường rằng chiếc ô tô chạy sáu mươi dặm một giờ ở đoạn đường đó. Chuyện này xảy ra trước khi ông biết rằng chúng ta biết cái vật nom giống như máy đo hơi nước trên bảng đồng hồ là đồng hồ tốc độ), vì thế làm sao chúng ta đoán được? Vả lại, đối với cả bọn chúng ta cũng chẳng sao; chúng ta đều có mắt kính, khăn che bụi và mạng che mặt, dù cho khăn che bụi còn mới thì mấy đốm vết bẩn chỉ là những đốm vệt nâu, và vì chúng được gọi là khăn lau bụi thì không có lý do gì chúng không được dùng để đối phó với cái gì khác hơn bụi bặm.

Có thể vì bà nội ngồi bên trái ngay phía sau ông nội (hồi đó ô tô ngồi lái bên phải như xe độc mã, ngay cả Henry Ford5, một người có tầm nhìn xa như ông nội, chưa tiên đoán được tay lái sẽ nằm bên trái). Bà lập tức bảo Boon: “Ngừng ô tô lại”, rồi ngồi đó, lạnh nhạt tức giận và sửng sốt khôn nguôi. Bà vừa mới qua tuổi năm mươi (năm mười lăm tuổi bà và ông nội làm đám cưới) và trong suốt năm chục năm ấy bà không thể tin rằng một người đàn ông, nói gì đến chồng bà, sẽ nhổ vào mặt bà, giống như chẳng hạn bà không tin Boon sẽ tiến tới khúc quanh trên đường mà không bóp còi. Bà nói, chẳng với ai, thậm chí bà chẳng đưa tay lên chùi nước bọt:

5 Henry Ford (1863-1947): người sáng lập Công ty Ford Motor và áp dụng phương pháp sản xuất dây chuyền. (ND)

“Đưa tôi về nhà.”

“Nào, Sarah,” ông nội nói. “Nào, Sarah.” Cụ ném mẩu thuốc nhai đi và rút chiếc khăn tay sạch trong túi cụ, nhưng bà nội nhất định không nhận. Boon đã leo ra rồi đi tới căn nhà bọn ta nhìn thấy lấy một xoong nước với xà phòng và khăn mặt, nhưng bà nội cũng không nhận.

“Đừng đụng tới tôi”, bà nói, “Cứ lái đi.” Vì thế chúng ta đi tiếp, bà nội có một vệt nâu dài khô trên một mắt kính chảy xuống gò má, mặc dù mẹ cứ đề nghị dùng chiếc khăn tay của mẹ để lau sạch nó. “Để tôi yên, Alison”, bà nội nói.

Nhưng mẹ thì không. Bà chẳng màng tới thuốc lá trong xe. Có thể đó là lý do tại sao. Nhưng mùa hè ấy dần dần chỉ còn mẹ và chúng ta với dì Callie cùng một hai đứa nhóc hàng xóm ngồi ghế sau, mặt mẹ ửng đỏ rạng rỡ và háo hức, như một cô bé. Vì bà đã phát minh ra một loại lá chắn cầm tay như cái quạt lớn, đủ nhẹ để bà kịp giơ ra phía trước chúng ta ngay lúc ông nội quay đầu. Vì thế bây giờ cụ có thể nhai thuốc lá, mẹ luôn luôn cảnh giác và sẵn sàng tấm chắn. Thật ra bây giờ cả bọn chúng ta đều nhanh nhẹn, vì thế hầu như ngay trước cả khi ông nội nhận ra cụ đang quay đầu sang bên trái để nhổ thì tấm chắn đã dựng lên, cả bọn chúng ta ngồi ghế sau đã nghiêng sang bên phải như được điều khiển bằng cùng một sợi dây. Bây giờ thật sự đi hai mươi và hai mươi lăm dặm một giờ vì mùa hè năm đó đã có thêm hai chiếc ô tô ở Jefferson và như thể chính những chiếc ô tô san phẳng đường sá trước khi tiền mà chúng đại diện bắt đầu thúc giục phải có đường sá phẳng phiu hơn.

“Hai mươi lăm năm nữa mọi con đường trong nước đều có thể lái ô tô vào bất kỳ thời tiết nào”, ông nội nói. “Như thế không tốn khối tiền à, papa?”, mẹ nói.

“Tốn rất nhiều tiền”, ông nội nói, “Công ty làm đường sẽ phát hành trái phiếu. Ngân hàng sẽ mua nó”.

“Ngân hàng của mình à?”, mẹ hỏi, “Mua trái phiếu ô tô à?”.

“Ừ”, ông nội nói, “Mình sẽ mua”.

“Nhưng chúng con thì sao? Con muốn nói, Maury.”

“Vẫn kinh doanh chuyên chở thuê”, ông nội nói, “Nó chỉ phải đặt tên mới. Priest’s Garage chẳng hạn, hay Công ty Priest Motor. Thiên hạ sẽ trả bất cứ giá nào để di chuyển. Thậm chí họ sẽ phục vụ nó. Nhìn mấy chiếc xe đạp kìa. Nhìn Boon kìa. Chúng ta đâu có biết lý do”.

Đến tháng Năm, người ông kia của ta, bố của mẹ, chết ở Bay St. Louis.