• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bọn đạo chích
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 16
  • Sau

4

Tôi cũng có quyền đi chơi như ông và Lucius”, Ned nói. “Tôi có nhiều quyền hơn. Chiếc xe này là của Sếp và Lucius chỉ là cháu ổng, còn ông chẳng họ hàng gì với ổng hết.”

“Được rồi, được rồi”, Boon nói. “Điều tôi đang nói là, anh nằm dưới tấm vải dầu đó suốt buổi để một mình tôi xuống bùn cố sức vần nguyên cái xe này ra.”

“Dưới này cũng nóng nữa”, Ned nói. “Không biết làm sao tôi chịu nổi. Chưa kể phải giữ cho cái thùng sắt này khỏi đập bể đầu tôi mỗi lần xóc, chưa kể phải lo ngay ngáy xăng, hay là cái thứ khỉ gió gì đó mà ông gọi nó, xóc tới mức nổ tung luôn. Ông muốn tôi làm sao? Chỗ đó cách thị trấn mới bốn dặm. Ông sẽ bắt tôi đi bộ về nhà.”

“Bây giờ là mười dặm”, Boon nói. “Cái gì làm anh nghĩ là anh sẽ không phải đi bộ về nhà?”

Ta nói, nhanh, vội: “Ông quên rồi à? Nhà Wyott cách đây chừng hai dặm thì có thể mình cũng chỉ cách Bay St. Louis hai dặm thôi”.

“Đúng vậy”, Ned vui vẻ nói. “Đi bộ không xa đây lắm.” Boon không nhìn ông lâu.

“Cút ra, gấp tấm vải dầu đó lại để khỏi choán chỗ”, ông bảo Ned. “Và giũ hơi nó nữa nếu chúng ta phải đi cùng với nó.”

“Tại ông đi quá xóc”, Ned nói. “Ông nói như thể tôi làm việc xấu để bị bắt quả tang ấy.”

Boon cũng đi thắp ngọn đèn phía trước trong lúc chúng tôi ngừng, giờ đây ông chùi bàn chân và ống quyển lên góc tấm vải dầu, rồi xỏ giày vớ và kéo ống quần đã khô xuống. Lúc này mặt trời đã lặn, đã có thể thấy ánh trăng. Trời đã khuya khi bọn ta đến khu Ballenbaugh.

Ta biết khu Ballenbaugh bây giờ là trại câu cá do một ông người ý thỉnh thoảng bán rượu lậu quản lý ‐ mỗi bốn năm ngưng bán rượu một hay hai tuần để ông cảnh sát trưởng mới nhậm chức khám phá ra nguyện vọng thật sự của những người ông ta nghĩ là đã bỏ phiếu cho ông ta. Suốt dải sông ấy đã là một phần của giấc mộng quý tộc không thành của Thomas Sutpen và là khu trại săn của Thiếu tá De Spain, bây giờ là chỗ thoát nước. Khu hoang dã Boon hồi trẻ đã săn gấu, nai và báo (hay đã có mặt khi các bậc bề trên của ông ấy săn), bây giờ trồng bông vải và bắp và thậm chí giao lộ Wyott chỉ còn là cái tên.

Ngay cả hồi 1905 vẫn còn dấu vết hoang dã, dù phần lớn nai và tất cả bọn gấu, beo (cùng Thiếu tá De Spain và các bạn săn của ông) đã biến mất, cả bến phà nữa, bây giờ mình gọi giao lộ Wyott là Cầu Sắt, CÂY Cầu Sắt, vì nó là cây cầu sắt đầu tiên và duy nhất ở quận hạt Yoknapatawpha mà chúng ta có hay biết tới trong nhiều năm. Nhưng hồi xưa, thời các vị vua gốc Chickasaw của chúng ta, Issetibbeha, Moketubbe1 và kẻ giết vua để tiếm ngôi tự xưng là Doom, người đầu tiên trong dòng họ Wyott đến và dân da đỏ chỉ cho ông ta thấy chỗ giao lộ, ông mở cửa tiệm và đóng phà rồi đặt tên mình cho nó, đây không chỉ là giao lộ độc nhất trong vòng nhiều dặm mà cũng là đầu mối đường thủy, tàu bè (vào mùa đông nước cao có cả một chiếc tàu nhỏ chạy bằng hơi nước) tới đậu ngay trước cửa tiệm Wyott, mang theo rượu, lưỡi cày, dầu đốt và kẹo bạc hà từ Vicksburg lên, rồi chở đi bông gòn và lông thú.

1 Trong truyện ngắn Italic của Faulkner, Moketubbe là lãnh tụ nhóm dân da đỏ Chickasaw, con của Issetibbeha. (ND)

Nhưng Memphis gần hơn Vicksburg, ngay cả nếu đi bằng đội la, vì thế họ đắp một con đường thẳng từ Jefferson tới khúc quanh phía nam bến phà Wyott, và thẳng từ đầu mạn bắc bến phà tới Memphis. Vì thế bông gòn và hàng hóa bắt đầu đến và đi trên con đường ấy, do la hay bò kéo.

Sau đó chẳng biết từ đâu bỗng xuất hiện một gã khổng lồ không gốc tích tổ tiên tự xưng là Ballenbaugh, có người nói thật ra gã đã mua cửa tiệm kiêm chỗ ở, một căn phòng yên tĩnh vốn nhỏ tí tẹo, của Wyott và cả những thứ ông (Wyott) cho là của ông ở giao lộ Chickasaw cũ; kẻ khác nói Ballenbaugh chỉ đề nghị với Wyott rằng ông (Wyott) đã ở đó đủ lâu và đã đến lúc ông nên lùi về cách dòng sông bốn dặm để làm nông dân.

Dù thế nào đi nữa, đúng là Wyott dọn đi. Và khi ấy chỗ ẩn dật nhỏ bé giữa khu hoang dã của ông trở thành một nơi thật náo nhiệt. Nó trở thành nhà ngủ, trạm ăn nhậu và quán rượu cho bọn phu bốc vác ghé tạm, và bọn chai đá tâm hồn nhưng ác khẩu ấy thường trực ở đó đón các chuyến xe hàng ở cả hai bên bờ sông với hai, ba và bốn (khi cần) cặp la đã buộc vào gióng ngang để kéo những chiếc xe hàng nặng nề lên phà một bên sông, rồi một lần nữa kéo chúng ra khỏi phà lên khu đất cao trên bờ bên kia. Một nơi rất náo nhiệt, dù sao kẻ ló mặt ở đó là đàn ông. Nhưng chỉ có bọn đàn ông dữ dằn, không ai khác, đến khi Đại tá Sartoris (ta không nói tới ông chủ ngân hàng có tước vị Đại tá danh dự một phần nhờ thừa hưởng lại của tổ tiên và một phần nhờ quan hệ họ hàng, người chịu trách nhiệm về việc Boon và ta đang làm lúc này, người ta muốn nói tới là bố của ông ấy, một ông đại tá thật, C.S.A.2 Một người lính, quan chức, chính trị gia, kẻ thách đấu; các đời con cháu xa gần của một thanh niên hai mươi tuổi trong quận hạt Yoknapatawpha nói ông là kẻ sát nhân3) xây đường xe lửa hồi giữa thập niên bảy mươi và phá hoại nơi ấy.

2 Confederate States of America: liên minh các tiểu bang chủ trương giữ chế độ nô lệ, ly khai khỏi liên bang và gây ra cuộc nội chiến Mỹ từ 1861 đến 1865. (ND)

3 Chi tiết về cuộc đời Đại tá Bayard Sartoris II được kể trong The Unvanquished và Flags in the Dust. (ND)

Nhưng không phá chỗ của Ballenbaugh, nói gì tới Ballenbaugh. Các chuyến xe lửa chở hàng đến đuổi tàu bè khỏi dòng sông và đổi tên giao lộ Wyott thành bến phà Ballenbaugh. Xe lửa làm xe bò mất mối chở các kiện bông gòn và vì thế chiếc phà biến khỏi bến phà Ballenbaugh, nhưng chỉ thế thôi. Bốn chục năm trước trong chuyện nhỏ với ông lái buôn Wyott, Ballenbaugh đã chứng tỏ khả năng tiên đoán chính xác xu hướng tương lai và nắm lấy nó, giờ đây con trai ông, một gã khổng lồ khác, hồi 1865 (người ta nói) đem theo cái áo khoác lót giấy bạc Liên Bang chưa cắt, trở về từ (ông ta nói) Arkansas, nơi (ông ta nói) ông phục vụ trong đội dân quân biệt động rồi được giải ngũ trong danh dự, sau đó ông chả bao giờ nhớ được tên của vị chỉ huy trưởng, ông tỏ ra không đánh mất kỹ xảo, tài năng và sự thông tuệ của mình. Trước kia thiên hạ đi qua khu Ballenbaugh và ngừng lại nghỉ đêm, bây giờ họ chỉ tới khu Ballenbaugh vào ban đêm và thường chỉ trong chớp nhoáng để Ballenbaugh đủ thời giờ giấu ngựa hay bò trong đầm lầy trước khi pháp luật hay chủ nhân của chúng đến. Vì ngoài đám nông dân tức giận lần theo dấu chân không trở về của ngựa và gia súc còn có đám cảnh sát lần theo dấu bọn sát nhân vào khu Ballenbaugh, ít nhất có một ông mật vụ sở thuế liên bang cũng đã để lại những dấu chân không trở về. Vì trong khi cụ Ballenbaugh chỉ bán rượu thì gã này còn nấu rượu, gã bây giờ là chủ nhân của cái được che đậy bằng lối nói mỹ miều gọi chung là vũ trường, tới giữa thập niên tám mươi thì Ballenbaugh là chữ để chỉ nỗi kinh hoàng ghê tởm của dân cư quanh vùng. Đám mục sư và các bà già đòi hỏi ở mấy ông tranh chức cảnh sát trưởng với mục tiêu duy nhất là đuổi Ballenbaugh và bọn say sưa cùng đám lừa bịp, bài bạc và gái điếm của gã ra khỏi quận hạt Yoknapatawpha, và ra khỏi Mississippi luôn nếu có thể. Nhưng Ballenbaugh và đoàn tùy tùng của gã ‐ chuồng ngựa, vòm giải trí, muốn gọi thế nào cũng được ‐ không hề làm phiền những người bên ngoài như bọn ta, họ chưa bao giờ ra khỏi chỗ trác táng của họ và chẳng có luật nào cấm người ta tới đó. Ngoài ra, hình như trò giải trí mới của gã (thiên thần giáng thế) hay tới nỗi thiên hạ đồn đại là ở đó sẽ không chào đón bất kỳ kẻ nào có tầm nhìn và tham vọng thấp hơn con ngựa thấp khớp hay con bò tơ cạn sữa. Vì thế ai biết suy nghĩ sẽ để yên khu Ballenbaugh. Chắc chắn trong số đó có mấy ông cảnh sát trưởng, họ vừa biết suy nghĩ vừa có gia đình, và họ đã có thí dụ của ông mật vụ sở thuế liên bang biến mất ở hướng đó cách đây không lâu.

Đến mùa hè năm 1886, một mục sư Tin lành tên Hiram Hightower ‐ cũng khổng lồ và cao to gần như Ballenbaugh, mỗi Chủ nhật từ 1861 tới 1865 ông là một trong các vị tuyên úy cấp đại đội của Forrest4, sáu ngày còn lại ông là một trong mấy kỵ binh dữ dằn nhất và ác liệt nhất ‐ cưỡi ngựa vào khu Ballenbaug, trang bị một cuốn Kinh Thánh và hai bàn tay trần rồi cải hóa toàn bộ khu định cư bằng nắm đấm của ông, từng người một nếu có thể, hai hay ba người cùng lúc khi bắt buộc. Vì thế khi Boon, Ned và ta tới đó vào lúc chạng vạng tháng Năm năm 1905 này, Ballenbaugh đang hoàn tất lần đầu thai thứ ba của ông trong hình dáng một bà gái già năm mươi tuổi, người con duy nhất của ông, một bà xám như thép, xấu xí, gầy gò, cứng nhắc, trồng bông gòn và bắp trên một phần tư dặm vuông đất phù sa tốt và trông coi một cửa hiệu nhỏ có gác xép bên trên chứa một dãy nệm nhồi vỏ bắp, mỗi cái có chăn, áo gối và tấm trải sạch gọn tinh tươm cho hội thợ săn chồn cáo và hội đánh cá ở trọ, (người ta nói) họ trở lại lần thứ hai không để săn hay bắt cá mà vì món ăn trên bàn cô Ballenbaugh.

4 Nathan Bedford Forrest (1821-1877), trung tướng kỵ binh của quân miền Nam. Sau Nội chiến ông là thủ lĩnh tổ chức Ku Klux Klan khủng bố dân da đen. (ND)

Cô đã nghe tiếng bọn ta tới. Bọn ta không phải là kẻ đầu tiên, cô kể rằng bọn ta là chiếc ô tô thứ mười ba đi ngang đó trong hai năm qua, năm trong số chúng xuất hiện chỉ trong bốn mươi ngày vừa qua, cô đã mất hai con gà mái và chắc sẽ phải bắt đầu quây hết các thứ lại, ngay cả mấy con chó săn. Cô và bà nấu bếp với một ông da đen đã đứng trên hiên trước nhà, che mắt tránh ánh chập chờn ma quái của ngọn đèn trước xe khi bọn ta lái lên. Cô không những biết Boon từ lâu mà còn nhận ra chiếc ô tô trước tiên, ngay cả sau khi thấy mười ba chiếc, mắt cô đã phân biệt rõ từng chiếc.

“Thế là rốt cuộc chú đã thật sự đưa nó về tới Jefferson”, cô nói.

“Một năm rồi à?”, Boon nói, “Chúa ơi, cô Ballenbaugh, chiếc ô tô này từ dạo đó đã đi một trăm lần xa hơn Jefferson rồi. Một ngàn lần. Cô chịu thua được rồi, cô phải làm quen với ô tô như mọi người khác đi.” Khi đó cô kể cho bọn ta về mười ba chiếc xe trong hai năm, và hai con gà mái.

“Ít ra dù sao một mẩu nhỏ của chúng cũng đã được đi ô tô”, cô nói. “Còn hơn tôi.”

“Cô nói cô chưa bao giờ cưỡi ô tô à?”, Boon nói. “Ê, Ned”, ông nói, “nhảy ra khỏi đó, đem hành lý ra luôn. Nhanh lên, để cô Ballenbaugh ngồi phía trước cho cô ấy thấy”.

“Khoan”, cô Ballenbaugh nói. “Tôi phải bảo Alice dọn bữa tối.”

“Ăn uống đợi được”, Boon nói. “Tôi đánh cược là Alice cũng chưa bao giờ cưỡi ô tô. Nào, Alice. Ai cạnh bà vậy? Chồng bà hả?”

“Tôi không tính lấy chồng”, bà bếp nói. “Mà nếu có tính thì tôi sẽ không tính tới Ephum.”

“Cứ mang ông ấy lên”, Boon nói. Bà bếp và người đàn ông cũng đến rồi leo lên ghế sau với thùng xăng và tấm vải dầu xếp gọn. Ned và ta đứng trong ánh đèn hắt ra từ cánh cửa mở nhìn chiếc ô tô, ngọn đèn đỏ phía sau chạy trên đường, rồi ngừng, quay và chạy ngược qua bọn ta, rồi Boon bóp còi, cô Ballenbaugh ngồi thẳng hơi hồi hộp trên ghế trước, Alice và Ephum trên ghế sau vẫy bọn ta khi họ chạy ngang qua.

“U u u u, chàng trai”, Ephum gọi Ned. “Hơn cả cưỡi ngựa.”

“Khoe khoang”, Ned nói, ám chỉ Boon. “Hắn tỏ ra lớn lối vì Sếp Priest không đứng đây. Hắn đi khoe khoang.” Xe ngừng, đề và lại quay đầu chạy về phía bọn ta rồi ngừng hẳn. Một lúc sau cô Ballenbaugh nói: “Được rồi”, sau đó cô cử động, cô nói nhanh: “Được rồi, Alice”, thế là bọn ta ăn tối. Và ta đã biết tại sao hội thợ săn và đánh cá quay lại. Sau đó Ned đi với Ephum, ta chào cô Ballenbaugh, rồi Boon cầm đèn, bọn ta lên lầu vào gác xép trên cửa hiệu.

“Cậu không mang gì theo à?”, Boon nói. “Ngay cả một cái khăn tay sạch cũng không?”

“Cháu không cần”, ta nói.

“Ôi dào, cậu không ngủ như vậy được. Nhìn mấy tấm vải sạch trải giường kìa. Ít nhất cởi giày và quần ra. Má cậu cũng sẽ bắt cậu chải răng nữa.”

“Bả không bắt”, ta nói. “Bả không bắt được. Cháu không có cái gì để chải.”

“Không có cũng không cản được bả, cậu biết mà. Nếu cậu không tìm được cái gì thì cậu phải chế ra nó nếu không cậu sẽ biết lý do.”

“Được rồi”, ta nói. Ta đã nằm trên nệm. “Chúc ông ngủ ngon.” Ông đứng, tay đưa lên để tắt đèn.

“Cậu ổn chứ?”, ông hỏi. “Im đi”, ta nói.

“Nói một tiếng. Mình sẽ về nhà. Không phải bây giờ nhưng ngay sáng mai.”

“Bộ ông đợi mãi đến lúc này mới sợ hả?”, ta hỏi. “Chúc cậu ngủ ngon”, ông nói. Ông thổi tắt ngọn đèn rồi lên nệm. Sau ấy là một đêm mùa xuân trọn vẹn: đám ếch nhái ồm ồm to họng trong vũng nước, tiếng cây cối, những cây to, vùng hoang dại với lũ thú hoang: bọn chồn, thỏ, chuột xạ, loài cú lớn và rắn lớn ‐ hổ mang và rắn đuôi chuông ‐ và có lẽ cây cối cũng thở và dòng sông cũng thở, chưa kể những hồn ma ‐ những người Chickasaw cổ xưa, những người đã đặt tên cho vùng đất trước khi người da trắng tìm ra nó, và những người da trắng sau đó ‐ Wyott và cụ Sutpen cùng các thợ săn của Thiếu tá De Spain, những chiếc phà đầy bông gòn, rồi những toa xe lửa chở hàng, bọn phu vận tải cãi nhau ầm ĩ, đảng cướp và những kẻ sát nhân tổ tiên cô Ballenbaugh.

Bỗng nhiên ta nhận ra tiếng ồn là do Boon.

“Ông cười gì?”, ta hỏi.

“Tôi đang nghĩ tới đáy lạch Hell. Khoảng mười một giờ sáng mai mình sẽ gặp nó.”

“Cháu nghĩ ông nói mình sẽ gặp rắc rối ở đó.”

“Chắc chắn mình sẽ gặp”, Boon nói. “Nó sẽ cần cây rìu, cái xẻng, dây kẽm với ròng rọc và dây cáp, và tất cả thanh gỗ hàng rào cùng với tôi, cậu và Ned, cả ba. Chính là tôi đang cười hắn: Ned. Khi mình qua khỏi lạch Hell ngày mai thì hắn sẽ ước gì hắn đã không tung hê cái hắn gọi là cách cư xử đứng đắn của hắn, hay giá mà đừng làm gì dưới tấm vải dầu cho tới khi hắn cảm thấy Memphis dưới bánh xe.”

Rồi ông gọi ta dậy sớm. Và mọi người khác trong vòng nửa dặm, tuy phải khá lâu mới dựng được Ned dậy từ chỗ ông ngủ trong nhà Ephum ra nhà bếp ăn điểm tâm (và thậm chí lâu hơn nữa để lôi ông ra khỏi cái bếp có một bà trong đó). Bọn ta ăn sáng ‐ và sau bữa điểm tâm đó nếu ta là thợ săn hay dân đánh cá thì ta sẽ không muốn bước đi đâu một lát ‐ rồi Boon cho cô Ballenbaugh đi một chuyến xe nữa, nhưng lần này không có Alice và Ephum, mặc dù Ephum có mặt. Rồi bọn ta ‐ Boon ‐ đổ đầy bình xăng và bình giải nhiệt, không phải vì cần nhưng ta nghĩ là vì cô Ballenbaugh và Ephum đang ở đó nhìn, rồi nổ máy. Mặt trời vừa mọc lúc bọn ta qua Cầu Sắt trên sông (và bóng ma của chiếc tàu hơi nước ấy nữa, ta đã quên nó tối hôm qua) vào vùng đất xa lạ, một quận hạt khác, đến tối thậm chí sẽ là một tiểu bang khác và Memphis.

“Miễn là mình qua khỏi lạch Hell”, Boon nói. “Có lẽ ông đừng nói tới nó nữa”, ta nói.

“Được”, Boon nói. “Lạch Hell chẳng cần mình nói tới nó hay không. Nó cóc cần. Cậu sẽ thấy.” Rồi ông nói, “Ồ, nó đây rồi”. Mới sau mười giờ, bọn ta đã đi khá nhanh dọc theo dải đất cao, đường khô và bụi bặm chạy giữa những cánh đồng đang nảy chồi. Vùng đất trống trải và yên bình ngày Chủ nhật, thiên hạ đã mặc áo quần đi lễ đứng nhàn rỗi trên hiên trước, trẻ con và đàn chó chạy tới hàng rào hay ra đường nhìn bọn ta đi ngang. Rồi trên những chiếc xe ngựa hai chỗ ngồi, xe độc mã, xe chuyên chở và trên lưng lừa, ngựa (khoảng sau chín giờ bọn ta vượt một chiếc ô tô khác. Boon nói nó là xe Ford, ông giỏi nhìn xe như cô Ballenbaugh) trên đường tới những ngôi nhà thờ nhỏ màu trắng trong lùm cây mùa xuân.

Thung lũng rộng trải trước bọn ta, con đường trên khu đất cao dốc xuống hàng liễu và bách bên con lạch. Đối với ta nó không đến nỗi tệ lắm, không chỗ nào rộng như lòng sông bọn ta đã băng qua, và bọn ta thậm chí có thể thấy vết cắt bụi bặm của con đường vươn lên vùng đất cao đằng xa. Nhưng Boon đã bắt đầu nguyền rủa, lái xuống đồi càng nhanh hơn, ông hăng hái, nôn nóng tới đánh nhau với nó như thể nó có tri giác, không chỉ thù địch mà còn là tử địch, một kẻ thù, một người khác. “Nhìn nó kìa”, ông nói, “Vô tội như quả trứng mới đẻ. Cậu thậm chí có thể thấy con đường đằng xa như nó đang cười nhạo mình, mà nói Nếu qua được bên này chắc chắn mày sắp thấy Memphis, nhưng thử coi mày qua được bên này hay không”.

“Nếu khó khăn như vậy thì tại sao mình không đi vòng?”, Ned nói, “Tôi sẽ đi vòng nếu tôi ngồi chỗ ông đang ngồi”.

“Vì lạch Hell không có đường vòng”, Boon hung tợn nói, “Đi hướng này lên tới bang Alabama, đi hướng kia rớt xuống sông Missippi”.

“Có lần tôi thấy sông Missippi ở Memphis”, Ned nói, “Bây giờ ông nhắc mới nhớ tôi đã thấy Memphis rồi. Nhưng tôi chưa hề thấy Alabama. Có lẽ tôi thích đi một chuyến tới đó”.

“Anh cũng chưa hề thăm lạch Hell”, Boon nói, “Trốn dưới tấm vải dầu hôm qua sẽ cho anh một bài học. Anh nghĩ sao khi từ Jefferson tới bây giờ mình chỉ thấy hai chiếc ô tô là chiếc này và chiếc Ford hả? Lý do là những chiếc khác ở Missippi đều nằm dưới lạch Hell”.

“Cô Ballenbaugh đếm được mười ba chiếc đi ngang nhà cô ấy hai năm qua”, ta nói.

“Hai chiếc trong số đó là chiếc này,” Boon nói, “Còn mười một chiếc kia cô ấy chưa bao giờ thấy đi qua lạch Hell, phải không?”.

“Có lẽ tùy vào người đang lái”, Ned nói, “Hề hề hề”.

Boon ngừng xe, gấp. Ông quay đầu, “Được. Nhảy ra. Anh muốn thăm Alabama. Anh đã trễ mười lăm phút vì cái miệng bép xép của anh rồi”.

“Tại sao ông phải gây sự với một người chỉ vì người ta đi chung với ông?”, Ned hỏi. Nhưng Boon không nghe ông. Ta không nghĩ ông thật sự nói với Ned. Ông đã ra khỏi xe, mở thùng dụng cụ ông nội đã cho gắn trên bậc lên ô tô để đựng ròng rọc và dây cáp, rìu, xẻng và đèn lồng, lấy mọi thứ ra trừ cái đèn lồng rồi vứt đống vào ghế sau với Ned.

“Để mình khỏi phí thời giờ”, ông nói, nhanh nhưng khá điềm tĩnh, nhẹ nhàng, không kích động hay thậm chí gấp rút, đóng thùng và quay trở lại tay lái. “Tấn công. Mình còn đợi gì nữa?”

Đối với ta vẫn không có gì tới nỗi tệ ‐ chỉ là một con đường quê băng qua cái lạch lầy lội, đường không khô ráo nhưng chưa quá lấm láp, mấy cái hố và chỗ sình lầy đã được lấp đầy ngọn và cành cây nhờ những người đi trước, nhiều đoạn thậm chí có thân cây lát ngang trên bùn (ồ phải, ta chợt thấy con đường ‐ vì không có chữ nào khác đúng hơn ‐ đã hết khô ráo) vì thế có lẽ chính Boon phải chịu trách nhiệm, chính ông đã mang hồn ma của mấy chiếc ô tô mắc kẹt và những kẻ lái xe toát mồ hôi mà nguyền rủa tới nơi u ám tù đọng với vòm cây bách và liễu cùng lũ muỗi vo ve này. Khi ấy ta nghĩ bọn ta đã tấn công nó, nhưng ta không thấy khoảng đất cao khô ráo nào chứng tỏ bọn ta đang đến, đang tiến tới gần bên kia đầm lầy, và ta cũng chưa thấy con lạch phía trước, nói gì tới cây cầu. Một lần nữa chiếc xe lảo đảo, nghiêng, rồi đứng lại như hôm qua ở lạch Hurricane. Một lần nữa Boon đã cởi giày vớ và xắn quần. “Nào,” ông nói qua vai bảo Ned, “đi ra”.

“Tôi không biết cách”, Ned nói, không cử động, “Tôi chưa được học về ô tô. Tôi chỉ làm vướng tay ông thôi. Tôi sẽ ngồi đây với Lucius để ông rộng chỗ”.

“Hề hề hề”, Boon nhại một cách độc ác và tàn nhẫn, “Anh muốn đi chơi. Bây giờ anh được đi một chuyến. Cút ra”.

“Tôi đang mặc lễ phục cho Chủ nhật”, Ned nói.

“Tôi cũng vậy”, Boon nói, “Nếu tôi không lo lắng cho cái quần thì anh cũng khỏi cần sợ”.

“Ông nói gì chẳng được”, Ned nói, “Ông có ông Maury. Tôi phải làm việc kiếm tiền. Nếu quần áo tôi rách hay mòn thì tôi phải tự mua cái mới”.

“Anh chưa hề mua quần áo, giày dép hay mũ nón trong đời”, Boon nói, “Anh có bộ áo đuôi tôm tôi biết chính cụ Lucius McCaslin mặc, chưa kể bộ của Tướng Compson với Thiếu tá De Spain và Sếp nữa. Anh xắn quần lên, cởi giày ra hay không tùy anh. Nhưng anh phải ra khỏi chiếc xe này”.

“Để Lucius ra”, Ned nói, “Cậu ấy trẻ hơn tôi và to khoẻ hơn nữa”.

“Cậu ấy phải lái xe”, Boon nói.

“Tôi sẽ lái nếu ông chỉ cần có thế”, Ned nói, “Tôi đã lái ngựa, la và bò cả đời đúng như ông nói, tôi chắc hi‐hô cái tay lái đó chả khác hi‐hô sợi dây cương và cây roi”, rồi bảo ta: “Nhảy ra, cậu, giúp ông Boon. Nên cởi giày vớ của cậu ra…”.

“Anh có ra không, hay một tay tôi xách anh ra còn tay kia túm lấy chiếc xe này nhấc lên?”, Boon nói. Rốt cuộc Ned chấp nhận rằng ông phải ra, ông cử động đủ nhanh, chỉ hơi càu nhàu lúc cởi giày, xắn quần và cởi áo vét. Khi ta quay lại nhìn Boon thì ông đã lôi hai khúc gỗ, thân cây non khỏi đám cỏ dại và bụi tầm xuân.

“Ông chưa dùng ròng rọc với dây cáp à?”, ta hỏi.

“Chưa”, Boon nói, “Tới khi cần thì cậu khỏi phải xin phép ai. Cậu sẽ biết khi đến lúc ấy.” Ta nghĩ là khi thấy cây cầu. Có lẽ chẳng có cây cầu nào và như vậy mới tệ. Boon cũng đoán được ý nghĩ của ta. “Đừng lo tới cây cầu. Mình chưa tới gần chỗ đó đâu.”

Ta sẽ hiểu ông nói gì nhưng bây giờ thì chưa. Ned rón rén hạ một chân xuống nước. “Nước này bẩn”, ông nói, “Tôi ghét có bùn giữa mấy ngón chân trần của tôi”.

“Đó là vì máu huyết anh chưa lưu thông”, Boon nói, “Nắm lấy khúc cây đó. Anh nói anh chưa quen với ô tô. Từ nay tới chết anh sẽ không bao giờ than vãn nữa. Được rồi” ‐ nói với ta ‐ “bây giờ cho xe tiến tới từ từ, khi nào nó bám thì cứ để nó chạy.” Bọn ta làm như thế, Boon và Ned dùng khúc gỗ làm đòn bẩy đẩy dưới trục sau, lảo đảo nhích tới mỗi lần nửa mét, một mét, đôi khi một mét rưỡi, đến khi bánh xe lại xoay tít tại chỗ, văng đầy bùn lên cả hai từ đầu gối tới chóp như thể thợ sơn nhà dùng vòi xịt lên họ. “Thấy tôi nói chưa?”, Boon nói, vừa nhổ vừa đẩy thêm một cái hào hùng nữa khiến bọn ta lảo đảo tới phía trước, “Làm quen với ô tô hả? Giống y như làm quen với mấy con la và ngựa, đừng bao giờ đứng ngay phía sau con nào đã đưa cái cẳng sau lên”.

Rồi ta thấy cây cầu. Bọn ta đã tới một khoảnh đất (tương đối) khô, Boon và Ned, bây giờ hầu như không phân biệt nổi được vì bùn, phải vác khúc cây chạy lon ton mà thậm chí không bắt kịp, Boon la hét, hổn hển, “Cứ chạy! Cứ chạy!” tới khi ta gặp cây cầu cách một trăm mét phía trước, và khi thấy khoảng cách giữa bọn ta và cây cầu thì ta hiểu điều ông nói. Ta ngừng xe. Con đường (lối đi, hay bất kể gọi nó là gì) phía trước bọn ta không biến hóa hay thay hình đổi dạng gì nhiều, nó biến chất. Bây giờ nó giống cái thùng lớn đựng cà phê sữa, đây đó trồi lên vài cây que, bụi rậm và khúc gỗ bạc nhược vô vọng trơ trụi, thỉnh thoảng một gò đất rất giống như đã bị lưỡi cày cố ý xới lên. Rồi ta thấy cái gì đó khác nữa và hiểu điều Boon đã gián tiếp nói với ta về đáy lạch Hell từ hơn một năm trước và ông đã lặp lại với vẻ ám ảnh kinh hoàng từ khi bọn ta rời Jefferson hôm qua. Đứng buộc vào thân cây bên rìa đường (kênh đào) là hai con la đã đeo sẵn bộ cày ‐ đúng vậy, dây cương, đệm cổ và vòng buộc dây cương, dây xích quấn trên vòng buộc cương, dây kéo cày cuộn thành bó gọn ghẽ cũng treo trên vòng buộc cương. Dựa vào một cây khác gần đó là bộ cày hai cánh nặng nề ‐ lưỡi cày chữ V ‐ hai cánh tra cán và cả bắp cày, bùn bám cứng, cùng thứ bùn phủ kín Boon và Ned, một cặp gióng ngang cũng bọc bùn dựa vào lưỡi cày và ngay phía sau là căn nhà mới hai phòng bằng gỗ súc, một ông ngồi ngả người trên chiếc ghế đan nẹp ngay dưới hiên, chân trần, dây đeo quần thả xuống eo, đôi giày cao cổ của ông (cũng lấm bùn) dựa tường bên cạnh ghế. Và ta biết đây, chứ không phải lạch Hurricane, là nơi (Boon nói) ông và ông Wordwin hồi năm ngoái đã phải mượn cái xẻng mà (theo Boon) ông Wordwin quên trả lại, và ông Wordwin cũng có thể đã quên mở lời mượn (cái xẻng) dù nó giúp họ bao nhiêu việc.

Ned cũng đã thấy. Ông nhìn kỹ hố bùn. Bây giờ ông nhìn mấy con la đã thắng cương đứng ve vẩy đuổi muỗi trong khi đợi bọn ta. “Nào, đây là thứ tôi gọi là tiện lợi…”, ông nói.

“Câm mồm”, Boon lầm bầm dữ tợn, “Im đi. Đừng nói gì.” Ông nói trong cơn thịnh nộ bị kiềm chế trong căng thẳng, dựa khúc gỗ dính bùn của ông vào xe rồi lôi ròng rọc, dây cáp và dây kẽm với rìu và xẻng ra. Ông nói ba lần Đồ chó đẻ. Rồi ông bảo ta: “Cả cậu nữa”.

“Cháu?”, ta hỏi.

“Nhưng coi mấy con la kìa”, Ned nói. “Thậm chí hắn đã móc dây xích vào cặp gióng ngang kia rồi…”

“Anh không nghe tôi nói câm mồm đi à?”, Boon nói trong tiếng lầm bầm dữ tợn khá nhã nhặn ấy. “Xin lỗi, nếu tôi nói chưa đủ rõ. Tôi muốn nói là ngậm mồm lại.”

“Nhưng hắn muốn cái quái gì với lưỡi cày chữ V đó?”, Ned nói. “Rồi còn cái cán cày sạch bùn nữa. Như thể hắn… Ông muốn nói hắn với đội la đó tới đây cày chỗ này như cày ruộng chỉ để nó lầy lội thôi hả?”, Boon cầm xẻng, rìu, ròng rọc dây cáp, cả ba thứ trong tay. Ta thoáng nghĩ ông sẽ lấy một hay có lẽ cả ba thứ để đập Ned. Tôi nói nhanh:

“Ông muốn cháu làm gì…”

“Ừ”, Boon nói, “Cần cả ba đứa mình. Tôi ‐ tôi với ông Wordwin hơi gặp rắc rối với hắn ở đây hồi năm ngoái, lần này mình phải qua được…”.

“Năm ngoái ông phải trả hắn bao nhiêu để lôi xe ra?”, Ned hỏi.

“Hai đô la”, Boon nói, “… vì vậy anh nên cởi hẳn quần ra, cởi cả áo nữa, ở đây không sao…”.

“Hai đô la?”, Ned nói, “Đồ bóc lột. Hắn đóng đô ngay đấy, ngồi trong bóng mát không thèm nhúc nhích. Tôi muốn Sếp kiếm cho tôi một hố bùn đông người qua lại”.

“Ừ”, Boon nói, “Anh có thể học ở hố này.” Ông đưa ròng rọc và sợi kẽm cho Ned. “Đem nó tới cây liễu đằng kia, cái cây lớn, rồi cột cho thật chặt vào.” Ned trải sợi dây và mang ròng rọc tới cây. Ta cởi quần và giày rồi bước xuống bùn. Thật dễ chịu, mát. Có lẽ Boon cũng cảm thấy như thế. Hay có lẽ ông ‐ cả Ned nữa ‐ đã buông xuôi, khỏi phải phí thời giờ để tránh lấm bùn. Dù sao từ lúc này ông phớt lờ bùn lầy, ngồi xổm trên bùn, vừa nói đều đều lặng lẽ câu Đồ chó đẻ, vừa lóng ngóng quấn đầu dây kẽm thành vòng phía trước xe để móc ròng rọc vào. “Này”, ông bảo ta, “cậu lôi mấy bụi cây đằng kia tới”, cũng đọc được ý nghĩ của ta: “Tôi cũng không biết nó từ đâu ra. Có lẽ chính hắn chất đống ở đó để tiện cho người ta, để họ biết rõ họ nợ hắn hai đô la là xứng đáng”.

Vì thế ta lôi bụi cây ‐ cành, ngọn ‐ xuống bùn phía trước chiếc xe, trong khi Boon và Ned căng đoạn dây lỏng trong ròng rọc và chuẩn bị sẵn, Ned và ta cầm sợi dây ròng rọc căng, Boon ở đuôi xe lại cầm khúc gỗ đáng giá của ông. “Các vị làm một việc dễ”, ông bảo hai người bọn ta, “Chỉ cần giữ cho chặt khi tôi đẩy lên. Nào…”, ông nói, “Bắt đầu”.

Như giấc mơ. Không phải ác mộng: chỉ như giấc mơ ‐ bình an, êm đềm, xa xôi, rậm cành lá, gần như khung cảnh ban sơ của nhơn nhớt nhầy nhụa, rậm rạp và oi nóng, nơi đó mấy con la bình thản giậm chân và vẫy đuôi vào vô số những sinh vật nhỏ bé vô hình không thể nhìn thấy, cũng chính là thứ không khí bọn ta đang cử động và hít thở trong đó. Mấy con la không những không xa lạ mà thật ra còn thích hợp một cách lạ kỳ vì bản thân chúng không thể sinh sản và do đó đã lỗi thời trước khi sinh ra; chiếc ô tô: Món đồ chơi cơ khí vô dụng mà đắt tiền, ước lượng mười hai mã lực, nhưng vô ích và bất lực dưới nanh vuốt của vài inch một hợp chất tạm thời gồm hai nguyên tố dịu và ôn hòa ‐ đất và nước ‐ những chất, đơn vị mềm mại nhất được tạo nên từ phương pháp thủ công cũ kỹ đã trải qua vô số đời mà không được chú ý; ba người bọn ta, ba sinh vật có tứ chi giống nhau và bây giờ lấm màu bùn đến mức không thể nhận diện, bọn ta lao vào cuộc đấu tranh sinh tử với nó, tiến triển ‐ nếu có ‐ phải được tính từng gang tấc mệt mỏi và chậm chạp. Và suốt thời gian đó, người đàn ông ngồi trên cái ghế dựa dưới hiên nhà nhìn bọn ta, trong khi Ned và ta cố kéo từng gang tấc sợi dây lúc này đã quá trơn vì bùn nên không thể nắm chặt, và ở đuôi xe Boon cố gắng đẩy như một con quỷ, một người khổng lồ, thọc khúc gỗ dưới chiếc xe rồi nâng lên, đẩy tới phía trước; một lần ông buông ra, quăng khúc gỗ đi, rồi khom xuống, hai tay nắm chặt xe và đẩy tới vài bước như đẩy xe cút kít. Không ai chịu nổi. Không ai đáng phải chịu như thế. Cuối cùng ta nói như thế. Ta ngừng kéo, nói, hổn hển: “Thôi. Mình làm không nổi. Mình làm không nổi.” Và Boon giọng thở hắt yếu ớt nhẹ như lời yêu đương thì thầm:

“Vậy thì tránh ra nếu không tôi sẽ cán lên cậu.”

“Không”, ta nói. Ta lảo đảo, trượt nhào ra phía sau để tới chỗ ông. “Không”, ta nói. “Ông đang tự sát đấy.”

“Tôi chưa mệt”, Boon nói với giọng khô khan thều thào. “Tôi mới bắt đầu. Nhưng cậu với Ned có thể nghỉ. Trong khi cậu thở, nhờ cậu lôi thêm bụi cây đó…”

“Không”, ta nói, “Không! Ông ta tới rồi! Ông muốn ông ta thấy à?” Vì bọn ta có thể thấy và nghe tiếng ông ta ‐ tiếng chân hai con la bì bõm khi rón rén bước bên mép hố bùn, vòng dây xích loảng xoảng như âm nhạc, người đàn ông cưỡi trên một con la và dắt con kia, giày ông ta cột lại quàng trên một vòng buộc dây cương, cặp gióng ngang lủng lẳng phía trước như bọn thợ săn bò tót đeo súng trong mấy tấm ảnh ngày xưa ‐ một ông hốc hác, già hơn bọn ta ‐ ít nhất là ta.

“Chào buổi sáng, tụi nhóc”, ông ta nói. “Coi bộ bây giờ tụi bay sẵn sàng nhường cho tao rồi. Xin chào, nhóc xứ Jefferson”, ông ta nói với Boon, “Coi bộ rốt cuộc mùa hè trước mày vượt qua được”.

“Chắc vậy”, Boon nói. Ông đã thay đổi, lập tức và hoàn toàn, như lật quân bài: giống một kẻ đánh phé vừa mới thấy lá ách thứ nhì rơi vào tay bài bên kia bàn. “Lần này đáng lẽ tụi tôi cũng qua được nếu mấy ông không quậy bùn ở đây lên một cách quá đáng.”

“Đừng trách tụi tao”, người đàn ông nói, “Bùn là thu hoạch khá nhất của tụi tao ở vùng này”.

“Hai đô mỗi hố bùn chắc là thu hoạch khá nhất của ông”, Ned nói. Người đàn ông nháy mắt với Ned.

“Tao không biết nhưng có lẽ mày nói đúng”, ông ta nói. “Đây. Mày cầm cặp gióng ngang này, coi bộ mày là đứa biết chỗ để móc nó vào con la.”

“Xuống mà tự làm lấy”, Boon nói, “Tại sao tụi tôi phải trả ông hai đô để làm thầy đời? Hồi năm ngoái ông tự móc dây”.

“Đó là chuyện năm ngoái”, người đàn ông nói. “Bì bõm móc dây xích trong bãi nước này làm hao mòn hệ thần kinh của ta khiến ta phong thấp muốn chết.” Thế rồi ông ta vẫn không cựa quậy. Ông chỉ mang hai con la tới rồi cho chúng đứng sánh vai trong khi Boon và Ned móc dây xích vào cặp gióng ngang, rồi Boon ngồi xổm trong bùn buộc chặt dây xích vào xe.

“Ông muốn tôi móc nó vào đâu?”, ông hỏi.

“Tao chẳng quản”, người đàn ông nói. “Móc vào bất kỳ bộ phận nào mày muốn kéo ra khỏi hố bùn này. Nếu mày muốn kéo nguyên chiếc ra cùng một lúc thì tao chắc là móc vào trục xe. Nhưng trước tiên tao cất hết mấy cái xẻng với dây thừng vào xe. Tụi bay không cần nó nữa, ít nhất là ở đây.” Vì thế Ned và ta cất dụng cụ, Boon móc xích rồi cả ba bọn ta đứng tránh ra nhìn. Ông ta hẳn là dân nhà nghề, nhưng tới lúc này mấy con la cũng lành nghề, lôi chiếc ô tô ra khỏi bùn, giữ cặp gióng ngang căng đều khéo léo như kẻ đi trên dây, kéo chiếc ô tô rồi giữ nó tại chỗ mà chỉ thỉnh thoảng cần vài lời chỉ huy của người đàn ông cưỡi con la gần đấy và vài cái quất nhẹ bằng chiếc roi ông cầm, chúng kéo chiếc xe lên chỗ có nhiều đất hơn nước.

“Được rồi, Ned”, Boon nói. “Tháo móc ra.”

“Chưa”, người đàn ông nói. “Còn một hố nữa bên kia cầu tao làm miễn phí. Một năm nay mày không còn rành khu này.” Ông bảo Ned: “Ở miệt này tụi tao gọi là khoảnh ruộng dự trữ”.

“Ông muốn nói khoảnh giữa dành cho Giáng sinh”, Ned nói.

“Chắc vậy”, người đàn ông nói. “Nó là cái gì?”

Ned kể cho ông ta. “Hồi cụ L.Q.C.5 còn sống hồi trước Đầu hàng6, tụi tôi ở McCaslin làm thửa ruộng đó, bây giờ con cái nhà Edmonds vẫn làm. Mỗi dịp xuân, khoảnh giữa thửa ruộng tốt nhất được để riêng ra, mỗi nhánh bông gòn ở khoảnh giữa đó và bìa thửa ruộng được dành cho quỹ Giáng sinh, không phải cho ông chủ mà cho mỗi đứa da đen nhà McCaslin có phần quà Giáng sinh. Nó gọi là khoảnh giữa cho Giáng sinh. Có vẻ mấy ông canh tác bùn ở đây chưa hề nghe tới.” Người đàn ông nhìn Ned một lúc. Lát sau Ned nói, “Hê hê hê”.

5 Lucius Quintus Carothers, ông ngoại của Ned theo lời kể của Ned trước đó. (ND)

6 Ngày 9/4/1865, Tướng Robert E. Lee chỉ huy Quân đoàn Bắc Virginia của phe miền Nam đầu hàng Tướng Ulysses S. Grant của phe miền Bắc tại Appomattox, Virginia, dẫn đến sự tan rã của quân đội miền Nam và kết thúc cuộc Nội Chiến. (ND)

“Vậy là tốt,” người đàn ông nói. “Tao đã chợt nghĩ mày với tao sắp hiểu lầm nhau.” Ông nói với Boon: “Có lẽ đứa nào nên lái nó”.

“Được”, Boon nói. “Nào”, ông bảo ta. Thế là ta ngồi dưới tay lái, bùn tèm lem. Nhưng bọn ta vẫn chưa nhúc nhích. Người đàn ông nói, “Tao quên nhắc, vì vậy có lẽ tao nên nói luôn. Giá cả ở đây đã tăng gấp đôi từ năm ngoái”.

“Sao?”, Boon nói. “Vẫn chiếc xe này, vẫn hố bùn này, và chết tiệt thật, tôi tin là thậm chí bùn cũng vẫn là bùn sình cũ.”

“Đó là năm ngoái. Bây giờ công ăn việc làm nhiều hơn. Nhiều tới nỗi tao không tăng giá không được.”

“Thôi được, đồ trời đánh”, Boon nói. “Làm tiếp đi.” Vì thế bọn ta đi, nhục nhã, theo nhịp bước của hai con la tới hố bùn kế tiếp rồi không hề ngừng lại, cứ đi tiếp và ra khỏi hố. Giờ đây cây cầu ngay trước mặt; xa xa, bọn ta thấy con đường an toàn chạy sát tới mé sông.

“Bây giờ tụi bay yên chí rồi”, người đàn ông nói. “Cho tới khi tụi bay quay lại.” Boon gỡ dây xích, trong khi Ned tháo dây kéo rồi đưa cặp gióng ngang lại cho người đàn ông trên lưng con la.

“Tụi tôi sẽ không về đường này”, Boon nói.

“Tao cũng vậy,” người đàn ông nói. Boon quay lại vũng nước gần nhất để rửa bùn trên tay rồi trở lại rút bốn đô la trong ví ra. Người đàn ông không cử động.

“Sáu đô”, ông ta nói.

“Năm ngoái hai đô”, Boon nói. “Ông nói bây giờ tăng gấp đôi. Hai lần hai là bốn. Được rồi. Bốn đô đây.”

“Tao tính một đô mỗi hành khách”, người đàn ông nói, “Năm ngoái có hai đứa mày. Như vậy là hai đô. Bây giờ giá gấp đôi. Tụi mày ba đứa. Vậy là sáu đô. Có thể mày thà đi bộ ngược về Jefferson hơn là trả hai đô, nhưng thằng nhóc và thằng đen đó chắc là không”.

“Có thể tôi cũng không theo giá”, Boon nói, “Giả thử tôi không trả ông sáu đô la. Giả thử tôi không trả ông đồng nào”.

“Mày cũng có thể làm như vậy”, người đàn ông nói, “Mấy con la này đã có một ngày vất vả, nhưng tao đoán tụi nó vẫn còn đủ sức để lôi thứ kia trở lại chỗ hồi nãy tụi nó lôi ra”.

Nhưng Boon đã buông trôi, bỏ cuộc, đầu hàng. “Đồ trời đánh”, ông nói, “Cậu nhóc này chỉ là trẻ con! Một đứa con nít!”.

“Có thể nó đi bộ về Jefferson nhẹ nhàng hơn”, người đàn ông nói, “nhưng đường đi không ngắn hơn”.

“Thôi được”, Boon nói, “nhưng nhìn thằng kia kìa! Khi rửa sạch bùn thì nó cũng không trắng ra!”.

Người đàn ông nhìn xa xôi một lúc rồi nhìn Boon. “Con à”, ông nói, “Cả hai con la này đều mù màu”.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 16
  • Sau