Lại đến thứ Bảy. Thật ra là thứ Bảy ngay sau đó, Ludus lại bắt đầu được trả lương mỗi tối thứ Bảy, có lẽ ông đã thôi mượn mấy con la. Chưa tới tám giờ, ta thậm chí chưa đi được nửa vòng quảng trường với mấy tờ hóa đơn chuyên chở và cái bao vải đựng tiền, chỉ mới xong cửa hiệu Nông Cụ lúc Boon bước vào, nhanh, quá nhanh đối với ông. Đáng lẽ ta nên nghi ngờ lập tức. Không, đáng lẽ ta nên biết ngay, cả đời ta đã biết Boon, chưa kể đã quan sát ông suốt một năm nay với chiếc ô tô ấy. Ông đã với lấy bao tiền, giật nó khỏi tay ta trước khi ta kịp nắm lại. “Bỏ nó đó”, ông nói. “Đi nào.”
“Hê”, ta nói. “Cháu vừa mới bắt đầu.”
“Tôi bảo bỏ nó đấy. Kệ nó. Nhanh lên. Họ phải kịp chuyến Hai mươi ba,” ông nói, đã quay đi. Ông hoàn toàn bỏ qua mấy tấm hóa đơn chuyên chở chưa trả tiền. Nó chỉ là giấy, công ty hỏa xa có hàng đống. Nhưng cái bao đựng tiền.
“Ai phải đi chuyến Hai mươi ba?”, ta hỏi. Hai mươi ba là chuyến xe lửa buổi sáng đi về hướng nam. Ồ phải, dạo ấy Jefferson đã có xe lửa chở hành khách, số chuyến đủ nhiều để họ phải đánh số phân biệt chúng.
“Khỉ thật”, Boon nói, “Làm sao tôi có thể nhẹ nhàng báo tin cho cậu nếu cậu không thèm nghe? Ông của cậu chết tối hôm qua. Mình phải nhanh lên”.
“Đâu có!”, ta nói, thét lên. “Sáng nay ông ở hàng hiên phía trước nhà lúc cháu đi ngang qua.” Đúng. Bố và ta đều thấy cụ đang đọc báo hay đứng hay ngồi đó như thông lệ mỗi sáng, đợi tới giờ ra ngân hàng.
“Ai mà nói tới Sếp làm quái gì?”, Boon nói, “Tôi nói tới người ông kia của cậu, papa của má cậu dưới Jackson hay Mobile hay chỗ nào đó ý”.
“Ồ!”, ta nói. “Ông không biết Bay St. Louis khác với Mobile à?” Vì bây giờ yên chí. Chuyện này khác. Bay St. Louis cách ba trăm dặm, ta chẳng biết gì nhiều về ông ngoại Lessep, trừ hai lần vào dịp Giáng sinh ở Jefferson và ba lần chúng ta xuống đó vào mùa hè. Vả lại, cụ bệnh đã lâu, chúng ta ‐ mẹ và bọn ta ‐ đã xuống đó mùa hè vừa rồi chỉ để thấy cụ gần đất xa trời mặc dù hồi đó chúng ta không biết (mẹ và dì Callie bế ông trẻ Alexander của cháu mới sinh tháng trước xuống đó mùa đông vừa rồi khi họ nghĩ cụ sắp chết). Ta nói “mặc dù” là muốn nói tới mẹ, đối với một đứa trẻ con, khi một người già sinh bệnh thì cụ ông hay cụ bà ấy đã hết sống; nói một cách khác, cái chết thật ra chỉ để làm rõ ràng hoàn cảnh chứ không thể bỏ đi thứ đã mất rồi được.
“Được rồi, được rồi”, Boon nói. “Thế nào cũng được. Jackson, Mobile, New Orleans… tôi chỉ biết nó nằm đâu đó dưới kia, bất kể nó ở chỗ nào thì họ vẫn phải bắt kịp chuyến xe lửa đó.” Và như thế ‐ cái tên New Orleans không bỗng dưng thốt ra khơi khơi ‐ đáng lẽ đã cho ta biết rõ, tiết lộ toàn bộ ước mơ, dự tính, quyết tâm rồ dại của Boon; mưu đồ tinh vi về sau của ông để dụ dỗ ta mà ta lẽ ra đã rõ. Nhưng có thể ta vẫn chưa hết sửng sốt; vả lại, lúc ấy ta không rõ chi tiết như Boon. Vì thế bọn ta tiến bước, nhanh, ta chạy lon ton để bắt kịp Boon trên con đường ngắn nhất băng qua quảng trường đến khi bọn ta về tới nhà.
Ở nhà rối tung. Chỉ còn hai tiếng trước khi xe lửa đi mà mẹ thì quá bận không có thời giờ khóc hay buồn: chỉ có khuôn mặt xanh xao, chăm chú, xúc động. Lúc này ta hiểu điều Boon đã nói với ta hai lần: Ông bà nội cũng đi dự đám tang ông ngoại Lessep. Cụ và ông nội là bạn cùng phòng cùng lớp ở đại học; họ là phù rể trong đám cưới của nhau, chắc vì vậy mẹ và bố chọn nhau trong không biết bao nhiêu người trên thế gian để nhìn vào mắt nhau mãi mãi (ta hiểu các cháu gọi đó là quan hệ đứng đắn), và bà nội và bà ngoại Lessep sống cách xa nhau đủ để tiếp tục lịch sự và thậm chí thích bà mẹ của đứa con duy nhất kia. Ngoài ra, hồi đó người ta xem đám tang là việc hệ trọng. Không phải cái chết, chết là chuyện quen thuộc thường xuyên của chúng ta. Không gia phả nào không có rải rác mấy tấm bia mộ ghi nhớ những người đã chết quá sớm thậm chí chưa có tên ‐ tất nhiên trừ phi bà mẹ cũng nằm chung trong ngôi mộ đó, một việc thường xảy ra hơn các cháu nghĩ. Chưa kể các ông chồng và chú bác, cô dì trong lứa tuổi hai mươi, ba mươi và bốn mươi, các cụ ông cụ bà cùng các ông chú bà dì không có con đã chết tại nhà trong cùng căn phòng và chiếc giường họ đã sinh ra, thay vì dùng chữ tịch dương theo lối nói hoa mỹ rập khuôn. Nhưng đám tang, nghi lễ chôn cất với những ràng buộc mỏng manh nhưng bền chặt, thậm chí có thể vươn xa và quan trọng hơn cả khoảng cách từ Jefferson tới Vịnh Mexico.
Vì thế ông nội và bà nội cũng đi dự đám tang. Tình cờ điều này còn có nghĩa là ở thị trấn sẽ không còn ai thân thuộc, chúng ta ‐ ta với ba đứa em trai và dì Callie ‐ sẽ phải tới ở trong nông trại của anh Zachary Edmonds cách đó mười bảy dặm đến khi bố mẹ trở về, cũng ngẫu nhiên là bố mẹ sẽ đi bốn ngày. Điều thực sự quan trọng là ông bà nội thậm chí sẽ không trở về sau bốn ngày. Vì mỗi khi rời Jefferson, cho dù chỉ đi Memphis, ông nội sẽ tới chơi New Orleans hai hay ba ngày, cụ thích nơi ấy, cả đến lẫn đi và lần này rất có thể họ đưa mẹ và bố đi theo. Nghĩa là, thật ra điều Boon đã sơ suất nói với ta hai lần một cách hồ hởi khó tin chỉ là: Chủ của chiếc ô tô, và bất kỳ ai khác có quyền sở hữu hay ngay cả tự cho rằng có quyền, sẽ ở cách nó ba trăm dặm, từ bốn ngày đến một tuần. Vì thế mọi âm mưu vụng về của ông nhằm dụ dỗ và làm hư hỏng ta lại càng rõ thêm. Thậm chí nó chẳng cần quà cáp biếu xén gì. Ông có thể lấy chiếc xe một mình và chắc chắn sẽ lấy nếu ta không thể bị hủ hóa, dù biết rằng một ngày nào đó ông phải mang nó về hay tự dẫn xác về để hứng chịu hậu quả nhẹ hơn là nếu ‐ khi ‐ cảnh sát của ông nội bắt được ông. Vì ông phải trở về. Một kẻ chẳng biết nơi nào khác, đối với ông những chữ, những tên ‐ Jefferson, McCaslin, De Spain, Compson ‐ không chỉ là nhà mà còn là cha lẫn mẹ, ông còn đi đâu được? Nhưng óc phán đoán cùng quẫn lầm lạc, chút âm mưu phôi thai từ lòng thận trọng mộc mạc còn trinh nguyên và lẽ thường đã thúc giục ông ít ra nên nhử ta trước, để có ta bên cạnh như một thứ con tin. Và ông chẳng cần thử hay sát hạch ta. Khi người lớn nói về sự non nớt của trẻ con thì thật ra họ đâu biết họ nói gì. Hỏi vặn, họ sẽ đi xa hơn một bước và nói, “Ôi dào, dại dột ấy mà”. Trẻ con chẳng phải thế. Không có một tội lỗi nào mà một đứa con trai mười một tuổi không mường tượng trước từ lâu. Sự non nớt duy nhất của nó là nó có thể chưa đủ lớn để thèm muốn quả ngọt của tội lỗi, đó không phải là sự non nớt mà là lòng thèm khát; sự dại dột của nó là nó không biết cách phạm tội, đó không phải ngu dại mà là tầm cỡ.
Nhưng Boon không biết điều này. Ông phải dụ dỗ ta. Và ông có quá ít thời gian: chỉ từ lúc xe lửa lăn bánh đến khi trời tối. Đáng lẽ ông có thể khởi sự một cách bình tĩnh, từ đầu, ngày mai hay hôm sau nữa, hay bất cứ hôm nào trước thứ Tư và kể cả thứ Tư. Nhưng hôm nay, bây giờ, là lúc tốt nhất của ông, với chiếc xe lồ lộ cho cả Jefferson thấy nó đang chuyển động, sẵn sàng lên đường; như thể thánh thần đã biếu không cho ông khoảng thời gian từ mười một giờ hai phút tới lúc mặt trời lặn, nhưng ông khinh thường, liều mạng phớt lờ thần thánh. Chiếc ô tô đến, ông bà nội đã ngồi trên đó với hộp đựng gà rán, trứng luộc và bánh ngọt, vì xe lửa không có toa bán thức ăn cho tới khi họ đổi sang chuyến Tốc hành ở chỗ ga đầu mối lúc một giờ, và tới bây giờ bà nội với mẹ đều hiểu ông nội và bố quá rõ biết rằng họ sẽ không đợi đến một giờ mới ăn trưa, dù là ai chết đi nữa. Không, không kể bà nội, vì tang quyến chỉ có mẹ. Không, như thế cũng không đúng, bà nội có tầm nhìn rộng hơn con dâu của bà; có lẽ tất cả các bà mẹ chỉ cần là phụ nữ là đủ. Đàn ông không thích nghi với sự chết, họ chống lại, cố phản công và đầu óc họ bị giẫm nát vì thế. Trong khi đó, phụ nữ sẽ bọc sườn nó, ôm lấy nó bằng sự thỏa hiệp êm ái và tức thì, không chống cự, như chăn bông hay mạng nhện hoàn toàn vô hại, không chỉ thu nhỏ lại và tiện lợi mà còn hữu ích, như một bà cô không chồng hay anh chàng độc thân nghèo xơ nghèo xác luôn sẵn sàng trám chỗ trống hay làm khách mời thêm cho đông đủ bữa ăn. Túi du lịch của họ đã buộc lên thanh chắn, Son Thomas đã mang túi của mẹ và bố ra đường, bây giờ cả bọn chúng ta đi theo, mẹ đeo mạng đen che mặt, bố đeo băng đen trên cánh tay, chúng ta theo sau với dì Callie bế Alexander. “Tạm biệt”, mẹ nói, “Tạm biệt” rồi hôn bọn ta qua tấm mạng, bà có mùi thường lệ nhưng cũng có thêm mùi ảm đạm, như thể tấm mạng đen mỏng đã che giấu điều gì, như thể đã có nhiều hơn lời nhắn máy móc truyền qua dòng điện trên sợi dây đồng đã đến từ ba trăm dặm mãi tận Bay St. Louis; ồ phải, ta có thể ngửi thấy nó khi bà vừa hôn ta và nói, “Con là con trai lớn, bây giờ là người lớn rồi. Con phải giúp dì Callie trông các em để chúng khỏi quấy rầy chị Louisa”, vừa vội vào ngồi cạnh bà nội khi Boon nói:
“Tôi phải đổ đầy bình xăng cho chuyến đi tới McCaslin sau bữa ăn. Tôi nghĩ Lucius bây giờ có thể đi theo giúp tôi trên đường từ nhà ga về.” Thấy đấy, dễ dàng chưa. Quá dễ khiến cháu phải hơi xấu hổ. Như thể lá bài đức hạnh và chính trực được đưa ra để chống lại ông bà nội và bố mẹ. Ừ thì chống lại cả ta. Mặc dù ở Jefferson chỉ mới có ô tô được hai hay ba năm nhưng chúng đã thúc giục Boon làm bậy ‐ thôi được, là xúi chúng ta. Ông Rouncewell đại lý công ty dầu có bồn chứa bên cạnh nhà ga để cung cấp cho tất cả các cửa hàng ở quận hạt Yoknapatawpha, hai năm qua ông cũng đã có một bồn riêng để chứa xăng, với vòi bơm và một ông da đen đứng bơm. Boon hay bất cứ ai cần xăng chỉ phải lái tới, ngừng lại rồi đi ra, ông da đen sẽ nâng cái ghế trước rồi đo bồn xăng bằng cây que đặc biệt có ngấn của ông ta, đổ đầy bình và thu tiền hay (nếu ông Rouncewell không có mặt ở đó) để chính khách hàng viết tên của họ và bao nhiêu lít vào một cuốn sổ dính dầu mỡ. Nhưng mặc dù ông nội lúc này đã có xe gần một năm, không ai ‐ ông bà nội hay bố mẹ ‐ biết chiếc xe vận hành ra sao, hay dám (hay có thể chỉ tò mò) gặng hỏi hay chất vấn Boon.
Ông ấy và ta đứng trên thềm ga. Mẹ vẫy tay tạm biệt chúng ta qua cửa kính khi xe lửa lăn bánh. Bây giờ tới phiên ông. Ông phải nói điều gì, phải bắt đầu. Ông đã thu xếp dọn xong chướng ngại, và ta nằm trong quyền năng của ông, ít nhất tới khi dì Callie bắt đầu tự hỏi ta sẽ ăn ở đâu. Ta muốn nói Boon không biết rằng ông chẳng phải nói gì, ngoại trừ bảo cho ta biết bọn ta đang đi đâu, và thậm chí điều đó ‐ điểm đến định mệnh ‐ cũng chẳng quan trọng. Ông chẳng hiểu gì về con người và hiển nhiên đã quên điều ông đã từng trải qua và nhận thức về bọn con trai.
Và bây giờ chính Boon không biết bắt đầu ra sao. Ông đã cầu mong may mắn, và có thể nói là lập tức nhận được phúc đáp, nhiều hơn mức mà ông có thể xử lý. Thiên hạ đã từng nói rằng Thần tài chắc là mụ già thất thường, không bao giờ từ chối mà luôn ban, nhưng cả tốt và xấu: tốt hơn ta nghĩ (có lẽ một cách công bằng) mình xứng đáng; xấu hơn ta có thể đối phó. Với Boon cũng thế. Vì vậy ông chỉ nói, “À”.
Ta cũng không giúp ông, ta trả thù. Ồ, trả thù ai? Tất nhiên không phải Boon: trả thù ta, nỗi hổ thẹn của ta; có lẽ trả thù bố mẹ đã bỏ rơi ta cho nỗi hổ thẹn; có lẽ trả thù ông nội vì chiếc ô tô của cụ đã gây nên nỗi hổ thẹn, ai biết được? Có lẽ trả thù chính ông Buffaloe ‐ kẻ mộng du mê mẩn ma nhập đã gây nên mọi cớ sự từ hai năm khờ dại trước. Nhưng ta cảm thấy thương hại Boon vì ông có quá ít thời giờ. Lúc này đã quá mười một giờ, bây giờ dì Callie đang đợi ta về, không phải vì dì biết quay về nhà sẽ không mất đến mười phút sau khi dì nghe chuyến Hai mươi ba kéo còi chỗ giao lộ, mà vì dì đã hết sức nôn nóng cho cả bọn ta ăn rồi lên đường tới nhà McCaslin, dì sinh ra ở nông thôn và vẫn thích thôn quê. Boon không nhìn ta. Ông rất thận trọng không nhìn ta. “Ba trăm dặm”, ông nói, “May là người ta đã sáng chế ra xe lửa. Nếu họ phải đi bằng xe la kéo như các cụ ngày trước thì mười ngày chưa chắc đã đến, chưa kể mười ngày quay về nữa”.
“Bố nói bốn ngày”, ta nói.
“Ừ đúng”, Boon nói, “Ông ấy nói vậy. Có lẽ mình có bốn ngày để về nhà, nhưng dù vậy mình vẫn không chần chừ mãi được đâu”. Bọn ta quay lại xe nhưng ông không nổ máy. “Có lẽ mườ… bốn ngày sau Sếp về, cụ sẽ cho tôi dạy cậu lái chiếc này. Cậu đủ lớn rồi. Vả lại, cậu đã biết lái. Cậu đã bao giờ nghĩ tới chưa?”
“Chưa”, ta nói, “Vì ông nội sẽ không cho phép cháu”.
“Ôi dào, cậu chả cần vội. Cậu có bốn ngày để cụ đổi ý. Tuy tôi đoán là gần mười ngày”, ông vẫn chưa cử động để nổ máy xe. “Mười ngày”, ông nói. “Cậu nghĩ chiếc ô tô này có thể đi bao xa trong mười ngày?”
“Bố nói bốn ngày”, ta nói.
“Thôi được”, ông nói, “Bốn ngày thì bao xa?”.
“Cháu cũng không biết”, ta nói, “Vì quanh đây không có ai biết để bảo cho cháu”.
“Được rồi”, ông nói. Thình lình ông nổ máy và lùi lại rồi quay đầu xe, đã phóng nhanh, không tới quảng trường mà cũng chẳng tới chỗ bơm xăng của ông Rouncewell.
“Cháu nghĩ mình phải đổ xăng”, ta nói.
Bọn ta phóng nhanh. “Tôi đổi ý”, Boon nói. “Tôi sẽ lo việc đó trước khi mình lên đường tới McCaslin sau bữa ăn. Như vậy xăng sẽ khỏi bốc hơi nhiều chỉ vì đứng một chỗ”. Giờ đây bọn ta đi trên đường làng, phóng giữa các túp lều với vườn rau và sân nuôi gà của người da đen, đàn gà và lũ chó lai hoảng hốt chồm lên khỏi đám bụi vừa kịp lúc, ra khỏi đường làng rồi vào cánh đồng vắng, một chỗ bỏ hoang với những vết bánh xe mờ nhưng không có dấu móng thú. Bây giờ ta nhận ra nó: vòng đua tự tạo của ông Buffaloe, luật của Đại tá Sartoris đã khiến ông ấy ra đây hai năm trước và ở đây ông ấy đã dạy Boon vận hành chiếc ô tô. Nhưng ta vẫn chưa hiểu cho tới khi Boon thắng xe ngừng lại và nói, “Qua bên này”.
Thế là rốt cuộc ta trễ bữa ăn, dì Callie đã đứng trên hiên trước nhà, vừa bế Alexander vừa hét Boon và ta ngay cả trước khi ông ngừng xe cho ta xuống. Vì rốt cuộc Boon đã thắng ta trong một trận đấu ngay thẳng, rõ ràng ông đã không quên hết những gì ông biết qua tuổi trẻ của ông về bọn con trai. Dĩ nhiên bây giờ ta biết hơn, và thậm chí hồi đó ta còn biết rõ hơn nữa: rằng sự sa ngã của Boon và ta không chỉ tức khắc mà còn đồng thời, cùng với lúc mẹ nhận được tin ông ngoại Lessep qua đời. Nhưng đó là điều ta muốn tin: rằng Boon đã thắng ta thế thôi. Dù sao đó là điều ta tự nhủ lúc ấy: rằng ẩn sau tính chính trực bất khả xâm phạm và không thể trốn tránh đi đôi với cái tên ta mang, theo mẫu mực hào hiệp do tổ tiên họ nội truyền lại ‐ à không, bắt buộc ‐ cho ta qua lời của bố, được củng cố và làm xấu hổ thêm qua niềm tin say mê của mẹ, rằng ta chỉ thử Boon; không rèn luyện đức hạnh của chính mình mà chỉ thử khả năng làm hư hỏng nó của Boon; và với sự ngây thơ của ta, tin cậy quá đáng vào áo giáp và tấm khiên của sự ngây thơ; trông đợi, đòi hỏi, mong chờ lớp vải tơ mỏng mảnh ấy có khả năng chống đỡ. Ta dùng chữ “lớp vải tơ mỏng mảnh” không những một cách thận trọng mà rõ ràng, biết rằng ở thời ta, những kẻ cổ động và ngay cả những nhà đạo đức thường hiển nhiên rất ngờ vực sự vững vàng của tấm khiên đức hạnh của chính họ, họ không đặt niềm tin và kỳ vọng của họ vào đức hạnh mà vào các vị thần nam nữ phụ trách đức hạnh. Họ bỏ qua đức hạnh để trung thành với vị Thượng đẳng thần, đổi lại thần thánh sẽ đẩy cám dỗ đi nơi khác hay can thiệp vào bằng cách nào đó. Điều này giải thích được rất nhiều thứ, như đã thấy trong thời ta, rằng vị thần phụ trách đạo đức hình như cũng là vị thần phụ trách may mắn, chưa kể phụ trách thêm trò dại dột.
Vì thế Boon thắng ta trong một trận đấu ngay thẳng, so găng như một kẻ lịch lãm sẽ và nên làm. Khi ông ngừng xe và bảo, “Qua bên này”, ta nghĩ ta biết ý định của ông. Trước đó chúng ta đã làm điều này bốn, năm lần vào những lúc thuận tiện và kín đáo trong sân của ông nội, ta ngồi trên lòng Boon, cầm tay lái và bẻ lái trong khi ông cài số nhỏ để chiếc ô tô di chuyển từ từ qua sân. Vì thế ta đã sẵn sàng đấu với ông. Ta đã en garde1 và thậm chí đã bắt đầu phản công, mở miệng nói Hôm nay quá nóng để ngồi trên người người khác. Vả lại mình nên về nhà khi ta thấy ông vừa nói vừa ra khỏi xe bên phía ông, rồi đứng đó, một tay trên bánh lái và máy vẫn nổ. Một hay hai giây sau ta vẫn chưa thể tin. “Nhanh lên”, ông nói. “Callie sắp bế em bé rồi chạy ra đường hét lên bây giờ.”
1 Một câu cảnh báo bằng tiếng Pháp nghĩa là “Thủ thế đi!”. (BV)
Vì thế ta luồn dưới tay lái, và Boon bên cạnh, phủ lên ta, chồm qua ta, một tay trên tay ta để sang số, tay kia trên tay ta để điều khiển tốc độ, chúng ta chạy tới lui khắp khu đất trống bỏ hoang rực nắng ấy, tiến tới một lúc, lùi lại một lúc, chăm chú, quên giờ giấc, Boon cũng như ta, đắm chìm, mê mẩn, giữ cho ta đi vững (thấy chưa, ông ấy đặt hết vốn liếng), ra ngoài thời gian, vượt thời gian, bất chấp thời gian tới khi đồng hồ tòa án cách đó nửa dặm điểm đúng ngọ thức tỉnh chúng ta, ném chúng ta ngược về thế giới bịp bợm dối trá đang nghiệt ngã đe dọa.
“Được rồi”, Boon nói, “nhanh lên”, thậm chí không đợi mà nhấc bổng ta qua người ông trong khi ông len dưới tay lái, chiếc xe đã vội vàng băng ngược cánh đồng về nhà, bây giờ chúng ta nói với nhau như người lớn, đồng lõa phạm tội, dĩ nhiên cùng liên kết, nhưng chưa cùng mức độ trưởng thành vì sự ngây thơ của ta. Ta đã định nói Cháu làm gì bây giờ? Ông phải bảo cháu, nhưng Boon lại nói trước và làm chúng ta ngang hàng: “Cậu nghĩ làm thế nào? Mình không có nhiều thời gian”.
“Thôi được”, ta nói. “Cứ đi. Về nhà trước khi dì Callie kêu ré…” Cho nên cháu đã hiểu “đức hạnh” mà ta nói là nghĩa gì chưa? Ta đã nghe ‐ hay dù sao sẽ nghe ‐ thiên hạ nói về các thời đại xấu xa hay thế hệ xấu xa. Làm gì có chuyện đó. Không có thời đại lịch sử hay thế hệ con người nào đã, hoặc đang, hoặc sẽ đủ lớn để ngăn cản tính phi đức hạnh một giây một khắc nào, cũng như họ không thể che phủ toàn bộ không gian một giây một khắc nào. Họ chỉ có thể hy vọng bị vấy nhơ càng ít càng tốt trong đời họ. Vì đáng tiếc là đức hạnh không ‐ có lẽ là không thể ‐ tự lo cho nó như phi đức hạnh. Chắc chắn nó không thể. Kẻ cống hiến cho đức hạnh chỉ được nhận phần thưởng là đức hạnh lạnh lùng không mùi không vị, so với phần thưởng sáng ngời của không chỉ tội lỗi và thú vui mà còn của những kỹ năng đặc biệt đáng chú ý ‐ khả năng phát minh và trí tưởng tượng vô địch lạ thường ‐ qua đó ngay cả những bước chập chững của tuổi thơ ấu cũng sẽ được hướng dẫn một cách vững chắc vào đường hoan lạc. Ồ phải, vì ta đã trưởng thành một cách đáng sợ từ lúc tiếng chuông đồng hồ gõ hai phút trước. Ta nhận thấy, trừ vài trường hợp lẻ tẻ có thể gọi là trưởng thành quá vội vã một cách xấu xa, trẻ con, như thi sĩ, sẽ nói dối cho vui hơn là để kiếm lợi. Chí ít lúc ấy ta đã nghĩ như thế, với vài ngoại lệ có thể bỏ qua, như là để tự vệ chống lại kẻ (bố mẹ ta) lớn hơn và khoẻ hơn mình. Nhưng hết rồi. Hay dù sao, bây giờ đã hết. Ta sa ngã như Boon và với bước kế tiếp lại càng đáng khiển trách hơn. Vì (ta nhận thấy, không, ta biết, rõ ràng: chính Boon đã thừa nhận nhiều lần) ta thông minh hơn Boon. Ta nhận thấy, bất chợt cảm thấy cũng trong khoảnh khắc mê sảng hớn hở ấy, như Faustus2 đã phải trải qua rằng: giữa chúng ta, hai kẻ sa xuống địa ngục và không có lối quay lại thì ta là kẻ chỉ huy, là sếp, là chủ.
2 Một nhân vật trong truyện cổ tích Đức, còn gọi là Faust, chịu bán linh hồn cho quỷ để đổi lấy kiến thức. (ND)
Dì Callie đã đứng trên hiên trước, vừa bế Alexander vừa kêu réo.
“Thôi nào”, ta nói, “Bữa ăn đã dọn chưa? Xe bị hỏng. Boon sửa nó. Bọn cháu không kịp thời giờ mua xăng, bây giờ cháu phải ăn vội rồi quay lại giúp ông ấy đổ đầy bình xăng”. Ta vào phòng ăn. Bữa ăn đã dọn trên bàn. Lessep và Maury đang ăn. Dì Callie đã thay quần áo cho chúng (dì mặc cho chúng quần áo cho chuyến đi mười bảy dặm tới nhà anh Zack để ở bốn ngày mà như thể chúng sắp đi Memphis; ta không biết tại sao, trừ phi vì dì chẳng có việc gì làm từ lúc bố mẹ ra đi tới lúc ăn. Vì Maury và Alexander đều phải ngủ trước khi chúng ta đi) nhưng nhìn vạt trước bộ áo cánh của Maury thì có vẻ dì sẽ lại phải tắm và thay quần áo cho nó.
Dù vậy, ta ăn xong trước tụi nó và lại đi (dì Callie vẫn kêu réo, tất nhiên không ầm ĩ trong nhà. Nhưng dì làm sao được, một mình ‐ một bà da đen ‐ chống lại phi đức hạnh à?) băng qua đường tới nhà ông nội. Ned chắc đã ra thị trấn ngay sau khi chiếc ô tô lái đi nhưng chắc ông ấy sẽ về ăn. Ông ấy đã về. Bọn ta đứng trong sân sau. Ông ấy nháy mắt với ta. Mắt ông thường đỏ hoe, thật ra là gần như luôn luôn đỏ như mắt con cáo. “Tại sao cậu không định ở lại ngoài đó?”, ông nói.
“Cháu hứa với vài đứa bạn là ngày mai tụi cháu sẽ lẻn đi thử một chỗ câu cá mới mà một trong mấy đứa tụi nó biết.”
Ned nháy mắt với ta. “Thế cậu định ra McCaslin với Boon Hogganbeck rồi vòng lại ngay với ổng. Chỉ là cậu phải có gì đó mà nói với cô Louisa để cô ấy cho cậu quay lại, vì vậy cậu cần tôi nói trước cho cậu.”
“Không”, ta nói. “Cháu chả có gì cần nhờ ông. Cháu chỉ nói cho ông biết cháu ở đâu để họ khỏi trách ông. Cháu cũng chẳng muốn phiền ông. Cháu sẽ ở với anh Ike.” Trước khi cả bọn tới, ta muốn nói là mấy đứa em ta, khi bố mẹ về khuya và ông bà nội cũng đi vắng thì ta thường ở với Ned và Delphine. Đôi khi ta ngủ qua đêm ở nhà họ, chỉ cho vui. Bây giờ ta có thể làm như vậy, nếu được việc. Nhưng anh Ike sống một mình trong căn phòng đơn độc trên cửa hiệu bán đồ gia dụng của anh. Ngay cả nếu Ned (hay ai khác quan tâm) hỏi thẳng anh rằng ta có ở với anh tối thứ Bảy hay không thì khi ấy ít nhất đã là thứ Hai, và ta đã quyết định nhanh chóng cũng như dứt khoát là sẽ không nghĩ tới thứ Hai. Thấy chưa, phải chi con người ta đừng nhanh chóng và dứt khoát từ chối nghĩ về thứ Hai tuần sau thì đức hạnh sẽ không gặp phải những lúc khó khăn và bạc bẽo như thế.
“Tôi hiểu”, Ned nói, “Cậu chẳng cần nhờ tôi gì cả. Cậu thật tốt bụng tránh cho tôi khỏi phiền phức lo lắng về cậu. Tránh cho mọi người khỏi phiền phức lo lắng muốn biết tại sao cậu không ở đằng McCaslin như tía cậu bảo cậu”. Ông nháy mắt với ta. “Hà hà hà”, ông cười.
“Thôi được”, ta nói. “Nói với bố là cháu đi câu hôm Chủ nhật trong lúc bố mẹ đi vắng. Cháu cóc cần.”
“Tôi chẳng việc gì phải kể với ai về cậu”, ông nói. “Cậu chẳng liên can gì tới việc của tôi. Cậu là việc của Callie cho tới khi má cậu về. Trừ phi cậu chuyển qua thành việc của ông Ike tối nay như cậu nói.” Ông nháy mắt với ta, “Khi nào Boon Hogganbeck tới đón cậu?”.
“Sắp tới”, ta nói. “Ông nên tránh đừng để bố với Sếp nghe ông gọi ông ấy là Boon Hogganbeck.”
“Tôi gọi ổng là ’ông’ nhiều lần vì ổng có quyền được gọi như vậy,” Ned nói, “Chưa kể có xứng hay không.” Ông cười, “Ha ha ha”.
Thấy chưa? Ta đã cố hết sức. Vấn đề là ta phải dùng bảo bối nào. Sự ngây thơ hay vô tri: chẳng những ta không có sức mạnh và kiến thức mà thậm chí ta không đủ thời giờ. Khi số phận, thần thánh ‐ thôi được, là phi đức hạnh ‐ cho ta cơ hội thì ít ra nó nên cho ta chỗ để xoay trở. Dù sao thứ Bảy cũng dễ tìm anh Ike. “Ừ,” anh nói, “Tới ở đây với anh tối nay. Có thể ngày mai mình đi câu ‐ miễn là đừng nói với bố em”.
“Không thưa anh”, ta nói. “Tối nay sẽ không ở với anh. Em sẽ ở với Ned và Delphine như mọi lần. Em chỉ muốn cho anh biết vì mẹ không có đây để em bảo mẹ. Em muốn nói là xin phép mẹ”. Thấy chưa: làm hết sức mình với cái ta có, cái ta biết. Không phải ta mất niềm tin vào thành công tối hậu: Đối với ta đơn giản là phi đức hạnh đang phí công thử thách ta vào cái lúc thời gian gấp rút và cần phải liều lĩnh để có những kết quả tốt hơn. Ta về lại nhà, không chạy, Jefferson không nên thấy ta chạy, nhưng nhanh hết sức. Thấy chưa, ta không dám để Boon một mình dưới bàn tay dì Callie.
Ta về kịp lúc. Thật ra, Boon và chiếc ô tô về trễ. Thậm chí dì Callie đã thay xong quần áo cho Maury và Alexander, nếu chúng đã ngủ một giấc sau bữa ăn thì đó là giấc ngủ ngắn nhất, nhanh nhất theo kỷ lục trong nhà chúng ta. Ned cũng ở đó, ông chẳng có việc gì ở đây. Không, không đúng. Ta muốn nói, sự hiện diện của ông hoàn toàn sai, không phải ở nhà ta, nơi ông thường có mặt, mà là ông nên ở bất kỳ nơi nào có thể làm điều gì hữu ích khi ông nội và bà nội đi xa. Vì ông đang mang hành lý ra ‐ giỏ mây đựng tã và các món linh tinh khác của Alexander, túi hành lý đựng quần áo dùng cho bốn ngày của ta, Lessep và Maury, tay nải của dì Callie, chất đống vô trật tự ở cổng, ông bảo dì Callie: “Cô cứ ngồi xuống nghỉ chân. Boon Hogganbeck đã làm hỏng cái thứ ấy và đang ở đâu đó cố sửa nó. Nếu thật sự cô muốn tới McCaslin trước giờ ăn tối thì điện thoại cho ông Ballott ở chuồng ngựa để bảo Son Thomas đưa xe ngựa tới rồi tôi sẽ chở cô ra đó giống như người bình thường khác”.
Một lúc sau có vẻ như Ned nói đúng. Một rưỡi (lẽ ra là giờ ngủ của Alexander và Maury) vẫn chưa thấy Boon, rồi thêm nửa giờ, Maury và Alexander lẽ ra đã có thể ngủ nữa, lúc này Ned nói, “Tôi đã bảo cô rồi”, nhiều lần tới nỗi dì Callie không kêu réo Boon nữa mà réo Ned tới khi ông bỏ ra đi ngồi trong lùm nho. Boon lái về đúng lúc dì định bảo ta đi tìm Boon và chiếc ô tô. Khi thấy ông, ta hoảng vía. Ông đã thay quần áo. Ta muốn nói ông đã cạo râu và không chỉ mặc sơ mi trắng mà còn sạch, có cổ cồn và cà vạt, khi ông ra khỏi xe để đưa bọn ta lên, rõ ràng ông khoác áo vét trên cánh tay và vật đầu tiên dì Callie thấy lúc tới gần xe là túi hành lý của ông trên sàn. Ta kinh hoảng, nhưng cũng tức giận (không phải vì Boon, ta vỡ lẽ, hiểu ra ngay lập tức) vì chính mình, lẽ ra ta phải biết, phải đoán được, cả đời ta đã biết (bây giờ ta cũng hiểu ra điều này) rằng kẻ nào liên hệ với Boon sẽ liên hệ với một đứa con nít và không những phải đối phó mà còn phải đoán được tính đồng bóng bất khả tiên đoán của nó, không những tính rồ dại ngu ngốc thô thiển nhất của Boon, mà cả nỗi xấu hổ của ta vì không tiên liệu, không nghĩ được là ông ngu ngốc, chẳng hạn, thét lên với bất kỳ kẻ nào bị mình kết tội trong lúc khủng hoảng này Mày không thấy tao mới mười một tuổi à? Làm sao mày có thể trông mong tao, một đứa mới mười một tuổi, làm hết mọi việc? Mày không thấy mày đặt tao vào hoàn cảnh quá sức đối phó của tao à? Nhưng ngay sau giây khắc ấy, ta tức cả Boon: không chỉ vì sự ngu xuẩn của ông giờ đây đã làm hỏng nốt chuyến du lịch bằng xe của chúng ta tới Memphis (đúng, nơi đến Memphis của bọn ta chưa hề được nói tới với ai, hay giữa Boon và ta. Tại sao phải nói? Bọn ta còn đi chỗ nào nữa? Thật vậy, dân miền bắc Mississippi còn muốn đi chỗ nào khác? Một cụ già hết hơi đang hấp hối trên giường có thể suy ngẫm hay sợ hãi một nơi đến xa xôi, nhưng họ không phải là Boon và ta). Thật ra, lúc này ta ước ao mình chưa bao giờ nghe tới Memphis hay Boon hay ô tô. Giờ đây ta cùng phe với Đại tá Sartoris, thủ tiêu ông Buffaloe với mơ mộng của ông ấy khỏi mặt đất ngay lúc nó mới thành hình. Ta tức Boon vì bằng một hành động ngây ngô như cú đá quàng xiên của trẻ con, ông đã phá hủy, vạch trần sự kém cỏi liều lĩnh và rồ dại trong lời nói dối, lời hứa hão và thề suông của ta, tiết lộ điều giả dối bấp bênh mà ta đã đánh đổi ‐ không, bán cho quỷ ‐ linh hồn mình, hay có thể vì đã phơi bày sự hèn mọn yếu kém của linh hồn mà ta đã hão huyền mơ tưởng quỷ sứ sẽ mua: giống như rách màng trinh vì một rủi ro lơ đãng khốn nạn nào đó chẳng hạn như bước đi mà không nhìn, ngây thơ ngay cả với thú vui, chưa kể với tội lỗi. Rồi ngay cả nỗi tức giận cũng qua đi. Chẳng còn lại gì, chẳng còn gì. Ta không muốn đi đâu nữa. Ta muốn nói ta không muốn hiện diện ở đâu nữa. Nếu ta buộc phải là gì đó, ta muốn nó đã là. Ta nói, và ta tin (ta biết ta tin vì sau đó ta đã nói hàng ngàn lần mà vẫn tin, ta hy vọng sẽ nói hàng ngàn lần nữa trong đời mình, và ta thách ai nói là ta không tin) Tôi sẽ không bao giờ nói dối nữa. Dối trá gây quá nhiều rắc rối. Như cố gắng dựng đứng sợi lông chim trong cái đĩa nông đựng cát. Nó sẽ không bao giờ xong. Bạn sẽ không bao giờ yên. Bạn sẽ không bao giờ hoàn thành. Thậm chí bạn sẽ không bao giờ dùng hết cát để có thể ngưng cố gắng.
Nhưng chẳng xảy ra việc gì. Boon ra khỏi xe, không mang theo áo vét. Ned đã mang hành lý, giỏ mây và tay nải của bọn ta vào xe. Ông cười tinh quái: “Hê hê hê”. Ông nói, “Nào, lên đường để ông còn có thể kịp sửa xe khi nó hỏng rồi trở về thị trấn trước khi trời tối”. Ông nói với Boon như thế. Ông nói, “Ông về lại thị trấn trước khi ông đi chứ?”.
Khi ấy Boon nói: “Đi đâu?”.
“Đi ăn tối”, Ned nói. “Một người đầu óc bình thường còn đi đâu lúc mặt trời lặn?”
“Ồ”, Boon nói. “Anh lo bữa ăn tối của anh. Anh chỉ
phải lo bữa ăn đó thôi.”
Chúng ta vào xe rồi lên đường, ta ngồi phía trước với Boon, cả đám còn lại ở phía sau. Chúng ta băng qua quảng trường đông đúc chiều thứ Bảy rồi ra khỏi thị trấn. Nhưng chúng ta vẫn còn đấy. Ta muốn nói là chúng ta không đi đâu xa. Chẳng mấy chốc chúng ta sẽ tới ngã rẽ qua nhà anh Zack, và chúng ta thậm chí sẽ đi sai hướng. Và dù đúng hướng thì chúng ta vẫn chưa thoát, khi còn dì Callie, Lessep, Maury và Alexander trên ghế sau thì chúng ta chỉ thoát khỏi Ned, không ai trên trần gian biết ông đang ở đâu, lúc nãy ông nói “Hê hê hê” và ông về lại thị trấn trước chứ. Boon không một lần nhìn ta, ta cũng không nhìn ông. Ông cũng không nói chuyện với ta, chắc ông đã cảm thấy sợ ta vì cái áo sơ mi sạch, cổ cồn và cà vạt của ông, lại còn cạo râu vào giữa trưa cùng toàn bộ hơi hướm tỏa mùi du lịch, lên đường, từ giã, chia tay; ông cảm thấy ta không chỉ hoảng sợ mà còn tức giận vì ta đã hoảng sợ. Tiếp tục lái, con đường dưới nắng trưa trải dài mười bảy dặm phía trước, trong khi đó phải quyết định, phải thỏa thuận, băng qua vùng đất tháng Năm tươi sáng, bụi xe bọn ta tung lên và cuộn tròn phía sau trừ
khi phải chậm lại để qua cầu hay gặp một dải cát bắt phải chạy số nhỏ. Mười bảy dặm sẽ không kéo dài mãi mãi dù nhân thêm mười bảy lần nữa, những cột cây số biến mất quá nhanh, lúc này phải làm một điều gì đó, thời điểm phải quyết định càng lúc càng vội và càng lúc càng gần mà ta vẫn chưa biết làm gì, hay có thể chỉ cần nói gì đó, một âm thanh, tiếng động, một tiếng người, bởi vì bất kể sự mất mát nào phi đức hạnh thít vào cháu sau đó thì sự cô đơn, hiu quạnh và lặng lẽ sẽ là một phần của nó. Nhưng ít ra Boon đã cố. Hay có thể với ông nó cũng là sự im lặng, và bất kỳ sự không im lặng nào cũng vẫn hơn, dù cho sự ngu xuẩn suýt làm tiêu tùng mới xảy ra không lâu. Không, hơn thế nữa, chúng ta giờ đây chỉ còn chưa tới nửa đường và phải làm điều gì đó, khởi sự, châm ngòi:
“Bây giờ đường sá tốt thật, khắp nơi, ngay cả ngoài quận hạt Yoknapatawpha. Người ta không thể đòi hỏi đường sá tốt hơn để đi xa như đi dự đám tang bằng ô tô hay đi đâu đó như bây giờ. Đoán xem chiếc xe này có thể đi bao xa từ bây giờ tới lúc mặt trời lặn?” Thấy chưa? Nói bâng quơ như kẻ chết đuối vươn bàn tay tuyệt vọng lên mặt nước và hy vọng có cọng rơm ở đó. Ông chẳng tìm thấy gì.
“Tôi không biết”, dì Callie vừa nói từ ghế sau vừa bế Alexander, nó đã ngủ từ khi bọn ta ra khỏi thị trấn và thật không xứng đáng được ngồi trên xe đi một dặm, nói gì mười bảy dặm. “Ông cũng sẽ không biết, trừ phi tối nay ông tìm hiểu bằng cách ngồi trên ghế trước rồi khóa lại trong cái chòi ở sân sau của Sếp.”
Giờ thì chúng ta sắp tới nơi. “Thế cậu muốn…”, Boon nói bên khoé miệng, vừa đủ lớn để ta nghe, nhắm đúng vào tai phải của ta như khẩu súng hay mũi tên hay có lẽ một nắm cát ném vào cửa sổ đóng.
“Im đi”, ta nói, y như ông. Cách hèn nhát và giản dị là bảo ông lập tức ngừng lại và khi ông ngừng, ta nhảy ra khỏi xe, bỏ chạy, cho dì Callie hai giải pháp chớp nhoáng, hoặc bỏ Alexander cho Boon rồi cố bắt kịp ta trong bụi rậm, hoặc vừa bế Alexander vừa kêu réo đuổi theo ta. Ý ta là để Boon tiếp tục lái đưa họ về nhà rồi ta từ vệ đường phóng ra, nhảy lên xe khi ông chạy ngang để về thị trấn hay bất kỳ hướng nào cách xa những người sẽ nhớ ta và có quyền đối với ta. Cách này hèn nhát, tại sao ta không làm thế, một kẻ nói láo thảm bại đã bị sự dối trá nguyền rủa; tại sao ta không làm đến nơi đến chốn và là kẻ hèn nhát, không chốn quay về và hết thuốc chữa như Faustus? Hào nhoáng trong sự thấp hèn khiến cho, buộc ông chủ mới của ta kính trọng vì ta không bỏ cuộc, dù ông khinh rẻ tầm vóc ta? Nhưng ta đã không làm. Nó sẽ không đạt kết quả, dù sao một trong hai chúng ta phải thực tế. Giả dụ Boon và ta sẽ cao chạy xa bay trước khi chị Louisa có thể cử người ra ruộng tìm anh Zack lúc ba giờ chiều trong mùa trồng cấy, và giả dụ anh Zack không thể phi ngựa bắt kịp chúng ta, anh sẽ chẳng buồn làm: Anh sẽ cưỡi ngựa vào thẳng thị trấn, rồi sau khi gặp Ned và anh Ike mỗi người một phút, anh sẽ biết rõ phải làm gì và sẽ làm, dùng điện thoại và cảnh sát.
Chúng ta đến nơi. Ta ra khỏi xe và mở cổng (cũng mấy cây cột thời cụ Lucius Quintus Carothers, anh họ Carothers của cháu bây giờ đào một hố nông gác chấn song lên đó để ô tô có thể qua nhưng móng bò không bước lên được) rồi chúng ta lái lên đoạn đường cây bồ kết vào nhà (nó vẫn còn đó, nhà gỗ súc hai phòng, bùn nứt nẻ, nửa nhà ở, nửa pháo đài. Hồi 1813 cụ Lucius đến cùng đám nô lệ và bầy chó săn từ Caroline băng qua rặng núi rồi xây nó, nó vẫn còn đâu đó, nép dưới vách gỗ với kiểu dáng Hy Lạp và phù điêu trang trí tàu hơi nước mà mấy bà con dâu nhà Edmonds sau này thêm vào).
Bà chị họ Louisa và mọi người ở đó đã nghe tiếng lúc chúng ta đến gần và (chắc chỉ trừ những người mà anh Zack, trên lưng ngựa, không nhìn thấy) tất cả đều đứng trên hành lang, bậc thang và sân phía trước khi chúng ta lái lên rồi ngừng lại.
“Nào”, Boon lại nói bằng khoé miệng, “cậu có muốn không.” Vì như bây giờ các cháu nói: vậy đó; không còn thời giờ, nói gì tới kín đáo, để gợi ý xa xôi ‐ bất kỳ gợi ý nào ‐ về việc mà lúc này ông phải liều để biết. Vì bọn ta ‐ ông ấy và ta ‐ chưa làm việc này bao giờ, thấy không. Chúng ta còn kém hơn bọn nghiệp dư: ngây thơ, hoàn toàn ngây thơ trong việc ăn trộm ô tô, dù cả hai chúng ta đều không gọi nó là ăn trộm vì chúng ta dự tính sẽ trả nó về nguyên vẹn. Kể cả nếu thiên hạ, thế giới (tức là Jefferson) để bọn ta yên, không thèm nhớ tới. Ngay cả nếu ta có thể trả lời nếu ông ấy hỏi. Vì đối với ta còn tệ hơn đối với ông ấy; cả hai chúng ta đều liều nhưng sự liều lĩnh của ta thúc bách hơn vì ta phải hành động nhanh, trong tích tắc, trong khi ông ấy chỉ phải ngồi trong xe, cùng lắm là cầu nguyện. Ta không biết làm gì bây giờ, ta đã nói dối nhiều hơn ta nghĩ mình có thể và đã kiên trì làm chúng đáng tin và được chấp nhận và chúng khiến ta mê muội nếu không nói là kinh hoảng. Ta như ở vị thế một cụ già da đen nói, “Con đây, thưa Chúa. Nếu Ngài muốn cứu con, trước mặt Ngài đang có cơ hội rất tốt”. Ta đã ném lao, Boon cũng thế. Nếu phi đức hạnh vẫn muốn một trong hai chúng ta thì bây giờ là lúc nó ra tay.
Và nó ra tay. Nó ăn mặc như ông anh họ Zachary Edmonds. Khi ấy anh tiến ra cửa trước và đúng lúc ấy ta thấy một anh da đen trong sân đang cầm cương ngựa của anh. Thấy ta muốn nói gì không? Zachary Edmonds, một người không bao giờ thấy mặt ở Jefferson vào ngày trong tuần từ đợt cày vỡ đất đầu tiên trong tháng Ba cho tới lúc trồng cấy cuối cùng vào tháng Bảy, lại có mặt trong thị trấn sáng nay (vì chuyện khẩn cấp về cái máy xay) và đã tạt qua cửa hiệu của anh Ike chỉ mấy phút sau khi ta ghé qua, hoàn toàn khớp và đúng lúc. Phi đức hạnh ngoài việc yêu cầu Boon cạo râu thay áo, còn cho anh Zack đủ thời giờ cưỡi ngựa về nhà và xuống ngựa ở ngưỡng cửa nhà anh khi nghe thấy bọn ta đến. Anh nói ‐ với ta: “Em làm gì ngoài này? Ike bảo anh là tối nay em ở lại thị trấn rồi ngày mai anh ấy đưa em đi câu”.
Vì thế dĩ nhiên dì Callie bắt đầu la lối nên ta khỏi cần nói, ngay cả nếu ta có gì để nói. “Đi câu?”, dì rú lên. “Vào Chủ nhật? Nếu tía cậu ấy nghe được thì ổng nhảy ra khỏi xe lửa ngay giây phút này khỏi cần đợi điện tín! Cả má cậu ấy nữa! Cô Alison không nói cậu ấy ở lại phố với ông Ike hay ai khác! Bả bảo cậu ấy ra ngoài này với tôi và mấy đứa nhỏ này và nếu cậu ấy không ngoan thì ông Zack sẽ dạy dỗ cho cậu ấy biết!”
“Thôi được, thôi được”, anh Zack nói. “Đừng la lối nữa, tôi không nghe được cậu ấy nói. Có thể cậu ấy đã đổi ý. Phải không em?”
“Sao ạ?”, ta nói. “Không thưa anh. Em muốn nói, vâng thưa anh.”
“Nào nào, làm sao? Em ở lại ngoài này, hay em sẽ về với Boon?”
“Vâng thưa anh”, ta nói. “Em sẽ về. Anh Ike bảo em xin phép anh nếu được.” Dì Callie lại kêu réo (thật ra dì la lối không ngừng, có lẽ chỉ trừ lúc hít một hơi dài khi anh Zack bảo dì im) nhưng cũng chỉ có thế, dì vẫn la lối và anh Zack thì nói:
“Thôi, thôi, thôi. Tai tôi không chịu nổi. Nếu ngày mai Ike không đưa cậu ấy ra thì thứ Hai tôi sẽ cho người tìm cậu ấy.” Ta quay lại xe, Boon đã cho máy nổ.
“Ái chà, tôi sợ mất vía”, ông nói không lớn nhưng hoàn toàn kính trọng, thậm chí hơi hoảng.
“Nào”, ta nói. “Lượn khỏi chỗ này.” Bọn ta lên đường, êm nhưng nhanh, rồi nhanh hơn, lùi xuống lối ra cổng.
“Có lẽ mình đang phí phạm nếu chỉ dùng nó để làm một chuyến đi chơi bằng ô tô”, ông nói, “Có lẽ tôi nên dùng cậu vào một việc gì đó dính dáng tới tiền”.
“Cứ đi đi đã”, ta nói. Vì làm sao ta có thể bảo ông, làm sao nói với ông? Cháu buồn nôn và mệt vì nói dối, vì phải nói dối. Vì ta biết, giờ đây ta hiểu rằng đó chỉ mới là bắt đầu, nó sẽ không chấm dứt, không những ta sẽ phải tiếp tục nói láo chỉ để bảo vệ những dối trá đã nói, mà ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi những lời dối trá cũ mòn ta đã dùng đến cạn kiệt.
Bọn ta trở lại thị trấn. Lần này phóng rất nhanh, nếu bây giờ có phong cảnh thì không ai trong chiếc ô tô đoái hoài tới nó. Lúc này sắp năm giờ. Boon nói, căng thẳng và khẩn trương, nhưng khá bình tĩnh: “Mình phải để êm lại một lát. Họ thấy tôi lái xe khỏi thị trấn đưa các cậu tới McCaslin, họ sẽ thấy tôi quay lại chỉ có cậu và tôi, họ sẽ nghĩ tôi cất xe vào nhà để xe của Sếp. Khi đó họ phải thấy tôi và cậu đi loanh quanh, tuy riêng rẽ, như chẳng có chuyện gì”. Nhưng ta biết nói sao bây giờ? Không. Mình đi ngay bây giờ. Nếu cháu phải nói dối nữa thì thà là nói dối với người lạ. Ông vẫn đang nói: “… chiếc xe. Hắn nói gì về việc mình quay lại thị trấn trước khi mình đi?”.
“Cái gì? Ai nói?”
“Ned. Lúc nãy trước khi mình rời phố.”
“Cháu không nhớ,” ta nói. “Còn chiếc xe làm sao?” “Để nó ở đâu. Trong lúc tôi lang thang một vòng
quảng trường thì cậu về nhà lấy một bộ áo mới hay những thứ cậu cần. Tôi đã phải bỏ hết hành lý xuống đằng McCaslin, nhớ không. Cả hành lý của cậu nữa. Tôi muốn nói nhỡ có kẻ lắm chuyện xía vào”, cả hai người bọn ta đều biết ông muốn nói tới ai.
“Tại sao ông không khóa nó trong nhà để xe?”
“Tôi không có chìa”, ông nói. “Tôi chỉ có ổ khóa. Sếp lấy chìa của tôi sáng nay để mở ổ khóa rồi đưa chìa cho ông Ballott giữ tới khi ổng về. Đúng ra tôi phải đưa xe vào ngay sau khi tôi từ McCaslin về rồi khóa ổ khóa, và Sếp sẽ đánh điện tín cho ông Ballott biết chuyến xe lửa nào để mở khóa cửa cho tôi lấy xe đi đón họ.”
“Vậy thì mình phải liều thôi”, ta nói.
“Ừ, mình sẽ phải liều. Có thể khi Sếp và cô Sarah đi vắng thì ngay cả Delphine cũng không gặp lại hắn cho tới sáng thứ Hai.” Thế là bọn ta liều. Boon lái vào nhà để xe lấy túi hành lý và áo khoác nơi ông giấu trên gác xép xuống, rồi lại với tay lên lôi xuống tấm vải dầu đã gấp và để túi hành lý cùng áo khoác của ông trên ghế sau. Thùng xăng đã sẵn sàng: cái thùng hai chục lít mới tinh ông nội đã bảo ông thợ thiếc đóng thùng dụng cụ tí toáy làm lại cho tới khi kín bưng vì bà nội không thích mùi xăng, chúng ta chưa hề dùng nó vì trước kia chiếc xe chưa hề đi xa như thế, phễu và cái lọc bằng da dê nằm trong thùng dụng cụ với con đội và chìa vặn ốc thay bánh xe vốn có sẵn theo xe, rồi đèn lồng với rìu xẻng và cuộn dây kẽm với bộ ròng rọc ông nội đã thêm vào, cùng với xô thiếc để châm nước bình giải nhiệt khi chúng ta băng qua lạch hay hầm hố. Ông để cái thùng (đầy, có lẽ vì thế ông đến đón bọn ta trễ) phía sau rồi mở tấm vải dầu, không trải nó ra mà giũ ra phía sau tới khi che kín mọi thứ để trông nom như một đống vải dầu rối tung. “Mình sẽ nhét hành lý của cậu bên dưới giống như vậy”, ông nói. “Rồi nó sẽ giống một cục vải dầu mà đứa lười biếng không gấp lại. Cậu nên về nhà lấy áo sạch rồi tới đây đợi ngay. Tôi sẽ đi không lâu: chỉ lang thang một vòng quảng trường để nhỡ Ike cũng muốn hỏi. Rồi sau đó mình dông.”
Bọn ta đóng cửa. Boon đã cài ổ khóa vào móc. “Đừng”, ta nói, thậm chí không nói lý do, ta đã tiến quá nhanh trên con đường tội lỗi. “Bỏ nó vào túi ông.”
Nhưng ông ấy biết tại sao, ông bảo ta: “Cậu đúng lắm”, ông nói. “Mình đã vất vả quá chừng, đừng để ai nhỡ đi ngang qua bấm khóa lại vì họ nghĩ tôi quên.”
Ta về nhà. Nhà ngay bên kia đường. Bây giờ ở đó có trạm xăng và nhà ông nội bây giờ ngăn thành nhiều căn chung cư, người thuê tạm bợ. Nhà trống rỗng, tất nhiên không khóa, vì ở Jefferson thuở chất phác ấy chẳng ai khóa cửa nhà. Mới sau năm giờ, còn lâu mặt trời mới lặn, nhưng ngày đã hết, đã tàn. Căn nhà trống lặng lẽ, không hoang vắng nhưng đầy sự hiện diện và ta chợt cần mẹ. Ta không muốn chuyện này nữa, không muốn tự tiện nữa; ta muốn quay lại, từ bỏ để được bảo vệ, không phải quyết định và tính toán đứa con nuôi sinh đôi nào phải lấy cắp chiếc ô tô. Nhưng bây giờ đã quá muộn, ta đã quyết định, đã lựa chọn, nếu ta đã bán linh hồn cho Satan để lấy một món xúp hổ lốn thì ít nhất ta cũng nên nhận lấy món xúp và ăn nó. Chẳng phải chính Boon đã nhắc ta, gần như ông đã tiên liệu khoảnh khắc yếu lòng dao động này trong căn nhà trống và đã báo trước cho ta: “Mình đã vất vả quá chừng, bây giờ đừng để ai ngăn cản mình”.
Quần áo của ta ‐ áo quần sạch, vớ dài, bàn chải răng ‐ bây giờ ở đằng McCaslin. Dĩ nhiên ta còn bộ khác trong ngăn kéo, trừ bàn chải răng, một thứ rất có thể dì Callie cũng như chị Louisa không nhớ khi mẹ vắng mặt. Nhưng ta không lấy quần áo, không lấy món nào. Không phải ta quên mà có lẽ vì ta chưa bao giờ có ý định. Ta chỉ vào nhà, đứng sau cửa đủ lâu để tự chứng minh rằng giữa Boon và ta thì ta sẽ không phải là kẻ làm bọn ta thất bại, rồi trở lại bên kia đường, băng qua sân sau nhà ông nội vào mảnh đất. Boon cũng không phải là kẻ làm bọn ta thất bại, ta đã nghe tiếng máy chạy êm trước khi tới nhà để xe. Boon đã ngồi sau tay lái, ta nghĩ chiếc ô tô đã sang số. “Áo sạch của cậu đâu?”, ông nói. “Thôi khỏi. Tôi sẽ mua cho cậu ở Memphis. Nào. Bây giờ mình đi được rồi.” Ông lùi xe ra. Ổ khóa một lần nữa cài trong móc. “Nào”, ông nói. “Khỏi ngừng lại bấm khóa. Bây giờ muộn lắm rồi.”
“Không”, ta nói. Khi ấy ta cũng không nói được tại sao: Chiếc ô tô sẽ có vẻ đang an toàn bên trong nếu ổ khóa đã bấm qua móc bản lề cánh cửa đóng. Và như thế, toàn bộ sự việc không hơn một giấc mơ khi ta thức dậy vào ngày mai, hoặc có lẽ là ngay bây giờ, ngay sau đây, và được cứu vãn, an toàn. Vì thế ta đóng cửa và bấm khóa, mở cổng sân cho Boon lái ra rồi đóng nó lại và lên xe, chiếc xe đã di chuyển ‐ nếu thật sự nó đã từng ngừng lại. “Nếu dùng lối sau thì mình có thể tránh đi qua quảng trường”, ta nói. Và ông lại nói:
“Bây giờ muộn lắm rồi. Hiện tại họ chỉ có thể kêu réo thôi.” Nhưng chẳng ai kêu réo. Nhưng ngay cả khi qua khỏi quảng trường vẫn chưa quá muộn. Quyết định bất khả thu hồi đó vẫn còn một dặm phía trước, nơi con đường tới McCaslin tách khỏi đường đi Memphis, nơi ta có thể nói Ngừng lại. Cho cháu xuống, và ông sẽ nghe theo. Ngoài ra ta có thể nói Cháu đổi ý. Đưa cháu về McCaslin, và ta biết ông cũng sẽ làm theo. Khi ấy ta chợt biết nếu ta nói Quay lại. Cháu sẽ lấy chìa khóa đằng ông Ballott rồi mình khóa chiếc ô tô này trong nhà để xe như Sếp nghĩ, và ông sẽ làm theo. Và hơn thế nữa, ông ấy muốn ta làm thế, lặng lẽ cầu xin ta làm như thế, cả ông ấy và ta kinh hoảng không chỉ vì sự táo bạo của ông mà vì sự đồng tình của bọn ta, sự liều lĩnh kết bè kết đảng của bọn ta và Boon biết ông không đủ sức chống lại chính ông và phải khuất phục trước sức mạnh và sự chính trực của ta. Thấy chưa? Ta đã nói gì về phi đức hạnh? Nếu sự việc ngược lại và ta lặng lẽ xin Boon quay về thì ta đã có thể trông cậy vào đức hạnh và lòng trắc ẩn của Boon, một thứ mà chính ông cũng không trông cậy.
Vì thế ta không nói gì, nhánh đường rẽ, bàn tay bất lực yếu đuối cuối cùng đưa xuống để cứu vãn ta giờ đã vút qua rồi biến mất, không thể quay lại. Ta nói Ổn rồi. Tôi đến đây. Có lẽ Boon nghe vì ta vẫn là sếp. Dù sao ông đã bỏ Jefferson lại phía sau bọn ta; Satan ít ra sẽ bảo vệ tín đồ của hắn trong một hay hai ngày sắp tới. Ông nói: “Mình chả có gì phải lo, trừ lạch Hell ngày mai. Lạch Harrykin chả đáng sợ”.
“Có ai nói lo lắng gì đâu?”, ta nói. Lạch Hurricane cách thị trấn bốn dặm, cả đời các cháu phóng qua nó nhanh tới nỗi chưa chắc đã biết tên nó. Nhưng hồi đó ai băng ngang nó đều biết. Trên lạch có cây cầu gỗ, nhưng đường tới cầu là một bãi hố bùn ngay cả vào giữa mùa hè.
“Thì tôi vừa nói với cậu”, Boon nói. “Chẳng đáng sợ. Tôi và ông Wordwin băng qua nó hồi năm ngoái mà không phải dùng bộ ròng rọc với dây cáp: chỉ có cái xẻng với cây rìu ông Wordwin mượn ở căn nhà cách đó độ nửa dặm, bây giờ cậu nhắc tôi mới nhớ chắc là ông ấy không đem trả. Có vẻ hôm sau anh chàng đó tới lấy về.”
Ông nói gần đúng. Bọn ta qua hố bùn đầu tiên và thậm chí băng qua cầu. Nhưng hố bùn kế tiếp ngăn bọn ta lại. Chiếc xe lắc lư một cái, hai cái, nghiêng, rồi bánh xe quay tại chỗ. Boon không để phí thời giờ, đã cởi giày (ta quên nói ông cũng đã đánh bóng giày) và xắn ống quần rồi bước xuống bùn. “Qua bên này”, ông nói. “Để số nhỏ rồi đạp ga khi tôi bảo cậu. Nhanh lên. Cậu biết cách mà, sáng nay cậu đã học rồi.” Ta len dưới tay lái. Ông thậm chí không ngừng lại để lấy ròng rọc và dây cáp. “Tôi chả cần. Lấy ra rồi cất vào lâu lắm, mình không có thời gian.” Ông chẳng cần đến chúng. Bên cạnh đường có hàng rào gỗ xếp so le, ông giật thanh gỗ trên cùng ra, quỳ xuống vũng bùn và nước, nêm đầu thanh gỗ dưới trục sau rồi nói, “Nào. Đổ than cho nó”, và cố bẩy nâng chiếc xe lên rồi đẩy nó tới, vừa lảo đảo vừa hổn hển dùng sức đưa nó lên lại chỗ đất khô, vừa gọi tôi: “Ngừng máy! Ngừng máy!”, ta làm theo, xoay xở làm, rồi ông tới đẩy ta ra và leo vào tay lái, thậm chí ông không ngừng lại để kéo ống quần dính bùn xuống.
Vì bây giờ mặt trời gần lặn hẳn, khi bọn ta đến Ballenbaugh để nghỉ đêm trời sẽ gần như tối mịt, lúc ấy bọn ta phóng nhanh hết mức cho phép và lát sau đi ngang nhà ông Wyott ‐ một gia đình bạn với chúng ta; bố dẫn ta săn chim ở đó hồi lễ Giáng sinh ‐ cách Jefferson tám dặm và còn cách bờ sông bốn dặm, mặt trời vừa lặn sau căn nhà. Bọn ta đi tiếp, chốc nữa sẽ có trăng vì ngọn đèn dầu phía trước của bọn ta chỉ đủ để cho người khác thấy mình đang đi tới hơn là rọi đường mình đi, khi ấy Boon bỗng nói, “Có mùi gì? Cậu à?”. Nhưng trước khi ta kịp chối thì ông đã thắng gấp xe lại, ngồi một lúc rồi quay ra sau ném đống vải dầu rối tung phía sau xe. Ned ngồi dậy trên sàn. Ông mặc bộ vét đen, đội mũ, áo sơ mi trắng, khuy áo màu vàng, không cổ áo cũng chẳng cà vạt, bộ áo ông mặc ngày Chủ nhật; thậm chí ông có cả cái va li nhỏ rách rưới cầm tay (bây giờ người ta gọi nó là cặp hay cặp táp) mà cụ Lucius McCaslin có thậm chí trước khi bố sinh ra đời. Ta không biết lúc khác ông mang gì trong đó, ta chỉ thấy trong đó có cuốn Kinh Thánh (cũng của bà cố McCaslin) mà ông không biết đọc và cái chai bẹt nửa lít có thể đựng hai thìa rượu đầy. “Thật là chết tiệt”, Boon nói.
“Tôi cũng muốn đi”, Ned nói. “Hi hi hi.”