M
ặc dầu những ấn tượng trong buổi gặp gỡ, và như người ta nói, ở đây ai cũng “bộc lộ mình ra”, mối quan hệ giữa ông cậu Édouard và Bernard chỉ tốt đẹp vừa phải thôi. Cả Laura nữa cũng chẳng cảm thấy được hài lòng. Mà nàng hài lòng thế nào được? Hoàn cảnh đã buộc nàng phải đảm nhận một vai trò chẳng hợp với bản chất của mình; nết đứng đắn của nàng làm nàng lúng túng. Giống như những người giàu lòng yêu thương và dễ bảo trở thành các bà vợ tận tâm nhất kia, nàng cần đến những lề thói để làm chỗ dựa và cảm thấy rã rời từ khi bị trật ra khỏi khuôn phép. Tình thế của nàng đối với Édouard ngày càng tỏ ra lạc điệu hơn. Nàng khổ tâm không sao chịu nổi mỗi khi nghĩ đến chuyện phải sống nhờ vào người bảo trợ ấy, hay đúng hơn là chẳng đền đáp ông được gì, hay chính xác hơn nữa là Édouard chẳng đòi hỏi nàng phải đền đáp trong khi nàng cảm thấy sẵn sàng đáp lại tất cả. Theo Montaigne21 thì Tacite22 nói rằng: “Các ân nghĩa chỉ dễ chịu chừng nào ta có thể đền ân trả nghĩa”; và điều đó chắc chắn chỉ đúng với những tâm hồn cao thượng, nhưng Laura rõ ràng là thuộc vào số đó. Trong khi muốn trao tặng thì nàng lại là người luôn luôn được nhận, và vì thế nàng đâm ra bực bội với Édouard. Hơn nữa, khi nhớ lại quá khứ, nàng nghĩ là Édouard đã lừa dối bằng cách làm thức dậy ở nàng một mối tình nàng cảm thấy còn dai dẳng, sau đó lẩn tránh bỏ mặc cho tình yêu ấy chẳng biết sử dụng làm gì. Phải chăng đấy là lý do thầm kín dẫn tới những lầm lỡ của nàng, dẫn tới cuộc hôn nhân của nàng với Douviers mà nàng đành cam chịu, Édouard đã đẩy nàng đến cuộc hôn nhân ấy; rồi ngay sau đó dẫn tới việc nàng nhắm mắt đưa chân theo những lời khẩn khoản của tiết xuân? Bởi vì, nàng phải thú nhận với lòng mình, chính là nàng tìm kiếm Édouard ngay khi ở trong vòng tay của Vincent. Và chẳng hiểu vì sao tình nhân lạnh lùng, nàng cho là mình phải chịu trách nhiệm, giá như xinh đẹp hơn, hoặc bạo dạn hơn, có lẽ nàng đã thắng được cái lạnh lùng đó rồi; và chẳng làm sao ghét bỏ được ông, nàng buộc tội chính mình, dè bỉu mình, chối bỏ mọi giá trị của mình, và thủ tiêu lý do tồn tại của bản thân và chẳng thừa nhận mình có đức tính gì nữa.
21 Montaigne (1533 - 1592): Nhà văn Pháp.
22 Tacite (khoảng 55 - 120): Sử gia La Mã.
Còn phải nói thêm là cách bố trí các phòng gây ấn tượng như sống trong trại lính, có thể các bạn đồng hành của nàng cảm thấy hay hay, còn nàng thì ngượng ngập đủ điều. Tình huống đó thật khó mà kéo dài được, mà nàng thì chẳng hé thấy một lối thoát nào cả.
Laura chỉ thấy đôi chút an ủi và vui vui bằng cách bày đặt ra cho mình những nghĩa vụ mới với tư cách là mẹ đỡ đầu hoặc là chị của Bernard. Nàng cảm thấy rõ cậu thiếu niên duyên dáng đó sùng bái nàng; chính vì được tôn thờ như thế mà nàng không bị trượt xuống cái dốc khinh bỉ ngay bản thân mình, cái dốc chán ngán, nó có thể làm cho những kẻ do dự nhất đi tới các quyết định cực đoan. Sáng sáng, những hôm Bernard không đi vào núi chơi trước lúc rạng đông (vì anh ưa dậy sớm), anh đều ngồi suốt hai tiếng đồng hồ bên cạnh nàng để học tiếng Anh. Tháng Mười anh phải đi thi, cái cớ đó thật là tiện lợi.
Thực ra không thể nói rằng công việc làm thư ký chiếm mất nhiều thời gian của anh. Công việc ấy có xác định gì đâu. Khi Bernard đảm nhận việc này, anh cứ hình dung là ngồi trước bàn làm việc để Édouard đọc cho mà viết, để chép sạch lại các bản thảo. Édouard chẳng đọc gì cả; các bản thảo nếu như có thì vẫn còn nằm kỹ trong rương; suốt cả ngày Bernard được rảnh rang; nhưng vì anh sốt sắng muốn được làm việc, còn như sử dụng lòng sốt sắng ấy đến đâu là tùy thuộc Édouard, nên Bernard chẳng băn khoăn gì nhiều về tình trạng chơi dài và về chuyện anh sống khá sung túc như thế này chẳng qua là nhờ lòng rộng lượng của Édouard. Anh nhất quyết là chẳng đắn đo bối rối làm gì. Tôi không dám nói là anh tin vào Thượng đế, nhưng ít ra là tin vào vận mệnh của anh, và tin rằng anh phải được hưởng hạnh phúc nào đấy giống như buồng phổi phải có không khí để thở; Édouard là người ban phát hạnh phúc cũng như linh mục thuyết giáo, theo Bossuet, là người ban phát đạo lý thánh thần. Vả chăng, theo Bernard, tình trạng hiện nay chỉ là tạm thời, anh nghĩ rằng một ngày kia có thể chẳng còn nợ nần gì khi thanh toán xong những khoản mà anh nhẩm tính trong lòng xem nhiều ít ra sao. Anh bực bội ở chỗ Édouard không hề cần đến một số năng khiếu anh cảm thấy là mình có mà Édouard lại không có. “Ông ấy chẳng biết dùng ta”, Bernard nghĩ, cố nén tự ái, và ngay lập tức lại khôn ngoan nghĩ thêm: “Thôi kệ”.
Nhưng vậy thì giữa Édouard và Bernard, cái ngượng nghịu có thể là do đâu? Tôi cho rằng Bernard thuộc loại người cứ là phải chống đối mới vững tin ở mình. Anh không chịu được Édouard chi phối anh, và anh chồm lên phản ứng trước khi đành chấp nhận ảnh hưởng của ông. Édouard không hề nghĩ đến chuyện khuất phục anh, cứ hết bực bội lại rầu rĩ khi cảm thấy anh cứng đầu cứng cổ, luôn luôn sẵn sàng tự vệ hay ít ra cũng là chống đỡ. Ông đâm ngợ hay là mình đã sai lầm khi đưa hai người đó đi cùng để họ gần gũi nhau mà dường như chỉ là để họ liên minh chống lại ông. Không thể thấu hiểu được những tình cảm sâu kín của Laura, thấy nàng xa lánh và ít nói năng, ông cho là nàng lạnh lùng. Nếu ông thấy rõ chắc là ngượng nghịu lắm và điều này thì Laura hiểu; đến nỗi mối tình bị rẻ rúng của nàng chỉ sử dụng sức mạnh vào việc lẩn trốn và lặng im mà thôi.
Theo thường lệ vào giờ uống trà, cả ba người đều quây quần trong căn phòng lớn; bà Sophroniska thường cũng được mời tới; nhất là vào những hôm Boris và Bronja đi chơi. Bà để chúng được hết sức tự do, mặc dầu còn nhỏ tuổi; bà hoàn toàn tin tưởng ở Bronja, biết là cô bé rất thận trọng, nhất là với Boris, chú tỏ ra đặc biệt dễ bảo đối với cô bé. Xứ sở này rất an toàn; bởi vì chắc là chẳng có chuyện chúng mạo hiểm vào trong núi hay leo lên những núi đá ở gần khách sạn. Một hôm hai đứa trẻ được phép đi đến tận chân sông băng với điều kiện không được ra xa đường cái, bà Sophroniska được mời tới uống trà, và được Bernard với Laura cổ vũ, liền đánh bạo xin Édouard nói cho nghe về cuốn tiểu thuyết tương lai của ông nếu ông không khó chịu.
- Có sao đâu; nhưng tôi không thể kể ra được.
Tuy nhiên, hầu như ông có vẻ tức giận khi Laura hỏi ông (câu hỏi rõ ràng là vụng về) “quyển sách ấy liệu chừng giống với cái gì”.
- Chẳng giống với cái gì cả, - ông kêu lên; rồi ngay lập tức, và như thể ông chỉ đợi có lời khiêu khích ấy: - Tại sao làm lại cái mà những người khác ngoài tôi ra đã làm rồi, hoặc cái mà chính bản thân tôi đã làm, hoặc cái mà những người khác ngoài tôi ra có thể sẽ làm?
Édouard vừa thốt ra những lời đó đã cảm thấy ngay là bất nhã, là quá đáng và phi lý; ít nhất thì theo ông những lời đó có vẻ bất nhã và phi lý; hay ít nhất ông e rằng Bernard coi những lời đó là như vậy.
Édouard rất dễ kích động. Hễ ai nói với ông về công việc của ông, và đặc biệt hễ cứ để cho ông nói ra, là ông cứ như không còn tỉnh táo nữa.
Ông hoàn toàn khinh bỉ tính tự phụ quen thuộc của các tác gia; ông cố hết sức kìm nén thói tự phụ của chính bản thân mình; nhưng ông lại sẵn lòng trông chờ lòng quý trọng của mọi người để tăng viện cho đức khiêm tốn của ông; lòng quý trọng ấy mà thiếu đi thì đức khiêm tốn của ông cũng phá sản. Sự kính trọng của Bernard vô cùng quan trọng đối với ông. Phải chăng để chiếm được lòng kính trọng ấy mà Édouard hễ cứ đứng trước mặt anh là lại bật lò xo lên? Édouard cảm thấy rất rõ đó là cách tốt nhất để mất đi sự kính trọng; ông luôn tự nhủ thế; song dù quyết tâm thế nào, hễ đứng trước Bernard là ông lại xử sự hoàn toàn trái với ý muốn của mình và nói năng một cách ông nhận ra ngay tức khắc là phi lý (mà phi lý thật). Do vậy, ta có thể nghĩ rằng ông yêu mến anh ấy ư?... Không, tôi không tin như thế. Chỉ cần một chút kiêu căng là đủ để được chúng ta bực mình hoặc thương yêu vô cùng.
- Phải chăng vì trong số tất cả các thể loại văn chương, tiểu thuyết vẫn là thể loại tự do nhất, lawless23 nhất, - Édouard nói thao thao..., - phải chăng có lẽ vì thế, và cũng vì sợ cái tự do ấy nữa (bởi các nghệ sĩ là những người khát khao tự do nhất, thường lại hốt hoảng nhất khi đã đạt được rồi) mà tiểu thuyết luôn luôn nem nép bám lấy thực tế đến như vậy? Mà chẳng phải tôi chỉ nói về tiểu thuyết Pháp đâu. Cũng giống như tiểu thuyết Anh, tiểu thuyết Nga, thoát khỏi sự gò bó là thế, mà vẫn lệ thuộc vào yêu cầu giống như thật. Sự tiến bộ duy nhất mà nó hướng tới, là nhích gần lại cái tự nhiên hơn nữa. Tiểu thuyết chưa bao giờ biết đến cái “xói mòn khủng khiếp các đường viền” mà Nietzsche nói tới, cũng chưa biết là nhờ sự tự nguyện tách ra khỏi đời sống mà tác phẩm của các nhà soạn kịch Hy Lạp chẳng hạn, hay các bi kịch thế kỷ XVII ở Pháp có được phong cách. Các bạn biết có cái gì hoàn hảo hơn và đời thường một cách sâu sắc hơn các tác phẩm ấy không? Nhưng chính xác ra, chỉ đời thường một cách sâu sắc nó mới là đời thường; nó không cố tỏ ra là đời thường hay chí ít tỏ ra là đúng như thật. Nó là một tác phẩm nghệ thuật.
23 Không có luật lệ. (Tiếng Anh trong nguyên bản).
Édouard đứng lên và rất ngại tỏ ra mình lên lớp, nên vừa nói ông vừa rót nước trà, rồi đi đi lại lại, rồi vắt chanh vào tách của mình, nhưng vẫn cứ tiếp tục:
- Bởi vì Balzac là một thiên tài, và bởi vì thiên tài nào hình như cũng đem lại cho nghệ thuật của mình một giải pháp có tính quyết định và dứt khoát, nên người ta đã hống hách tuyên bố đặc điểm của tiểu thuyết là “ganh đua với hộ tịch”. Balzac đã xây dựng tác phẩm của mình; nhưng ông chẳng bao giờ có ý định pháp điển hóa tiểu thuyết; bài viết của ông về Stendhal chứng tỏ rõ điều này. Ganh đua với hộ tịch! Cứ làm như trên Trái Đất chưa có đủ những kẻ thô lỗ, ngốc nghếch không bằng! Tôi có liên quan gì đến hộ tịch! Hộ tịch là tôi, nhà nghệ sĩ; hộ tịch hay không thì tác phẩm của tôi cũng chẳng có ý định ganh đua với cái gì hết.
Édouard sôi nổi hẳn lên, có lẽ hơi giả tạo một chút, và lại ngồi xuống. Ông làm ra vẻ không hề nhìn Bernard; nhưng chính là ông nói cho anh nghe. Nếu chỉ có một mình ông với anh, có lẽ ông chẳng biết nói gì cả; ông biết ơn hai người phụ nữ kia đã thôi thúc ông.
- Đôi khi tôi thấy hình như văn chương chẳng có cái gì tuyệt vời bằng, trong Racine24 chẳng hạn, cuộc bàn cãi giữa Mithridate và các con trai; ở đấy người ta hoàn toàn biết rõ chẳng bao giờ một người cha và những đứa con lại có thể nói năng như vậy, thế mà ở đấy mọi người cha và mọi người con đều có thể (lẽ ra tôi phải nói: càng) nhận ra mình. Bằng cách xác định rõ nơi chốn và đặc tính, người ta thu hẹp phạm vi lại. Đúng là sự thật tâm lý chỉ có ở trạng thái riêng biệt mà thôi; nhưng nghệ thuật lại chỉ có dạng chung chung. Tất cả vấn đề là ở đấy, chính thế; thể hiện cái chung bằng cái riêng; qua cái riêng mà hiện ra cái chung. Cho phép tôi châm thuốc hút chứ?
24 Racine (1639 - 1699): Nhà soạn kịch Pháp.
- Cứ hút đi, ông cứ hút đi, - Sophroniska nói.
- Này nhé! Tôi muốn một cuốn tiểu thuyết vừa chân thực vừa xa thực tế, vừa riêng biệt vừa chung chung, vừa đời thường vừa hư cấu như Athalie, như Tartuffe, hay như Cinna.
- Thế... đề tài của cuốn tiểu thuyết ấy?
- Làm gì có, - Édouard cãi phắt, - và đấy có lẽ là điều lạ lùng nhất. Cuốn tiểu thuyết của tôi không có đề tài. Vâng, tôi biết lắm; điều tôi vừa nói có vẻ ngớ ngẩn. Nếu các bạn thấy ưng hơn, chúng ta hãy nói là nó không có một đề tài… Trường phái tự nhiên nói: “Một khúc của đời sống”. Thiếu sót lớn nhất của trường phái này là luôn luôn cắt khúc theo cùng một chiều; theo chiều dài, chiều thời gian. Tại sao lại không theo chiều rộng? Hoặc chiều sâu? Còn tôi, tôi chẳng muốn cắt gì hết. Mọi người hiểu cho tôi: tôi muốn đưa tất cả vào đó, vào cuốn tiểu thuyết ấy. Không có nhát kéo để chặn lại, chỗ này chứ không chỗ kia, thực thể của nó. Từ hơn một năm nay khi tôi bắt tay viết, chẳng có chuyện gì xảy đến với tôi mà tôi không trút vào đấy: những gì tôi thấy, những gì tôi biết, tất cả những gì cuộc sống thiên hạ và cuộc sống của tôi mách bảo tôi...
- Và tất cả đều được cách điệu hóa ư? - Sophroniska hỏi, làm bộ hết sức chăm chú, nhưng chắc là thoáng một chút mai mỉa. Laura không nén nổi một nụ cười. Édouard khẽ nhún vai và nói tiếp:
- Mà thậm chí chẳng phải tôi muốn làm thế đâu. Tôi muốn là muốn một mặt trình bày thực tại, mặt khác trình bày cái nỗ lực để cách điệu hóa nó mà tôi vừa nói ban nãy.
- Ông bạn tội nghiệp của em ơi, ông sẽ làm cho các bạn đọc của ông buồn chán đến chết mất thôi, - Laura nói, không giấu nổi nụ cười nữa, nàng đành cười thật sự.
- Hoàn toàn không. Để đạt được hiệu quả ấy, hãy nghe tôi nói, tôi sáng tạo ra một nhân vật nhà tiểu thuyết đặt vào vị trí hình tượng trung tâm; và đề tài của quyển sách, nếu các bạn muốn, chính là cuộc vật lộn giữa những gì thực tại cung cấp cho anh ta và những gì anh ta định làm với thực tại kia.
- Có, có chứ; tôi thoáng thấy là tiếng cười của Laura sắp lây lan rồi đấy, - Sophroniska lễ phép nói. - Kể ra cũng khá lạ lùng. Nhưng ông biết đấy, tiểu thuyết mà trình bày bởi các nhà trí thức thì luôn luôn là nguy hiểm. Họ làm cho công chúng chán ngấy; người ta chỉ có thể để họ nói ra những lời ngu xuẩn, và tất cả những gì liên quan đến họ, họ đều truyền cho một vẻ trừu tượng.
- Và em thấy rất rõ điều gì sẽ xảy ra, - Laura thốt lên; - qua nhà tiểu thuyết đó, ông không thể làm gì khác hơn là miêu tả chính bản thân ông.
Nàng nói với Édouard đã được một lúc bằng giọng chế giễu khiến bản thân nàng cũng ngạc nhiên và làm Édouard lúng túng, nhất là khi ông bắt gặp một ánh mắt ranh mãnh của Bernard. Édouard cãi:
- Không đâu, tôi sẽ chú ý xây dựng anh ta hết sức khó chịu. Laura sôi nổi:
- Chính thế: mọi người sẽ nhận ra ông trong đó, - nàng vừa nói vừa phá lên cười một cách thẳng thắn đến nỗi lôi cuốn cả ba người kia cười theo.
- Và đề cương quyển sách được vạch ra rồi chứ? - Sophroniska hỏi, cố lấy lại vẻ nghiêm trang.
- Tất nhiên là không.
- Sao! Tất nhiên là không ư?
- Các bạn nên hiểu cho rằng đối với quyển sách thuộc loại này, căn bản là không thể chấp nhận được một đề cương. Ở đó, tất cả sẽ đều bị sai lệch đi nếu tôi ấn định trước một cái gì. Tôi đợi để thực tế áp đặt cho tôi.
- Nhưng tôi cứ tưởng ông muốn xa lánh thực tế cơ mà.
- Nhà tiểu thuyết của tôi sẽ muốn xa lánh nó; còn tôi lại sẽ không ngừng kéo anh ta về với nó. Nói đúng ra thì đấy sẽ là đề tài: cuộc vật lộn giữa các sự việc do thực tế đề xuất, và thực tế lý tưởng.
Tính phi lôgich trong lời lẽ của ông là quá hiển nhiên, như đập vào mắt. Rõ ràng là trong đầu Édouard chứa đựng hai yêu cầu không thể dung hòa, và ông hao tâm tổn trí tìm cách hòa giải chúng với nhau.
- Và viết được nhiều rồi chứ? - Sophroniska lễ phép hỏi.
- Cái đó còn tùy ở chỗ bà hiểu điều này như thế nào. Nói đúng ra, về chính quyển sách ấy tôi chưa viết một dòng nào cả. Nhưng tôi đã đầu tư bao tâm trí để chuẩn bị viết. Ngày nào tôi cũng suy nghĩ liên miên đến nó. Tôi làm việc một cách hết sức lạ lùng, tôi sẽ kể cho các bạn nghe đây: hằng ngày tôi ghi vào một cuốn sổ tay tình hình cuốn tiểu thuyết ấy trong đầu óc tôi; đúng thế, đó là một kiểu nhật ký tôi ghi chép như người ta ghi chép nhật ký về một đứa trẻ... Có nghĩa là tôi không bằng lòng với việc giải quyết mỗi khó khăn khi nó xảy ra (và mọi tác phẩm nghệ thuật chỉ là tổng số hoặc tích số những giải pháp cho một loạt liên tiếp các khó khăn nho nhỏ), mỗi khó khăn ấy, tôi trình bày nó, tôi nghiên cứu nó. Có thể nói quyển sổ tay này chứa đựng sự phê phán liên tục quyển tiểu thuyết của tôi; hay đúng hơn: tiểu thuyết nói chung. Các bạn thử nghĩ nếu Dickens hay Balzac mà có quyển sổ tay tương tự thì sẽ thú vị cho chúng ta biết bao! Giá mà chúng ta có cuốn nhật ký của Giáo dục tình cảm hay của Anh em nhà Karamazov!
Lịch sử của tác phẩm, của sự thai nghén tác phẩm! Mà cái đó sẽ hấp dẫn... sẽ hay hơn chính bản thân tác phẩm...
Édouard lờ mờ ao ước mọi người yêu cầu ông đọc cho nghe những ghi chép ấy. Nhưng chẳng ai trong số ba người kia tỏ vẻ tò mò chút nào. Đã thế:
- Ông bạn tội nghiệp của em ơi, - Laura nói, giọng buồn buồn, - cuốn tiểu thuyết đó, em thấy rõ là ông sẽ chẳng bao giờ viết ra.
- Này! Tôi sẽ nói với các bạn một điều, - Édouard hăng lên thốt ra: - Tôi cần gì đâu. Vâng, nếu tôi không viết ra quyển sách ấy, thì chính là vì lịch sử cuốn sách sẽ làm tôi quan tâm hơn bản thân cuốn sách; nó sẽ thay thế cho cuốn sách; và như vậy sẽ càng hay.
- Ông không sợ là rời bỏ thực tế sẽ lạc lối vào những miền trừu tượng khủng khiếp và viết ra một cuốn tiểu thuyết chẳng phải với những con người sống động mà là với các ý tưởng hay sao? - Sophroniska sợ sệt hỏi.
- Thế thì đã sao! - Édouard la lên càng hăng hơn. - Vì có những kẻ vụng về lạc lối nơi đó mà chúng ta phải lên án tiểu thuyết ý tưởng ư? Thay cho tiểu thuyết ý tưởng, người ta xưa nay chẳng đã đem đến cho chúng ta những tiểu thuyết luận đề đáng ghét đấy sao? Các ý tưởng..., các ý tưởng, xin thú thật, gây hứng thú cho tôi hơn là các con người; gây hứng thú cho tôi hơn mọi thứ trên đời. Chúng sống; chúng chiến đấu; chúng hấp hối như người. Tất nhiên người ta có thể nói là chúng ta chỉ biết đến các ý tưởng qua con người cũng như chúng ta chỉ biết đến gió qua những cây lau sậy bị gió uốn cong; nhưng dẫu sao gió vẫn quan trọng hơn là lau sậy.
- Gió tồn tại độc lập với lau sậy, - Bernard đánh bạo nói.
Anh tham gia ý kiến làm cho Édouard bật lò xo lên, ông vẫn chờ đợi từ lâu.
- Phải, tôi biết: các ý tưởng chỉ tồn tại qua con người; song cái bi tráng là ở đấy: chúng sống bám vào con người.
Bernard đã cố chăm chú lắng nghe tất cả những điều đó; anh hết sức hoài nghi và gần như nghĩ rằng Édouard là người mơ mộng hão; tuy vậy, vào lúc cuối, anh cảm động vì sự hùng hồn của ông; anh cảm thấy ý nghĩ của mình xiêu xiêu trước làn gió hùng hồn kia; nhưng Bernard nghĩ bụng, cũng như cây sậy sau khi gió đã thổi qua, ý nghĩ của anh lại trỗi dậy. Anh nhớ tới điều người ta dạy ở trường: các dục vọng dắt dẫn con người chứ không phải là các ý tưởng. Trong khi đó, Édouard vẫn tiếp tục:
- Tôi muốn làm, xin các bạn hiểu cho, là làm một cái gì đấy giống như Nghệ thuật nhạc fuga. Và tôi chẳng hiểu vì sao cái có thể thực hiện được trong âm nhạc lại không thể thực hiện được trong văn chương...
Sophroniska liền đập lại rằng âm nhạc là một nghệ thuật có tính chất toán học, và hơn nữa Bach25 coi âm nhạc chẳng phải cái gì đặc biệt khác hơn là con số, Bach tống khứ cái thống thiết và cái nhân loại ra khỏi âm nhạc, nên đã đạt được một kiệt tác trừu tượng về nỗi buồn phiền, một thứ đền miếu cao siêu chỉ có số người am hiểu hiếm hoi mới thâm nhập được mà thôi. Édouard lập tức cãi rằng theo ông tòa đền miếu ấy thật là tuyệt vời, đó là kết quả và là đỉnh cao của toàn bộ sự nghiệp Bach.
25 Bach (1685 - 1750): Nhạc sĩ Đức.
- Sau đó, - Laura nói thêm, - người ta đã chữa khỏi được căn bệnh nhạc fuga rất lâu. Cảm xúc của loài người chẳng có cách nào ăn ở tại đấy được nữa, đã tìm những nơi cư trú khác.
Cuộc bàn cãi sa vào những ngôn từ tinh tế. Bernard từ nãy đến giờ vẫn im lặng, bắt đầu sốt ruột ngồi không yên, cuối cùng chịu không nổi nữa; anh nói hết sức cung kính, thậm chí quá đáng, như mỗi lần nói với Édouard, nhưng với vẻ vui nhộn dường như biến sự cung kính kia thành một trò chơi.
- Thưa ông, - anh nói, - ông tha lỗi cho tôi đã biết nhan đề quyển sách của ông, bởi vì do tò mò, nhưng hình như ông đã muốn lờ đi. Tuy nhiên nhan đề ấy có vẻ báo trước một câu chuyện thì phải?...
- Ồ! Ông cho chúng tôi biết cái nhan đề ấy đi, - Laura nói.
- Cô bạn thân mến của tôi, nếu cô muốn... Nhưng tôi báo cho cô biết rằng rất có thể tôi sẽ đổi nhan đề. Tôi e rằng nó hơi lừa dối một chút... Kìa, nói cho họ biết đi.
- Ông cho phép chứ ạ?... Bọn làm bạc giả, - Bernard nói. - Còn bây giờ đến lượt ông nói cho chúng tôi biết đi: bọn làm bạc giả ấy... chúng là ai thế?
- Ô hay! Tôi nào có biết, - Édouard nói.
Bernard và Laura nhìn nhau rồi nhìn Sophroniska; nghe có tiếng thở dài sườn sượt; tôi cho rằng tiếng thở dài ấy là của Laura.
Thực tình mà nói, khi nghĩ đến bọn làm bạc giả, trước hết Édouard nghĩ tới một số đồng nghiệp của ông, và đặc biệt là Tử tước De Passavant. Nhưng phạm vi nhanh chóng mở rộng ra nhiều; tùy theo ngọn gió tinh thần thổi từ Rome hay từ nơi khác, những nhân vật của ông lần lượt trở thành các giáo sĩ hay các hội viên hội Tam điển. Đầu óc ông, nếu ông bỏ mặc nó trượt xuống dốc, sẽ nhanh chóng lao tuột vào cái trừu tượng và đầm mình trong đó hết sức thoải mái. Những ý tưởng về hối đoái, về sụt giá, về lạm phát dần dần tràn ngập quyển sách của ông, như các lý thuyết về y phục tràn ngập quyển Sartor Resartus của Carlyle26 - chiếm mất chỗ của các nhân vật ở đây. Édouard không nói về chuyện đó nên lặng thinh một cách hết sức vụng về, và sự im lặng của ông dường như là lời thú nhận chẳng biết nói năng gì, bắt đầu làm cho ba người kia rất lúng túng.
26 Carlyle (1795 - 1881): Sử gia và nhà phê bình Anh.
- Các người có bao giờ cầm trong tay một đồng tiền giả không? - Cuối cùng ông hỏi.
- Có, - Bernard nói, - nhưng tiếng “không” của hai người phụ nữ át đi giọng nói của anh.
- Thôi được! Các bạn hãy hình dung một đồng vàng mười phrăng là giả. Thực tế nó chỉ đáng giá hai xu. Nó sẽ có giá trị mười phrăng chừng nào người ta không nhận ra nó là giả. Nếu vậy tôi xuất phát từ ý tưởng là...
- Nhưng tại sao lại xuất phát từ một ý tưởng? - Bernard sốt ruột ngắt lời. - Nếu ông xuất phát từ một sự việc có đầu có đuôi, ý tưởng sẽ tự nó tìm đến cư trú. Nếu cháu viết Bọn làm bạc giả, cháu sẽ bắt đầu bằng cách đưa ra một đồng tiền giả, đồng tiền nho nhỏ mà ông vừa nói xong... và nó đây.
Nói xong, Bernard lấy trong ví ra một đồng mười phrăng nho nhỏ và ném lên bàn.
- Ông nghe mà xem, nó kêu đấy chứ. Hầu như cùng một âm thanh với những đồng khác. Ai chẳng tin chắc mười mươi nó là bằng vàng. Sáng nay cháu bị mắc lừa cũng như ông bán hàng thực phẩm khô đưa cho cháu, chính ông ta cũng đã bị mắc lừa, ông ta bảo cháu thế. Cháu nghĩ là nặng nhẹ thì không hoàn toàn giống nhau; nhưng nó óng ánh và hầu như cùng một âm thanh với đồng tiền thật; lớp mạ bên ngoài của nó thì bằng vàng nên kể ra nó có giá trị hơn hai xu một chút; nhưng nó bằng pha lê. Khi dùng nó sẽ trở nên trong suốt. Ấy, ông đừng cọ xát nó, ông làm hỏng nó của cháu bây giờ. Gần như đã nhìn thấu qua được rồi đấy.
Édouard đã cầm lấy đồng tiền và xem xét nó hết sức chăm chú.
- Thế ông bán hàng thực phẩm khô nhận đồng tiền này của ai?
- Ông ta chẳng biết nữa. Ông ta tin là đã có nó ở trong ngăn kéo nhiều hôm rồi. Ông ta đùa trao nó cho cháu để xem có bị mắc lừa không. Của đáng tội suýt nữa thì cháu nhận! Nhưng vì ông ta lương thiện nên đã bảo cho cháu biết; rồi để lại cho cháu với giá năm phrăng. Ông ta muốn giữ lại để đưa cho những người mà ông gọi là “các tay ham thích” xem. Cháu nghĩ rằng chẳng ai ham thích hơn tác giả của Bọn làm bạc giả, và cháu đã mua đồng tiền này chính là để đưa ông xem. Còn bây giờ ông đã xem xét kỹ rồi, ông đưa trả lại cháu đây! Chà! Cháu thấy là ông chẳng thiết quan tâm gì đến thực tế.
- Có chứ, - Édouard nói; - nhưng nó làm cho tôi vướng víu.
- Tiếc quá nhỉ, - Bernard lại nói.
NHẬT KÝ CỦA ÉDOUARD
“(Ngay chiều hôm nay)... Sophroniska, Bernard và Laura đã hỏi ta về quyển tiểu thuyết của ta. Tại sao ta lại đi nói nhỉ? Ta chỉ nói những điều ngớ ngẩn. May mà hai đứa trẻ trở về nên phải ngắt lời. Mặt chúng đỏ bừng bừng, thở hổn hển như thể chúng đã chạy nhiều. Vừa vào đến nơi, Bronja liền sà ngay vào lòng mẹ; mình cứ tưởng nó sắp òa lên.
- Mẹ ơi, - cô bé la lên, - mẹ mắng Boris đi. Nó cứ muốn trần truồng nằm lăn ra trên tuyết đấy.
Sophroniska nhìn Boris đang đứng ở bậc cửa, mặt cúi gằm, mắt nhìn đăm đăm hầu như có vẻ hằn học. Bà hình như không nhận thấy biểu hiện bất thường của đứa trẻ đó, nhưng với một vẻ thản nhiên tuyệt vời:
- Này, Boris, - bà nói, - buổi chiều nay không nên như thế nữa. Nếu cháu muốn, sáng mai chúng ta sẽ đi đến đó; và trước hết, cháu sẽ thử đi chân đất tới nơi...
Bà nhẹ nhàng vuốt ve vầng trán con gái; nhưng cô bé đột nhiên ngã lăn xuống đất quằn quại. Ai nấy rất lo lắng, Sophroniska bế con đặt nằm trên ghế tràng kỷ. Boris đứng như phỗng nhìn cảnh ấy bằng đôi mắt thao láo ngây dại.
Ta cho rằng phương pháp giáo dục của Sophroniska về lý thuyết là tuyệt vời, nhưng có lẽ bà lầm về sức chịu đựng của những đứa trẻ kia.
- Bà cứ làm như thể cái tốt phải luôn luôn thắng cái xấu, - ta đã nói với bà sau đó một chút khi chỉ có hai người với nhau. (Ăn uống xong, ta đã đi hỏi tin tức về Bronja, cháu không xuống nhà để ăn tối được).
- Thực vậy, - bà đã bảo ta. - Tôi tin chắc là cái tốt phải thắng. Tôi tin.
- Thế nhưng, quá tin, bà có thể lầm...
- Mỗi lần tôi lầm, đó là vì lòng tin của tôi chưa đủ mạnh. Hôm nay, khi để cho bọn trẻ ấy đi chơi, tôi đã lộ ra với chúng một chút băn khoăn lo lắng; chúng đã cảm thấy. Mọi chuyện còn lại đều từ đó mà ra.
Bà nắm lấy bàn tay ta:
- Ông có vẻ chẳng tin vào hiệu lực của những niềm tin... tôi muốn nói: vào sức tác động của chúng.
- Thực vậy, - ta đã cười nói, - tôi không phải là người theo thuyết thần bí.
- Chà! Còn tôi, - bà đã thốt lên, vẻ hăm hở tuyệt vời, - tôi tin với tất cả tâm hồn mình là nếu không có thuyết thần bí, chẳng có cái gì là cao, chẳng có cái gì là đẹp thực hiện được dưới trần gian này.
Phát hiện thấy trong sổ ghi các khách du lịch tên của Victor Strouvilhou. Theo tin cung cấp của ông chủ khách sạn, chắc là hắn đã rời Saas-Fée cách một hôm trước ngày bọn này tới, sau khi đã lưu lại đây gần một tháng. Kể ra ta cũng tò mò muốn gặp lại hắn.
Sophroniska chắc đã trò chuyện với hắn luôn. Ta sẽ phải hỏi bà ấy mới được.”