• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bọn đạo chích
  3. Trang 8

5

Boon đã bảo Ned và ta rằng một khi bọn ta chinh phục xong lạch Hell thì bọn ta sẽ tới thế giới văn minh. Ông vẽ lên hình ảnh mọi con đường từ đó những chiếc ô tô chen chúc như ruồi nhặng. Mặc dù trước tiên có lẽ cần để lạch Hell lại xa phía sau bọn ta như cõi lú, hay chốn quên, hay ít nhất là khuất mắt. Có lẽ bọn ta sẽ không xứng đáng với văn minh khi chưa rũ sạch bùn của lạch Hell. Dù sao, vẫn chưa có gì xảy ra. Người đàn ông lấy sáu đô la rồi bỏ đi với hai con la và cặp gióng ngang, ta thấy ông không về căn nhà nhỏ của ông mà băng qua đầm lầy rồi biến mất, như thể đã hết ngày, Ned cũng nhận thấy thế. “Hắn đâu phải là trâu bò”, Ned nói, “Hắn chẳng cần. Hắn kiếm được sáu đô thậm chí trước giờ ăn”.

“Đúng cái tôi nghĩ”, Boon nói, “Mang đồ ăn trưa ra luôn đi.” Vì thế bọn ta lấy hộp thức ăn trưa cô Ballenbaugh đã gói cùng với ròng rọc, dây cáp, rìu, xẻng, giày vớ và quần của ta (bọn ta chẳng làm gì được cho chiếc ô tô, ngoài việc lãng phí không ít công sức cho đến khi đến được Memphis, nơi đó chắc chắn ‐ ít nhất bọn ta hy vọng ‐ không có thêm hố bùn nào) rồi xuống lại con lạch để rửa dụng cụ và quấn lại dây ròng rọc. Và cũng chẳng làm được gì nhiều cho áo quần của Boon và Ned, dù Boon trầm mình xuống nước, mặc cả quần áo, rồi tắm sạch và cố thuyết phục Ned làm theo vì ông ‐ Boon ‐ có quần áo thay trong túi hành lý của ông. Nhưng Ned chỉ cởi sơ mi rồi mặc lại áo vét. Ta nghĩ ta đã kể về cái cặp táp của ông, ông chẳng mang nó đi nước ngoài như các nhà ngoại giao, nó đựng (ta nghĩ là cuốn Kinh Thánh của Ned và ‐ có lẽ ‐ hai thìa rượu ngon nhất của ông nội) nhiều lúc ta ngờ rằng rất ít đồ bên trong.

Rồi bọn ta ăn trưa ‐ thịt heo xông khói và gà rán, bánh quy và mứt lê làm tại nhà, bánh ngọt và một bình sữa loãng ‐ rồi cất lại bộ đồ dùng khi khẩn cấp bị lem luốc bùn (rốt cuộc nó không những là một sự khinh rẻ mà còn là một khoác lác nhục nhã) và đo thùng xăng ‐ một hành động không vì khoảng cách mà vì thời gian ‐ rồi lên đường. Vì giờ đây phóng lao phải theo lao, bọn ta không quay nhìn lại để ăn năn hay hối hận hay tự nhủ phải‐chi‐giá‐mà. Khi băng qua Cầu Sắt, vào quận hạt khác bọn ta không còn lùi lại được nữa, khi chinh phục lạch Hell bọn ta đã khóa cổng thành và đốt cầu. Và dường như bọn ta đã được nhận phần thưởng ân xá khi quyết tâm không chịu bị đánh bại, hay từ chối khuất phục khi phải đối phó với hiểm nguy, hay khi nó đối diện bọn ta. Hay có lẽ chỉ vì đức hạnh đã bỏ cuộc, thả bọn ta cho phi đức hạnh ấp ủ, nuôi dưỡng và nâng niu, như bọn ta được quyền có khi đã bán đứt linh hồn mình.

Vùng đất hình như đã thay đổi. Các nông trại lớn hơn, thịnh vượng hơn, với hàng rào kín kẽ hơn, các ngôi nhà và ngay cả chuồng bò cũng được sơn phết, bầu không khí rất đô thị. Cuối cùng bọn ta đến một xa lộ rộng, thẳng băng tới xa tít và đầy dấu bánh xe. Boon nói, với vẻ đắc thắng như thể bọn ta đã nghi ngờ ông, hay như thể ông đã dựng ra nó để bác bỏ bọn ta, tạo ra nó, dọn sạch và san phẳng và làm nhẵn nó bằng chính tay ông (và có lẽ còn lăn thêm dấu bánh xe): “Thấy chưa? Xa lộ đi Memphis”. Bọn ta có thể thấy xa hàng dặm; bên cạnh là đám bụi cuồn cuộn như điềm gở, như lời hứa hẹn. Nó sờ sờ trước mắt, tiến nhanh và mịt mù, bọn ta thậm chí không ngạc nhiên khi trong đám bụi có chiếc ô tô khác. Bọn ta vượt qua nhau, trộn bụi của bọn ta vào đám bụi khổng lồ như cây cột, một cột chỉ đường dựng lên che phủ vùng đất với bảng phác họa cho tương lai: tiến lui như đàn kiến, lòng khao khát lên đường khôn cưỡng, số phận cơ khí hóa, chuyển động hóa, chẳng thể tránh khỏi của Hoa Kỳ.

Và giờ đây bụi phủ xám từ mí mắt tới ngón chân (nhất là quần áo còn ẩm của Boon), bọn ta có thể rút ngắn thời gian trong chốc lát, dù tốc độ có thể không nhanh.

Không tắt máy, Boon bước ra khỏi xe và nhanh nhẹn đi vòng qua bên ta, nói vội với ta: “Nào. Luồn qua. Cậu biết cách mà. Miễn đừng nghĩ cậu là đầu máy xe lửa bốn chục dặm một giờ.” Thế là ta lái qua buổi chiều rực nắng tháng Năm. Nhưng ta không thể nhìn nắng chiều, ta quá bận, quá tập trung (ừ thì, quá căng thẳng và kiêu hãnh). Chiều Chủ nhật, sự nghỉ ngơi, giờ đây bông gòn và ngô không bị quấy rầy, mấy con la cũng nghỉ lễ và nhàn nhã trên đồng cỏ, người ta vẫn còn mặc áo quần ngày Chủ nhật trên các hành lang và trong sân rợp bóng mát, với ly nước chanh hay cốc kem sau bữa ăn. Rồi bọn ta cũng phóng nhanh, Boon nói, “Bây giờ mình sắp tới mấy thị trấn. Nên để tôi cầm lái.” Bọn ta đi tiếp. Thế giới văn minh giờ đây xuất hiện không ngớt: những cửa hàng nông thôn và xóm làng nơi giao lộ; bọn ta vừa qua khỏi một xóm lại gặp ngay xóm khác. Buôn bán nhộn nhịp quanh bọn ta, bầu không khí thực sự đô thị, ngay cả bụi bặm bọn ta làm tung lên và lao vào cũng có mùi vị thành phố trung tâm trong lưỡi và mũi; ngay cả bọn trẻ con và bầy chó cũng không còn chạy ra cổng và hàng rào để nhìn bọn ta cùng ba chiếc ô tô khác bọn ta đã vượt qua trong mười ba dặm cuối.

Rồi hết vùng quê. Không còn khoảng cách giữa các căn nhà, phân xưởng và cửa tiệm; bất chợt trước mặt bọn ta là một đại lộ rộng trồng cây hai bên và ngăn nắp với nhiều đường xe ở giữa; và chắc chắn có cả xe điện chở khách, người soát vé và ông lái xe chỉ việc hạ thấp toa phía sau và nâng phía trước để xoay tròn nó rồi đi ngược về Phố Chính.

“Năm giờ kém hai phút,” Boon nói, “Hai mươi ba tiếng ba mươi phút trước mình còn ở Jefferson, Missippi, cách tám chục dặm. Kỷ lục.” Trước kia ta đã đến Memphis (Ned cũng thế. Sáng nay ông kể với bọn ta, ba mươi phút nữa ông sẽ chứng minh) nhưng luôn luôn bằng xe lửa, chưa bao giờ như thế này: để thấy Memphis lớn ra, rộng lên, để tiêu hóa nó một cách khoan thai như thìa kem trong miệng. Ta đinh ninh là sẽ đến khách sạn Gayoso như bọn ta ‐ tức là ta ‐ vẫn đến. Vì thế ta không biết Boon đoán gì trong đầu lần này. “Mình sẽ tới một loại nhà trọ tôi biết”, ông nói, “Cậu sẽ thích. Tuần trước tôi nhận được lá thư của một trong mấy… quý cô sống ở đó nói thằng cháu cô ấy tới thăm vì vậy cậu sẽ có bạn để chơi cùng. Người nấu bếp cũng sẽ tìm một chỗ cho Ned ngủ”.

“Hề hề hề”, Ned nói. Ngoài những chiếc xe điện còn có xe độc mã và xe ngựa hai chỗ ngồi ‐ xe ngựa bốn bánh, xe nhỏ một ngựa, xe ngựa hai bánh, có chí ít là một chiếc xe ngựa bốn bánh mui trần, lũ ngựa hơi trợn mắt nhìn bọn ta nhưng vẫn bình tĩnh, rõ ràng ngựa Memphis đã quen với ô tô ‐ vì thế Boon không thể quay đầu nhìn Ned. Nhưng ông có thể liếc một mắt.

“Anh muốn nói gì?”, ông hỏi.

“Không”, Ned nói, “Ông cứ nhìn đường mà đi, đừng để ý tới tôi. Đừng để ý tới tôi làm gì. Tôi cũng có bạn ở đây. Ông chỉ cần cho tôi biết sáng mai chiếc ô tô này ở đâu là tôi cũng sẽ ở đó”.

“Anh liệu hồn mà tới”, Boon nói, “Nếu anh nhắm về lại Jefferson trên chiếc này. Tôi với Lucius chưa hề mời anh đi chuyến này, vì vậy anh không phải là trách nhiệm của tôi cũng như cậu ấy. Riêng tôi với Jefferson thì tôi cóc cần biết anh về hay không”.

“Khi mình đem chiếc ô tô này về Jefferson và phải nhìn vào mắt Sếp Priest và ông Maury thì cóc ai trong bọn mình có thời giờ để lo xem ai đó có về hay không”, Ned nói. Nhưng giờ đây đã quá muộn, quá xá muộn để cứ đưa chuyện đó ra. Vì thế Boon chỉ nói.

“Thôi được, thôi được. Tôi chỉ nói nếu anh muốn về Jefferson để bắt đầu lo chuyện cóc có thời giờ để lo của anh thì anh nên ở chỗ nào cho tôi có thể thấy khi tôi lên đường ra về.” Lúc này bọn ta đang tới gần Phố Chính ‐ những tòa nhà cao, cửa hiệu, khách sạn: khách sạn Gaston (bây giờ không còn), Peabody (họ đã rời đi nơi khác) và Gayoso, dòng họ McCaslin‐Edmonds‐Priest bọn ta gắn bó với nó như nhà thờ gia tộc, vì bác và anh họ xa của bọn ta, Theophilus McCaslin, bố của anh Ike, là một thành viên trong đoàn kỵ binh theo huyền thoại kể rằng (đúng vậy, có thể là huyền thoại đối với một số người. Đối với chúng ta là sự kiện lịch sử) em của Tướng Forrest phi nước kiệu dẫn đầu vào tiền sảnh và suýt bắt được một vị tướng quân miền Bắc. Nhưng bọn ta không đi xa tới đó. Boon rẽ vào một đường ngang, gần như một ngõ hẻm, ở góc phố có hai quán rượu và nhà cửa hai bên đường nom không cũ cũng chẳng mới, tất cả rất yên tĩnh, yên như Jefferson chiều Chủ nhật. Boon cũng nói như thế. “Tôi cam đoan cậu nên thấy nó tối hôm qua. Mọi tối thứ Bảy. Hay ngay cả một tối trong tuần lúc có hội nghị của lính cứu hỏa hay cảnh sát hay một hội tương tế nào đó trong thị trấn.”

“Có lẽ họ đã đi dự buổi cầu kinh sớm hết cả”, ta nói.

“Không,” Boon nói, “Tôi không nghĩ vậy. Coi bộ họ đang nghỉ mệt”.

“Nghỉ mệt vì cái gì?”, ta hỏi.

“Hề hề hề”, Ned cười ở ghế sau. Hẳn nhiên bọn ta đang tìm hiểu xem trước kia Ned đã tới Memphis thế nào. Ngay cả ông nội dù có thể biết Ned đi lúc nào, nhưng chắc cũng không biết Ned đi bao nhiêu lần. Và thấy không, ta chỉ mới mười một tuổi. Lần này, đường phố vắng vẻ, vì thế Boon quay đầu lại.

“Còn một chuyện nữa cho anh”, ông bảo Ned.

“Chuyện gì nữa?”, Ned nói, “Tôi đã nói là cứ cho biết sáng mai chiếc xe này ở đâu là tôi sẽ ngồi trên xe lúc nó lên đường”. Vì thế Boon cho biết. Bọn ta sắp tới nơi: căn nhà cần một số lượng sơn tương đương như các nhà khác, trong mảnh sân nhỏ không cỏ nhưng có một phòng ngoài che rèm như nhà lồng ở cửa trước. Boon ngừng xe bên lề đường. Bây giờ ông có thể quay người nhìn Ned.

“Được”, ông nói, “Tôi tin anh. Và anh khôn hồn thì tin tôi. Lúc đồng hồ gõ tám giờ sáng mai. Và tôi nói là về tiếng gõ đầu tiên chứ không phải tiếng cuối cùng. Vì tôi thậm chí không còn ở đây để nghe nó gõ”.

Ned đã bước ra, mang theo cái cặp nhỏ và áo sơ mi vấy bùn. “Ông chưa đủ rắc rối trong đầu hay sao mà còn định vác thêm rắc rối của tôi?”, ông nói. “Nếu ông xong việc của ông ở đây lúc tám giờ sáng mai thì tại sao ông nghĩ tôi không thể xong việc của tôi?”. Ned bước đi. Rồi ông vừa nói vừa tiếp tục bước mà không nhìn lại: “Hề hề hề”.

“Nào,” Boon nói, “Cô Reba sẽ cho mình tắm rửa sạch sẽ”. Bọn ta đi ra. Boon với tay ra phía sau định tìm túi hành lý của ông rồi nói, “Ồ phải”, rồi với qua bảng đồng hồ tốc độ rút chìa khóa ra bỏ vào túi, và định nhặt túi hành lý nhưng ngừng lại, lấy chìa khóa trong túi ra và nói, “Đây. Cậu giữ lấy. Tôi có thể để nó lạc đâu đó. Cất nó kỹ trong túi cậu để khỏi rơi ra. Cậu có thể nhét thêm khăn tay của cậu lên trên.” Ta cầm chìa khóa, ông định với lấy túi hành lý một lần nữa rồi lại ngưng, nhìn vội qua vai về phía nhà trọ rồi hơi quay ngang rút ví trong túi quần sau, mở ví sát người rút ra một tờ năm đô la rồi ngừng lại lấy thêm một tờ một đô la nữa, gấp ví lại và đẩy ví về phía ta khuất sau thân hình ông, nói, vừa nhanh vừa nhỏ: “Giữ cả cái này nữa. Tôi cũng có thể quên nó đâu đó. Khi nào mình cần tiền trong ví thì tôi sẽ nói cho cậu biết bao nhiêu để đưa tôi.” Vì ta cũng chưa bao giờ vào nhà trọ, nên nhớ rằng ta mới mười một. Thế là ta cũng cất ví vào túi, Boon nhặt túi hành lý, bọn ta bước qua cổng lên lối đi bộ vào phòng ngoài có che rèm, rồi tới cửa trước. Boon chưa kịp bấm chuông bọn ta đã nghe tiếng chân bên trong. “Thấy tôi nói với cậu chưa?”, Boon nói nhanh, “Chắc tất cả bọn họ đã nhìn trộm chiếc ô tô sau màn cửa sổ”. Cửa mở ra. Một cô da đen còn trẻ, nhưng trước khi cô kịp mở miệng thì một phụ nữ da trắng đã đẩy cô ra ‐ một cô cũng còn trẻ, khuôn mặt đẹp rắn rỏi và tóc đỏ lòm, trên tai đeo hai viên kim cương màu vàng nhạt lớn chưa từng thấy.

“Trời ơi, Boon”, cô nói, “Lúc Corrie nhận bức điện đó hôm qua, tôi bảo cô ta đánh điện ngay cho anh đừng mang thằng bé tới đây. Tôi đã có một đứa trong nhà cả tuần nay rồi, một đứa quỷ sứ là đủ cho bất kỳ ngôi nhà hay con phố nào. Hay thậm chí cho cả Memphis, nếu đó là thẳng quỷ tụi tôi đang có. Đừng nói dóc là anh không hề nhận được tin”.

“Tôi không nhận được”, Boon nói, “Chắc tụi tôi đã rời khỏi Jefferson trước khi bức điện tới. Vậy cô muốn tôi làm gì với cậu ấy? Trói cậu ấy ngoài sân hả?”.

“Mời vào”, cô nói, lùi khỏi cửa để bọn ta vào; bọn ta vừa vào xong thì cô người làm lại khóa cửa. Lúc ấy ta không biết tại sao, có thể mọi người ở Memphis đều làm như vậy ngay cả khi họ ở nhà. Tiền sảnh giống như mọi nơi khác, có cầu thang đi lên, nhưng ngay lập tức ta ngửi thấy mùi lạ, cả căn nhà có mùi như thế. Ta chưa ngửi thấy mùi ấy bao giờ.

Không phải ta không thích, ta chỉ ngạc nhiên. Ta muốn nói, ngay khi ta ngửi thấy nó thì nó giống như một mùi ta đã đợi suốt đời mình. Ta nghĩ ta sẽ bần thần, không chuẩn bị, chỉ vì gặp một kinh nghiệm mà ta rất có thể cả đời không phải gặp. Nhưng với một kinh nghiệm không thể tránh (ồ, cần thiết), hoàn cảnh, số phận đã thật phũ phàng không chuẩn bị trước cho ta, nhất là khi sự chuẩn bị chỉ đơn giản là đợi tới mười lăm tuổi. Cái thứ mùi ấy. Cô vẫn đang nói. “Anh biết rõ như tôi là ông Binford rất ghét trẻ con dùng nhà này để nghỉ lễ, mùa hè trước anh nghe ông ta nói khi Corrie đem thằng nhóc đó tới đây lần đầu tiên vì cô ấy nói nó không học đủ phong cách lịch sự trên đám ruộng thuê ở Arkansas. Như ông Binford nói, thế nào tụi nó cũng sẽ có ngày tới đây, vậy thì tại sao phải thúc tụi nó trước khi ít ra tụi nó có tiền và có khả năng xài tiền. Chưa kể khách hàng tới đây bàn việc làm ăn để rồi thấy tụi tôi mở nhà trông trẻ khốn kiếp.” Bây giờ bọn ta vào phòng ăn. Phòng có cái máy hát Pianola1. Người phụ nữ vẫn nói, “Nó tên gì?”.

1 Loại đàn dương cầm tự chơi nhạc sau khi được bơm hơi, rất phổ biến hồi cuối thế kỷ 19. (ND)

“Lucius”, Boon nói, “Cậu chào cô Reba đi nào”, ông bảo ta. Ta chào, theo cách ta vẫn làm: Ta đoán là cách mẹ của ông nội dạy ông, và bà nội dạy bố, rồi mẹ dạy chúng ta: cách Ned gọi là “lết chân”. Khi ta đứng thẳng lên, cô Reba nhìn ta. Mặt cô có một cái nhìn đầy tò mò.

“Ối trời ơi”, cô nói. “Minnie, cô thấy chứ? Cô Corrie…”

“Cô ấy đang gấp rút thay áo”, cô người làm nói. Và khi ấy ta thấy. Ta muốn nói là thấy cái răng của Minnie. Ta muốn nói đó là điểm ‐ phải, lý do ‐ ta, cháu, người ta, mọi người, nhớ tới Minnie. Cô có những chiếc răng đẹp làm sao, như những tấm bia thạch cao nhỏ lộng lẫy tương xứng và khắc đều trên khuôn mặt màu sô cô la đậm đà khi cô cười hay nói. Nhưng cô còn nhiều thứ khác. Cái răng giữa hàm trên bên phải bằng vàng, trên gương mặt sẫm màu của cô, nó ngự như bà hoàng giữa màu trắng chói lọi của những cái răng khác, rực rỡ, tỏa sáng như có ngọn lửa âm ỉ bên trong, nó óng ánh chất vàng và có vẻ ánh vàng của nó còn lớn hơn cả hai hạt kim cương vàng nhạt của cô Reba hợp lại. (Về sau ta nghe nói ‐ không biết tại sao ‐ cô đã nhổ cái răng vàng và trồng vào một chiếc răng trắng bình thường, như mọi người khác, và ta thấy buồn. Ta nghĩ, nếu ta cùng chủng tộc và lứa tuổi với cô thì chỉ riêng việc được nhìn cái răng ấy hoạt động bên kia bàn mỗi ngày cũng đáng để ta làm chồng cô, đối với đứa trẻ mười một tuổi như ta hình như mọi thứ thức ăn cái răng ấy nhai đều phải có vị khác, ngon hơn.)

Cô Reba lại quay sang Boon, “Anh đã làm trò gì thế? Vật nhau với lợn hả?”.

“Tụi tôi lọt vào hố bùn dọc đường. Tụi tôi lái lên. Bây giờ chiếc ô tô đang bên ngoài.”

“Tôi thấy nó rồi”, cô Reba nói, “Bọn tôi đều thấy. Đừng nói là của anh. Cứ cho tôi biết cảnh sát có đuổi theo nó không. Nếu có thì đem nó ra khỏi cửa nhà tôi. Ông Binford rất khó chịu về việc có cảnh sát lảng vảng ở đây. Tôi cũng vậy”.

“Chiếc ô tô chẳng sao cả”, Boon nói.

“Thế thì tốt”, cô Reba nói. Cô nhìn ta lần nữa. Cô nói, “Lucius”, một cách bâng quơ, “Xui quá cậu không tới sớm. Ông Binford thích trẻ con. Ông ấy vẫn thích dù đã bắt đầu nghi ngờ, và mới tuần rồi ai chưa hóa đá cũng đều nghi ngờ. Tôi muốn nói là ông ấy vẫn còn hoài nghi và chưa muốn buộc tội Otis nên mới dắt nó đi sở thú ngay sau bữa ăn. Lucius đã có thể đi cùng. Nhưng mặt khác thì có lẽ không nên. Nếu Otis vẫn tiếp tục gây nghi ngờ như trước khi họ đi sở thú thì nó sẽ khỏi quay về ‐ miễn là có cách đưa nó tới gần chuồng để sư tử hay cọp vồ nó ‐ miễn là sư tử hay cọp muốn nó bởi tụi nó sẽ chê nếu tụi nó đã sống một tuần trong cùng nhà với Otis.” Cô vẫn nhìn ta. Cô lại nói, “Lucius”, một cách bâng quơ. Rồi cô bảo Minnie: “Lên lầu nói mọi người ra khỏi phòng tắm trong nửa giờ nữa”. Cô bảo Boon: “Anh có quần áo thay đổi chứ?”.

“Có”, Boon nói.

“Vậy thì tắm rồi thay quần áo, chỗ này đứng đắn, đâu phải ổ cướp. Minnie, cho họ dùng phòng của Vera. Vera đi thăm gia đình cô ấy ở Paducah.” Cô nói với Boon hay có lẽ cả hai chúng ta: “Minnie đã dọn giường cho Otis trên gác sát mái nhà. Lucius có thể ngủ với nó tối nay…”.

Có tiếng chân trên cầu thang, đến tiền sảnh và bên cửa. Lần này là một cô to lớn. Ta không nói là béo: chỉ lớn, lớn như Boon, nhưng vẫn là một cô, cũng trẻ, tóc đen và mắt xanh, lúc đầu ta nghĩ mặt cô trơ. Nhưng cô vừa vào phòng đã nhìn ta, và ta biết mặt cô chẳng có vấn đề gì. “Ê, cưng”, Boon nói. Nhưng cô không chú ý tới ông, cô và cô Reba đều nhìn ta.

“Xem này”, cô Reba nói, “Lucius, đây là cô Corrie”. Ta lại cúi chào. “Thấy tôi nói chưa?”, cô Reba nói. “Cô đem thằng cháu của cô qua đây tìm phong cách lịch sự. Thì đây, lịch sự đang đợi nó đây. Nó không biết lịch sự nghĩa là làm sao, nói gì tới tại sao nó phải làm. Nhưng có lẽ Lucius ít ra có thể dạy nó bắt chước. Được rồi”, cô bảo Boon, “đi tắm đi”.

“Có thể Corrie tới giúp bọn tôi”, Boon nói. Ông nắm tay cô Corrie. “Ê, cưng”, ông lại nói.

“Đừng trông như con chuột sũng nước trên cái ghe ọp ẹp,” cô Reba nói. “Tôi muốn giữ cho chỗ khốn kiếp này có vẻ đứng đắn trong ngày Chủ nhật.”

Minnie chỉ cho bọn ta phòng ngủ và phòng tắm trên lầu, đưa bọn ta mỗi người một bánh xà phòng và chiếc khăn tắm rồi đi ra. Boon đặt hành lý của ông lên giường, mở ra lấy áo sơ mi sạch và cái quần khác. Đó là quần thường ngày của ông, nhưng quần mặc ngày Chủ nhật ông đang có trên người sẽ không thể mặc ở đâu trước khi được giặt, có lẽ bằng xăng. “Cậu thấy chưa?”, ông nói, “Tôi đã bảo cậu rồi. Tôi đã cố hết sức bảo cậu mang theo ít nhất một cái sơ mi sạch”.

“Áo cháu không lấm bùn”, ta nói.

“Nhưng trên nguyên tắc cậu nên mặc một cái áo mới sau khi tắm.”

“Cháu không tắm”, ta nói, “Hôm qua cháu tắm rồi”.

“Tôi cũng vậy”, ông nói, “Nhưng cậu nghe cô Reba nói chứ?”.

“Cháu có nghe”, ta nói, “Cháu chưa bao giờ biết một bà nào ở bất kỳ đâu mà bắt người ta tắm”.

“Vài giờ nữa cậu sẽ biết cô Reba, cậu sẽ thấy cậu học được thêm một số điều nữa về các bà: đó là khi cô ấy đề nghị cậu làm cái gì thì tốt nhất là cậu làm trong khi cậu còn đang ngẫm nghĩ xem có làm hay không.” Ông đã lấy bộ quần áo kia ra. Lấy một bộ quần áo trong túi hành lý ra không mất nhiều thời giờ, nhưng hình như ông gặp khó khăn, chủ yếu là để nó xuống sau khi lấy ra, không nhìn ta, cúi trên túi hành lý đã mở, tíu tít, một tay cầm sơ mi trong khi ngẫm nghĩ chỗ đặt cái quần, rồi đặt áo lên giường và lại nhặt quần lên đặt nó trên giường cách độ một gang tay, rồi lại nhặt áo lên và đặt nó ở chỗ cái quần; khi ấy ông hắng giọng ầm ĩ và đi tới cửa sổ, mở cửa, nghiêng người ra phun nước bọt, rồi đóng cửa và trở lại giường, không nhìn ta, nói to, như một người lên lầu trước tiên vào buổi sáng Giáng sinh và kể cho ta món quà ta có ở cây Giáng sinh khác với món ta viết thư cho ông già Noel:

“Hay ghê không, trong một thời gian ngắn mà học được nhiều thứ, những thứ mình chưa hề biết, thậm chí không biết mình có muốn biết hay không, nói gì thấy nó có ích trong đời mình hay không ‐ miễn là mình giữ lấy nó, đừng bao giờ làm mất nó. Chẳng hạn như cậu. Thử nghĩ coi. Chẳng phải mới từ sáng hôm qua, chưa tới hai ngày trước, nghĩ coi cậu đã học được bao nhiêu thứ: lái ô tô, vượt đồng quê tới Memphis mà không cần xe lửa, thậm chí cách lôi chiếc ô tô ra khỏi hố bùn. Để khi cậu lớn và có chiếc ô tô riêng của cậu thì cậu đã biết lái nó và biết cả đường tới Memphis nữa, và thậm chí biết cách lôi nó ra khỏi hố bùn.”

“Sếp nói khi cháu đủ lớn để có một chiếc ô tô thì sẽ không còn hố bùn để bị mắc kẹt. Đường sá khắp nơi sẽ đủ cứng và phẳng phiu để ô tô đủ phổ biến để mà ngân hàng tịch biên thu nợ, hay thậm chí xe cũ mòn rồi mà vẫn chưa gặp hố bùn.”

“Đúng, đúng”, Boon nói, “Được rồi, được rồi. Dù không còn cần biết cách ra khỏi hố bùn thì ít ra cậu vẫn biết cách. Tại sao? Vì cậu không vứt điều cậu biết đi cho ai”.

“Cháu vứt nó đi cho ai?”, ta hỏi, “Ai muốn biết, nếu không còn hố bùn nữa?”.

“Được, được”, Boon nói, “Cứ nghe tôi nói một lát được không? Tôi không nói về hố bùn. Tôi nói về những thứ một anh chàng có thể học mà thậm chí trước kia chưa bao giờ nghĩ tới, mãi mãi về sau, khi cậu ta cần tới nó thì cậu ta đã biết. Vì không có gì cậu học được mà không có ngày cậu cần tới nó hay thấy nó có ích ‐ miễn là cậu còn nó, không tình cờ làm mất nó, hay tệ hơn nữa, vứt nó đi vì bất cẩn hay chỉ vì kém suy xét. Bây giờ cậu hiểu tôi nói gì chứ? Rõ chứ?”.

“Cháu không biết”, ta nói, “Chắc là hiểu, nếu không ông cứ nói liên miên”.

“Thôi được”, ông nói, “Đó là điểm thứ nhất. Bây giờ tới điểm thứ hai. Tôi với cậu là bạn thân từ hồi mình mới biết nhau, mình đi chung một chuyến đi thú vị; cậu đã học được vài thứ trước kia cậu chưa hề thấy hay nghe, và tôi hãnh diện là người đã đi cùng và giúp cậu học hỏi. Tối nay, cậu sẽ học thêm mấy thứ nữa, tôi cũng không nghĩ trước kia cậu đã bao giờ nghĩ tới ‐ mấy thứ, thông tin và việc làm mà nhiều người ở Jefferson và mấy nơi khác sẽ tìm cách nói cậu chưa đủ lớn để bận tâm biết về nó. Nhưng mặc kệ, một đứa con trai không những đã học lái ô tô mà còn biết cách lái nó tới Memphis và lôi nó ra khỏi cái hố bùn tư nhân chó đẻ đó nữa, tất cả trong một ngày, thì cậu ta quá đủ lớn để đối phó với bất kỳ cái gì cậu ta sẽ gặp. Nhưng…”, ông lại ho sặc sụa, khạc và đi tới mở cửa sổ, rồi lại nhổ nước bọt và đóng cửa lại lần nữa. Rồi ông trở lại.

“Và đây là điểm thứ ba. Thứ tôi muốn cậu chú ý. Mọi thứ một người đàn ô… một anh ch… một cậu nhóc thấy, học và nghe, ngay cả nếu cậu ta lúc đó chưa hiểu và thậm chí không thể tưởng tượng mình sẽ có ngày dùng nó, một ngày nào đó cậu ta sẽ dùng nó và sẽ cần nó, miễn là cậu ta còn nó và không vứt nó đi cho ai. Khi ấy cậu ta sẽ cảm ơn số phận của mình, vì người bạn tốt đã là bạn của cậu ta từ ngày còn cõng cậu ta như đứa bé trên lưng đi quanh chuồng ngựa cho thuê và giúp cậu ta cưỡi ngựa lần đầu tiên, đã kịp thời báo trước để cậu ta đừng vứt nó đi và làm mất nó vì đãng trí hay rủi ro hay xui xẻo, hay ngay cả có thể bép xép với bạn bè về chuyện chẳng dính dáng tới ai ngoài họ…”

“Ông muốn nói khi mình về nhà thì đừng kể với Sếp hay bố hay mẹ hay bà nội những gì cháu thấy trong chuyến đi lên đây. Đúng không?”

“Cậu đồng ý không?”, Boon nói, “Chẳng phải rõ ràng là nó nhạy cảm và chẳng dính líu tới ai ngoài cậu với tôi hay sao? Cậu đồng ý không?”.

“Vậy thì tại sao ông không nói thẳng ra?”, ta nói. Chỉ là ông vẫn nhớ bắt ta tắm lần nữa, phòng tắm còn bốc mùi hơn. Ta không nói nồng mùi, ta chỉ nói là hơn. Ta không biết nhiều về nhà trọ, có lẽ họ có nhà trọ chỉ dành cho phụ nữ. Ta hỏi Boon, lúc ấy bọn ta đang xuống thang, trời bắt đầu tối và ta đói.

“Cậu nói đúng lắm, toàn các quý cô”, ông nói. “Nếu tôi bắt gặp cậu định tỏ ra hỗn láo với bất kỳ ai trong số họ…”

“Cháu muốn nói không có đàn ông ở trọ nơi này à?

Sống ở đây ý?”

“Không. Không ông nào sống thường trực ở đây, trừ ông Binford và chẳng ai ở trọ cả. Nhưng ở đây họ rất đông khách ra vào sau giờ ăn tối, cậu sẽ thấy. Dĩ nhiên bây giờ là tối Chủ nhật, ông Binford rất khó tính trong ngày Chủ nhật: không nhảy múa hay đùa giỡn, chỉ tới thăm bạn bè quen một cách yên lặng và lịch sự, và đừng phí phạm quá nhiều thời gian, ông Binford nghiêm khắc bắt họ giữ yên lặng và lịch sự khi ở đây. Thật ra cả mấy tối trong tuần ổng cũng vậy. À tôi chợt nhớ. Cậu chỉ cần giữ yên lặng và lịch sự, ngồi chơi, nghe cho kỹ nếu ổng bỗng nói với cậu điều gì, vì lần đầu ổng nói không lớn lắm và ổng không thích khi có ai bắt ổng phải nói hai lần. Lối này. Chắc họ đang ở trong phòng cô Reba.”

Họ là: cô Reba, cô Corrie, ông Binford và Otis. Cô Reba lúc này mặc đầm đen và đeo thêm ba viên kim cương nữa, cũng vàng nhạt. Ông Binford nhỏ bé, nhỏ nhất trong phòng, trừ Otis và ta. Ông mặc bộ vét Chủ nhật màu đen, khuy vàng cài áo, sợi dây lớn bằng vàng đeo đồng hồ, bộ ria mép rậm, và cây gậy bịt vàng, mũ quả dưa và cốc rượu trên bàn cạnh khuỷu tay ông. Nhưng thứ đầu tiên ta chú ý là cặp mắt ông, vì điều đầu tiên ta phát hiện ra là ông đã đang nhìn mình. Otis cũng mặc bộ áo Chủ nhật của nó. Nó không lớn bằng ta, nhưng nom nó có điều gì trục trặc.

“Chào anh, Boon”, ông Binford nói.

“Chào ông Binford”, Boon nói. “Đây là bạn tôi.

Lucius Priest.” Nhưng khi ta cúi chào thì ông chẳng nói gì. Ông chỉ không nhìn ta nữa. “Reba”, ông nói, “rót một ly cho Boon với Corrie. Bảo Minnie pha nước chanh cho mấy đứa nhỏ này”.

“Minnie đang sửa soạn bữa ăn tối”, cô Reba nói. Cô mở khóa cửa tủ. Trong đó giống như quầy rượu ‐ một kệ ly, kệ khác để chai lọ. “Vả lại, cháu của Corrie không thích nước chanh như cháu của Boon. Nó thích bia.”

“Tôi biết”, ông Binford nói, “Nó lẻn trốn tôi ở công viên. Đáng lẽ nó đã uống rượu nhưng nó không tìm được ai vào quán mua cho nó. Thằng nhỏ của anh cũng là đứa bia bọt, phải không Boon?”.

“Không thưa ông”, ta nói, “Cháu không uống bia”.

“Sao vậy?”, ông Binford nói, “Mày không thích hay mày không kiếm được?”.

“Không thưa ông”, ta nói, “Cháu chưa đủ lớn”. “Vậy thì rượu nhé?”, ông Binford hỏi.

“Không thưa ông,” ta nói, “Cháu không uống thứ nào cả. Cháu đã hứa với mẹ là cháu sẽ không uống trừ phi bố hay Sếp mời cháu”.

“Ai là sếp của nó?”, ông Binford hỏi Boon.

“Cậu ấy muốn nói ông nội của cậu ấy”, Boon nói.

“Ồ”, ông Binford nói, “Cái ông chủ chiếc ô tô. Vậy thì rõ ràng là đâu có ai hứa với ông ta cái gì”.

“Ông khỏi cần hứa”, Boon nói, “Ông ấy bảo ông làm cái gì là ông làm cái đó”.

“Anh nói như anh thỉnh thoảng cũng gọi ông ta là sếp”, ông Binford nói.

“Đúng vậy”, Boon nói. Ta muốn nói ông Binford là như vậy: Ông ta đã nhìn ta ngay cả từ trước khi ta nhận ra.

“Nhưng mẹ mày bây giờ không có ở đây”, ông nói, “Mày bây giờ đang chè chén với Boon. Cách tám chục dặm phải không?”.

“Không, thưa ông,” ta nói, “Cháu đã hứa với mẹ”.

“Tao hiểu”, ông Binford nói, “Mày chỉ hứa với bả là mày sẽ không nhậu với Boon. Mày đâu có hứa sẽ không tới ổ điếm với hắn”.

“Đồ chó đẻ!”, cô Reba thét lên. Ta không biết nói sao. Không rời chỗ, cô và cô Corrie chồm lên, bật lên, đồng thời, cô Reba một tay cầm chai rượu và tay kia cầm ba cái ly.

“Được rồi”, ông Binford nói.

“Đồ quỷ”, cô Reba nói, “Tôi có thể tống cổ anh ra luôn.

Đừng nghĩ tôi không làm. Ăn nói kiểu quái gì vậy?”.

“Cả cô nữa!”, cô Corrie nói với cô Reba, “Cô cũng tệ! Ngay trước mặt tụi nhỏ…”.

“Tôi đã nói được rồi mà”, ông Binford nói. “Một đứa không kiếm ra bia, còn đứa kia không uống, vậy có lẽ cả hai đứa chỉ tới đây để biết phong cách lịch sự và học hỏi. Cứ coi như tụi nó vừa mới được học vài thứ. Tụi nó vừa mới biết gái điếm và đồ chó đẻ là hai chữ phải suy nghĩ hai lần trước khi bóp cò vì cả hai đều có thể nổ ngược.”

“Thôi nào, ông Binford”, Boon nói.

“Sao vậy, thật chết tiệt nếu đây không phải một con lợn khác trong bãi sình này”, ông Binford nói. “Một con bự nữa kìa. Nào, cô Reba, trước khi tụi này nghẹt thở vì ẩm ướt.” Cô Reba rót rượu, tay cô run, vừa gõ cái chai lách cách trên miệng ly vừa nói đồ chó đẻ, đồ chó đẻ, đồ chó đẻ, bằng giọng thì thầm dữ tợn đặc sệt. “Như vậy hay hơn”, ông Binford nói. “Mình làm hòa xem sao. Nào nâng ly chúc hòa bình.” Ông nâng ly và nói, “Thưa quý bà quý ông”, lúc ấy có người ‐ ta đoán là Minnie ‐ lắc chuông ở phía sau. Ông Binford đứng lên. “Hay quá”, ông nói, “Đúng lúc. Chúng ta hãy học phong cách lịch sự và có giáo dục để mở miệng đàng hoàng hơn là phê phán riêng tư”.

Bọn ta trở lại phòng ăn, không nhanh, ông Binford dẫn đầu. Lại có tiếng chân, đi nhanh, thêm hai người nữa, hai cô ‐ đúng vậy, một trong hai người vẫn còn trẻ ‐ vừa vội vàng xuống lầu vừa cài cúc áo, một cô mặc váy đỏ, cô kia váy hồng, hơi hổn hển. “Tụi tôi đã nhanh nhẹn hết sức”, một cô nói nhanh với ông Binford. “Tụi tôi chưa trễ.”

“Tôi mừng là như thế”, ông Binford nói. “Tối nay tôi không thích trễ.” Bọn ta đi vào. Bàn còn dư chỗ, ngay cả khi có thêm Otis và ta. Minnie đang mang các thứ ra, toàn nguội lạnh ‐ gà rán và bánh quy và rau còn thừa từ bữa ăn trước, ngoại trừ món của ông Binford. Món ăn của ông nóng: không phải một đĩa, mà là món bíp tết bốc khói với hành tây ở chỗ ông ngồi. (Thấy chưa? Thấy ông Binford đi trước thời đại chưa? Đã là một đảng viên Cộng hòa. Ta không nói là đảng viên Cộng hòa hồi 1905, ta không biết chính trị ở bang Tennessee của ông ra sao, hay ông có lập trường chính trị gì không, ta muốn nói tới đảng viên Cộng hòa năm 1961. Ông ta còn hơn vậy nữa, ông là một nhà Bảo thủ. Như thế này: Một đảng viên Cộng hòa là kẻ làm ra tiền, một đảng viên Tự do là kẻ được thừa kế tiền, một đảng viên Dân chủ là một đảng viên Tự do chạy chân trần trong cuộc đua việt dã, một nhà Bảo thủ là một đảng viên Cộng hòa đã biết đọc biết viết). Tất cả chúng ta ngồi xuống, kể cả hai cô mới tới, giờ đây ta đã gặp nhiều người tới nỗi ta không biết tên và không định biết. Vả lại, ta không bao giờ gặp lại hai cô này. Chúng ta bắt đầu ăn. Có lẽ lý do khiến miếng bíp tết của ông Binford thơm đặc biệt là vì các món còn lại đã có mùi từ hồi trưa. Khi ấy một trong hai cô mới tới ‐ cô không còn trẻ ‐ nói:

“Phải không, ông Binford?”, bây giờ cô kia, cô trẻ, cũng ngừng ăn.

“Phải cái gì?”, ông Binford hỏi.

“Ông biết mà”, cô trẻ nói, thốt lên. “Cô Reba,” cô nói, “cô biết tụi tôi cố hết sức ‐ không dám làm ồn ‐ không nhạc nhẽo vào ngày Chủ nhật khi mọi nơi khác có nhạc ‐ luôn luôn suỵt khách hàng của tụi tôi mỗi khi họ muốn vui nhộn thêm một chút ‐ nhưng nếu tụi tôi không ngồi vào chỗ của tụi tôi trong phòng ăn này khi ông ấy thò mũi vào cửa thì thứ Bảy sau tụi tôi phải bỏ hai mươi lăm xu vào cái hộp trời đánh đó…”.

“Đó là luật của nhà này”, ông Binford nói. “Một cái nhà không có luật không phải là một cái nhà. Khó khăn của hội chó cái tụi bay là đôi khi tụi bay phải cư xử như các mệnh phụ, nhưng tụi bay không biết cách. Bây giờ tao đang dạy tụi bay.”

“Ông không được nói với tôi kiểu đó”, cô lớn hơn nói.

“Được”, ông Binford nói. “Mình sẽ nói ngược lại. Khó khăn của lũ mệnh phụ các bà là các bà không biết cách nào đừng cư xử như chó cái.”

Cô lớn hơn đứng lên. Cô cũng có vẻ gì trục trặc. Không phải vì cô già, như kiểu già của bà nội, vì cô không già. Cô đơn độc. Chỉ vì cô không nên có mặt ở đây, đơn độc, để phải chịu chuyện này. Không, cũng không đúng. Không ai phải chịu chuyện này một mình bao giờ, không ai, không bao giờ.

Cô nói, “Xin lỗi cô Reba. Tôi dọn ra. Tối nay”.

“Đi đâu?”, ông Binford nói. “Qua bên kia đường tới Birdie Watts hả? Có thể cô ta cho mày mang rương hòm theo lần này ‐ trừ phi cô ta bán nó rồi.”

“Cô Reba”, người đàn bà nói nhỏ. “Cô Reba.”

“Được rồi”, cô Reba nói nhanh. “Ngồi xuống và ăn đi, cô sẽ chẳng đi đâu cả. Và” cô nói, “tôi cũng thích hòa bình. Vì vậy tôi sẽ nhắc thêm một điều, rồi mình dẹp chuyện này cho xong.” Cô nói với ông Binford ở đầu bàn, “Anh bị cái quỷ gì vậy? Chiều nay có chuyện quái quỷ gì với anh để rồi anh bày ra cái thứ hài hước chết tiệt này?”.

“Tôi không thấy có vấn đề gì”, ông Binford nói.

“Đúng vậy”, Otis bỗng nói. “Chắc chắn không có chuyện gì xảy ra. Thậm chí nó không thèm chạy.” Có điều gì như điện vụt thoáng qua, cô Reba ngồi há miệng, cái nĩa của cô mới đi được nửa đường tới miệng. Ta chưa hiểu nhưng mọi người đã hiểu, kể cả Boon. Và ngay phút sau, ta cũng hiểu.

“Ai không chạy”, cô Reba nói.

“Con ngựa”, Otis nói. “Con ngựa kéo chiếc độc mã mình cược vào trong cuộc đua. Phải không ông Binford?” Giờ đây sự im lặng không chỉ là điện: Nó giật, giật chết người. Nhớ ta đã kể Otis có điều gì trục trặc chứ. Dù ta vẫn chưa nghĩ như vậy, hay ít ra chưa hoàn toàn nghĩ như vậy. Nhưng cô Reba vẫn đang đấu tranh. Vì phụ nữ thật tuyệt vời. Họ có thể chịu đựng bất kỳ điều gì vì họ đủ thông minh để biết rằng với chuyện buồn và rắc rối họ chỉ phải bước xuyên qua nó. Ta nghĩ họ có thể làm như thế vì họ không đề cao nỗi đau thể xác bằng cách coi trọng nó, mà họ còn không biết xấu hổ vì bị đánh gục. Cô không bỏ cuộc, ngay cả lúc ấy.

“Đua ngựa”, cô nói, “Ở sở thú? trong công viên Overton?”.

“Đâu phải công viên Overton”, Otis nói. “Trường đua. Bọn cháu gặp một ông trên xe điện biết con ngựa kéo chiếc độc mã nào sẽ thắng, bọn cháu đổi ý không đi Công viên Overton. Nhưng nó không thắng, phải không ông Binford? Nhưng ngay cả khi đó mình vẫn chưa thua nhiều như ông ta, mình thua chưa tới bốn chục đô vì ông Binford cho cháu hai mươi lăm xu để đừng nói, vì thế mình chỉ thua ba mươi chín đô bảy mươi lăm xu. Chỉ phải cái là, thêm vào đó, hai mươi lăm xu của cháu rơi khỏi tay cháu vào đám bia bọt ông Binford đã kể. Phải không ông Binford?” Rồi lại im lặng. Khá yên bình. Rồi cô Reba nói:

“Đồ chó đẻ.” Cô nói tiếp, “Nào. Ăn cho xong miếng bíp tết của mày trước đi nếu mày muốn.” Và ông Binford cũng không là kẻ bỏ cuộc. Ông cũng kiêu hãnh: không ban ân huệ và cũng không nhận ân huệ, như con gà chọi. Ông đặt chéo con dao và cái nĩa của ông gọn gàng từ tốn trên miếng bíp tết chưa cắt nhát nào, thậm chí ông gấp khăn ăn và xỏ nó lại qua khoen, rồi đứng lên nói:

“Xin lỗi mọi người”, và đi ra, chẳng nhìn ai, ngay cả Otis.`

“Ôi Chúa ơi”, cô trẻ hơn trong hai cô mới tới, thốt. Khi ấy ta thấy Minnie đang đứng nơi cửa bếp mở hé. “Ai mà ngờ?”

“Cút xéo khỏi đây”, cô Reba bảo cô gái. “Cả hai cô.” Cô trẻ và cô lớn đứng vội lên.

“Cô nói … cuốn gói?”, cô trẻ hỏi.

“Không”, cô Corrie nói. “Cứ ra khỏi đây thôi. Nếu các cô không đang đợi ai thì tại sao các cô không tản bộ quanh khu nhà hay đi đâu đó?” Họ cũng chẳng bỏ phí thời giờ. Cô Corrie đứng lên. “Cả mày nữa,” cô bảo Otis. “Lên lầu vào phòng mày rồi ở trong đó.”

“Nó phải đi qua cửa phòng cô Reba,” Boon nói. “Cô quên hai mươi lăm xu đó rồi à?”

“Hơn hai mươi lăm xu,” Otis nói. “Tổng cộng tám mươi lăm xu cháu bơm cái pee a noler2 cho họ nhảy hôm tối thứ Bảy. Khi ông ấy biết được vụ bia bọt, ông ấy tịch thu của cháu luôn.” Nhưng cô Reba nhìn nó.

2 Tức Pianola, hay còn gọi là player piano, một loại đàn piano có một cơ chế máy móc để có thể tự chơi nhạc, được phát minh vào khoảng những năm 80 thế kỷ XIX. (BV)

“Vì vậy mày bán ông ta lấy tám mươi lăm xu”, cô nói.

“Vào bếp”, cô Corrie bảo Otis. “Cho nó vào đó, Minnie.” “Vâng”, Minnie nói. “Tôi sẽ cố giữ cậu ấy tránh xa thùng nước đá. Nhưng cậu ấy nhanh lắm.”

“Chết tiệt, để nó ở đây”, cô Reba nói. “Bây giờ quá muộn rồi. Đáng lẽ nên đưa nó đi chỗ khác trước khi nó xuống khỏi chuyến xe lửa Arkansas tuần trước.” Cô Corrie đi tới cái ghế bên cạnh cô Reba.

“Sao cô không đi giúp ông ấy xếp khăn gói?”, cô nói, khá dịu dàng.

“Trách cái quái gì ai?”, cô Reba nói. “Tôi tin hắn từng đồng xu kiếm được. Trừ lũ ngựa trời đánh.” Cô bỗng đứng dậy, thân hình cô lộng lẫy thon thả với khuôn mặt đẹp rắn rỏi và mái tóc rực đỏ. “Vì cái quái gì mà tôi không thể thiếu hắn vậy?”, cô nói. “Vì cái quái gì?”

“Nào, nào”, cô Corrie nói. “Cô cần uống một ngụm. Đưa Minnie chìa khóa… Khoan, cô ấy chưa vào phòng cô được…”

“Ông ấy đi rồi”, Minnie nói. “Tôi nghe tiếng cửa trước. Ông ấy chẳng cần mất nhiều thời gian. Chẳng bao giờ cần.”

“Ừ đúng”, cô Reba nói. “Tôi và Minnie đã gặp cảnh này rồi, phải không Minnie?”, cô đưa Minnie chìa khóa rồi ngồi xuống, Minnie đi ra rồi trở lại với chai rượu gin, và cả bọn họ đều có cốc gin, cả Minnie (tuy cô không chịu uống cùng với bằng này người da trắng, mỗi lần cô mang cốc rượu đầy về bếp rồi lát sau tái xuất hiện với cốc rượu cạn), ngoại trừ Otis và ta. Và thế là ta biết về ông Binford.

Ông là chủ đất. Đó là vai trò chính thức của ông dù không có danh hiệu và chức vụ trên giấy tờ. Mọi nơi, mọi nhà như nhà này, đều có một ông, phải có một ông. Đối với thế giới xa lạ bên ngoài, đủ may mắn không phải kiếm sống bằng cách khó khăn bi đát và tự hủy hoại bản thân, ông có một cái tên hắc ám và đáng khinh hơn. Nhưng ở đây, là người đàn ông duy nhất trong một nhà toàn đàn bà và cả trong sự cuồng loạn của họ, ông không chỉ là chúa tể mà là một tác nhân bị đối xử vô ơn và bạc bẽo, một thế lực mỏng manh mang vẻ đáng kính đủ để giữ sự cuồng loạn trong vòng trật tự cho căn nhà khỏi bị tan biến hay ăn mòn ‐ ông là kẻ đếm tiền, nhận hóa đơn thuế và điện nước, giao dịch với kẻ giao hàng từ bọn lái rượu tới chủ tiệm tạp hóa và nhà buôn than, xuống tới đám thợ ống nước làm tan băng những ống nước đông giá và bọn thợ linh tinh thông ống khói lò sưởi, quét máng xối và cắt cỏ dại trong sân; ông là tay trả tiền hối lộ cho pháp luật; ông là tiếng nói trong những trận chiến vô vọng với bọn ủy viên khu phố và hội đồng định giá, và là tiếng chửi rủa bọn trẻ giao báo sau ngày báo không được giao. Và đối đối với giới này (ta muốn nói đến giới chủ đất), trong xã hội, thì ông Binford là chúa trùm và cự phách: Một người có phong cách, dáng vẻ, cử chỉ và lý tưởng; không chao đảo về nguyên tắc, không tì vết về đạo đức, trung thành hơn nhiều ông chồng trong suốt năm năm ông là tình nhân của cô Reba: Ông chỉ có duy nhất một tật xấu là cá cược ngựa đua. Ông không cưỡng được, ông biết đó là chỗ yếu của ông và ông chiến đấu chống lại nó. Nhưng mỗi lần, khi tiếng “Xuất phát!” kêu lên, ông là con cờ trong tay của bất kỳ kẻ xa lạ nào có một đô la đánh cá.

“Ổng tự biết”, Minnie nói. “Ổng xấu hổ với chính ổng và cho chính ổng, vì yếu đuối so với bất cứ thứ gì lớn hơn ổng; bởi vì phát hiện ra ổng không hơn gì ổng từng gặp, ổng bất cần ở đâu hay điều gì. Ngay cả ở bên ngoài, với những ai không biết ổng thì ổng chỉ như con gà trống bé hạt tiêu. Vì vậy ổng hứa với bọn mình và giữ lời, như đã hứa hai năm trước, khi mình rốt cuộc phải đuổi ổng ra. Cô nhớ lần đó đem ổng về vất vả biết chừng nào”, cô bảo cô Reba.

“Tôi nhớ”, cô Reba nói. “Rót nữa đi.”

“Tôi không biết ổng sẽ xoay xở ra sao”, Minnie nói. “Vì khi ổng đi, ổng chẳng đem theo cái gì ngoài quần áo, tôi nói chỉ bộ quần áo ổng mặc trên người, vì những thứ khác là tiền của cô Reba. Nhưng chưa tới hai ngày nữa là sẽ có đứa tới gõ cửa đòi bốn chục đô không thiếu một xu…”

“Cô muốn nói ba mươi chín đô, bảy mươi lăm xu”, Boon nói.

“Không”, Minnie nói. “Toàn bộ bốn chục đô, ngay cả hai mươi lăm xu đó là của cô Reba phải trả. Hắn sẽ không chịu kém. Rồi cô Reba sẽ gọi cho tìm ổng nhưng ổng sẽ không tới, năm ngoái khi tụi tôi rốt cuộc tìm thấy ổng thì ổng đang làm việc với một toán đặt ống cống mãi tận nhà ga Frisco cho tới khi cô ấy phải quì xuống năn nỉ ổng…”

“Ê”, cô Reba nói. “Im cái miệng lại rót rượu đi chứ.” Minnie định rót. Rồi cô ngừng, cái chai lơ lửng.

“Cái gì kêu réo đó?”, cô nói. Bây giờ tất cả bọn ta đều nghe thấy tiếng oang oang văng vẳng từ đâu đó phía sau nhà.

“Đi xem xem là cái gì”, cô Reba nói, “Nào, đưa tôi chai rượu.” Minnie đưa cô chai rượu rồi quay trở lại bếp. Cô Reba rót rồi chuyền cái chai.

“Bây giờ ổng lớn hơn hai tuổi”, cô Corrie nói. “Ổng sẽ biết lẽ phải…”

“Hắn giữ lẽ phải làm gì?”, cô Reba nói. “Thôi. Bỏ qua nó đi.” Minnie trở lại. Cô nói:

“Một ông đứng trong sân sau réo gọi ông Boon Hogganbeck từ vách tường sau nhà. Ổng có đem cái gì bự theo với ổng.”

Bọn ta theo sau Boon chạy qua bếp ra hàng hiên sau nhà. Lúc này trời rất tối, trăng chưa đủ cao để nhìn rõ. Hai vật mờ, một nhỏ và một lớn đang đứng giữa sân sau, vật nhỏ réo, “Boon Hogganbeck! Ông Boon Hogganbeck! Ê lô. Ê lô”, hướng lên cửa sổ trên lầu tới khi Boon át giọng ông ta bằng một tràng:

“Câm đi! Câm đi! Câm đi!”

Đó là Ned. Vật ông dắt theo là con ngựa.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 16
  • Sau