• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bọn làm bạc giả
  3. Trang 29

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 50
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 28
  • 29
  • 30
  • More pages
  • 50
  • Sau

V

NHẬT KÝ CỦA ÉDOUARD

Đó là điều xảy ra từ hầu hết các căn bệnh tinh thần nhân loại mà người ta tưởng là đã chữa khỏi. Người ta chỉ làm cho chúng dội trở lại thôi như ngành y thường nói và người ta đánh tráo chúng bằng các căn bệnh khác.

SAINTE-BEUVE (Những ngày thứ hai, I, tr.19)

"Ta bắt đầu hé thấy cái tạm gọi là “đề tài sâu xa” quyển sách của ta. Chắc chắn đó là, đó sẽ là sự ganh đua giữa thế giới thực tại và việc chúng ta thể hiện nó. Cái cách thế giới của những hiện tượng bề ngoài áp đặt cho chúng ta và chúng ta mưu toan áp đặt sự giải thích của mình lên thế giới bên ngoài, làm nên tấn bi kịch của đời sống chúng ta. Sự cưỡng lại của các sự kiện khiến chúng ta phải chuyển cơ cấu lý tưởng của mình vào mơ mộng, vào hy vọng, vào kiếp sống mai sau, niềm tin của chúng ta vào kiếp sống ấy được nuôi dưỡng bằng mọi nỗi đắng cay trong kiếp sống này. Những người có đầu óc thực tế xuất phát từ các sự kiện, suy nghĩ phù hợp với các sự kiện. Bernard là một người có đầu óc thực tế. Ta sợ rằng không thể hợp được với anh.

Sao ta lại có thể tán thành được khi Sophroniska bảo rằng ta chẳng có chút gì là một người theo thuyết thần bí? Ta sẵn sàng thừa nhận với bà rằng không có thuyết thần bí, con người chẳng thể đạt được cái gì lớn lao. Nhưng phải chăng Laura lên án chính cái thuyết thần bí của ta khi ta nói với nàng về quyển sách... Ta hãy bỏ mặc chuyện bàn cãi ấy cho họ.

Sophroniska lại nói với ta về Boris mà bà tin rằng đã làm được cho chú thổ lộ hết. Đứa trẻ tội nghiệp chẳng có lấy một lùm cây nhỏ bé, một khóm lá thưa thớt nào trong mình để lẩn tránh những cái nhìn của bà bác sĩ. Chú bị phanh phui ra hết. Sophroniska phơi bày ra ánh sáng cái cơ chế sâu kín nhất, tháo rời từng mảnh trong cơ cấu tinh thần của chú như người thợ đồng hồ tháo rời từng chi tiết của chiếc đồng hồ để lau dầu. Nếu sau đó chú bé không đánh chuông đúng giờ thì chẳng còn hiểu vì sao. Sophroniska đã kể với ta thế này:

Boris năm lên chín được gửi vào trường trung học ở Varsovie. Cháu chơi thân với một bạn học cùng lớp, một cháu Baptistin Kraft nào đó, hơn cháu một, hai tuổi, đã bày cho các cháu trò lén lút mà những đứa trẻ ngạc nhiên một cách ngây thơ đó tưởng là “ma thuật”. Đấy là tên chúng đặt cho cái trò của chúng, do đã nghe nói hoặc đọc thấy trong sách là nhờ có ma thuật, người ta muốn gì được nấy một cách huyền bí, và có quyền lực vô biên v.v… Chúng thành thực tưởng đã khám phá ra một số điều bí mật làm khuây khỏa nỗi thiếu vắng thật sự bằng sự hiện diện hão huyền, và tự huyễn hoặc một cách vô căn cứ, hay mê ly trước cái trống rỗng mà trí tưởng tượng quá quắt của chúng, với sự hỗ trợ đắc lực của khoái cảm, làm cho tràn đầy những điều kỳ diệu. Tất nhiên Sophroniska không dùng những thuật ngữ này; ta những muốn bà thuật lại chính xác cho ta các thuật ngữ của Boris, nhưng bà bảo rằng bà chỉ tìm được ra manh mối như trên, mà bà xác nhận với ta là chính xác, qua một mớ hỗn độn những cái vờ vẫn, lấp lửng và mơ hồ.

- Tôi đã thấy ở đó, - bà nói thêm, - điều lý giải tôi tìm kiếm từ lâu, về một mẩu giấy da Boris luôn luôn giữ trong người, đựng vào chiếc túi con đeo trước ngực bên cạnh những tấm ảnh thánh mẹ cháu bắt cháu phải đeo, và trên mẩu giấy ấy là những từ bằng chữ hoa viết nắn nót từng nét, những từ mà tôi uổng công vô ích hỏi cháu ý nghĩa là gì:

HƠI ĐỐT, ĐIỆN THOẠI. TRĂM NGÀN RÚP

- Nhưng nào có ý nghĩa gì đâu ạ. Đấy là ma thuật - cháu bao giờ cũng trả lời tôi như thế khi tôi gặng hỏi. Tôi chỉ đạt được có vậy. Bây giờ thì tôi biết rằng các từ bí ẩn đó là chữ viết của anh chàng Baptistin, bậc thầy và giáo sư danh tiếng về ma thuật, và những từ ngữ ấy, đối với lũ trẻ kia, giống như câu thần chú, câu “Vừng ơi mở ra” của cõi Thiên đường hổ thẹn mà niềm khoái cảm đã dìm chúng xuống. Boris gọi mẩu giấy da ấy là tấm bùa của cháu. Tôi đã vất vả lắm mới thuyết phục được cháu đưa tôi xem, lại tháo ra không đeo nữa (đó là vào thời gian đầu bọn tôi ở đây); bởi vì tôi muốn cháu tháo bỏ ra, như bây giờ tôi biết rằng trước đó cháu đã tự giải thoát được những thói quen xấu của mình. Tôi đã hy vọng rằng những thói hư tật xấu cháu mắc phải sẽ biến đi cùng với tấm bùa kia. Nhưng cháu đã lại bám riết lấy tấm bùa và căn bệnh lại bám riết vào đấy như vào nơi ẩn náu cuối cùng.

- Thế nhưng bà bảo rằng cháu đã tự giải thoát được những thói quen...

- Chứng bệnh thần kinh chỉ sau đó mới phát. Chắc chắn là nó phát sinh do chỗ Boris phải kìm nén bản thân mình để tự giải thoát. Cháu kể với tôi là một hôm mẹ cháu đã bắt gặp cháu đang “làm ma thuật” như cháu nói. Sao chị ta lại chẳng bao giờ nói với tôi về chuyện đó?... Vì ngượng ngùng chăng?...

- Và chắc là vì chị ấy biết cháu đã sửa chữa được rồi.

- Vô lý... và đấy là nguyên nhân khiến tôi mò mẫm mãi. Tôi đã nói với ông, tôi tin rằng Boris hoàn toàn trong trắng.

- Bà nói với tôi là chính bà lúng túng về điều đó cơ mà.

- Rồi ông xem tôi có lý hay không!... Bà mẹ lẽ ra phải cho tôi biết. Boris chắc là đã khỏi rồi nếu tôi thấy được tường tận ngay.

- Bà vừa bảo rằng những chứng tật kia chỉ sau đó mới phát...

- Tôi bảo rằng chúng nảy sinh do phản kháng. Tôi hình dung là mẹ cháu đã mắng mỏ, năn nỉ, quở trách cháu. Cái chết của ông bố xảy đến bất chợt. Boris tin chắc là những trò lén lút của mình mà nghe người ta mô tả là hết sức tội lỗi, đã chịu sự trừng phạt; cháu cho là mình phải chịu trách nhiệm về cái chết của bố; cháu tưởng là mình có tội, là bị đọa đày. Cháu đâm hoảng; và chính lúc đó, như con thú bị vây dồn, cơ thể ốm yếu của cháu đã bày đặt ra một loạt những mẹo vặt kia, giống như những lời thú tội, để tâm hồn được thanh thản.

- Nếu tôi hiểu không lầm thì bà cho rằng Boris cứ tiếp tục lặng lẽ dấn thân vào thực hành “ma thuật” thì lại đỡ tai hại hơn chăng?

- Tôi cho rằng để chữa cho cháu khỏi bệnh, chẳng cần thiết phải làm cho cháu khiếp sợ. Cuộc sống thay đổi do cái chết của bố cũng đủ để cháu quên cái đó đi, và việc rời khỏi Varsovie đủ lôi cháu ra khỏi ảnh hưởng của bạn. Làm cho khiếp sợ có bao giờ thu được điều gì tốt đẹp. Khi biết rõ sự thể, tôi nói lại với cháu mọi chuyện, và nhìn về quá khứ, tôi làm cho cháu xấu hổ là đã thích chiếm lĩnh những niềm hạnh phúc tưởng tượng hơn là chiếm lĩnh những niềm hạnh phúc thật sự do cố gắng mà được đền bù, tôi đã bảo cháu thế. Tôi không hề tìm cách bôi đen tật xấu của cháu, mà chỉ vạch ra cho cháu thấy đó là một trong những dạng của thói lười biếng; và tôi tin đó là một dạng lười biếng thật; dạng tinh vi nhất, nham hiểm nhất...

Nghe những lời đó, ta nhớ đến mấy dòng của La Rochefoucauld và muốn nêu lên với bà, và tuy có thể đọc thuộc lòng, ta đi tìm quyển sách nhỏ Các châm ngôn mà bao giờ đi du lịch ta cũng mang theo. Ta đọc cho bà nghe:

“Trong mọi dục vọng, dục vọng mà bản thân chúng ta ít biết đến nhất, đó là thói lười biếng; nó là dục vọng cháy bỏng nhất và thâm hiểm nhất, mặc dù sự mãnh liệt của nó không cảm thấy được và những thiệt hại do nó gây ra ẩn giấu rất kín... Cái thư thái của lười biếng là nỗi đắm say thầm kín của tâm hồn nó làm cho những đeo đẳng cháy bỏng nhất và những quyết định bướng bỉnh nhất ngừng lại bất thình lình. Tóm lại, để có được ý niệm chân thực về dục vọng ấy, cần phải nói rằng thói lười biếng chẳng khác nào niềm cực lạc của tâm hồn, nó an ủi tâm hồn về mọi nỗi mất mát và nó thay thế cho mọi niềm hạnh phúc.”

- Ông cho rằng, - Sophroniska liền bảo ta, - La Rochefoucauld viết như vậy là muốn bóng gió xa gần điều chúng ta vừa nói phải không?

- Cũng có thể; nhưng tôi không cho là như thế. Các tác gia cổ điển của chúng ta phong phú vì có lắm cách giải thích. Sự chính xác của họ càng tuyệt vời vì nó không tự cho là hoàn toàn chính xác.

Ta đề nghị bà đưa cho xem tấm bùa nổi tiếng ấy của Boris. Bà bảo ta là không có nữa, bà đã đem cho một người quan tâm đến Boris và xin bà được giữ tấm bùa ấy để làm kỷ niệm. - Một ông tên là Strouvilhou tôi gặp ở đây ít lâu trước khi ông tới.

Ta bảo Sophroniska là đã nhìn cái tên ấy trong quyển sổ của khách sạn; là trước kia ta cũng đã từng biết một ông Strouvilhou, và ta tò mò muốn biết có phải cùng một người hay không. Nghe bà mô tả hình dạng, chẳng còn lầm vào đâu được; nhưng bà chẳng biết nói gì về người đó để thỏa mãn sự tò mò của ta. Ta chỉ biết là ông ấy rất dễ thương, rất vồn vã, theo bà ông ấy có vẻ thông minh cực kỳ, song bản thân cũng hơi lười biếng, “nếu tôi còn dám dùng từ ngữ này”, bà vừa cười vừa nói thêm. Đến lượt ta kể cho bà nghe những điều ta biết về Strouvilhou, và từ chuyện đó dẫn đến chỗ ta kể với bà về cái ký túc xá nơi hai người gặp nhau, về cha mẹ của Laura (về phía nàng cũng đã tâm sự với bà), cuối cùng là về cụ La Pérouse, về những mối quan hệ thân thuộc, gắn bó cụ với chú bé Boris, và về lời hứa của ta khi từ biệt cụ là sẽ dẫn đứa trẻ ấy về với cụ. Vì trước đó Sophroniska đã bảo ta là bà nghĩ rằng Boris không nên tiếp tục sống với mẹ, nên ta đã hỏi: “Sao bà không gửi cháu vào ký túc xá của gia đình Azaïs?” Khi gợi ý bà như vậy, chủ yếu ta nghĩ đến niềm vui vô hạn của người ông khi biết Boris ở rất gần cụ, tại nhà các bạn bè, cụ sẽ có thể đến thăm cháu tùy thích; nhưng về phía thằng bé, ta không tin được rằng ở đấy nó sẽ được thoải mái. Sophroniska bảo ta là bà sẽ suy nghĩ; tóm lại, bà hết sức quan tâm đến tất cả những gì ta vừa cho bà hay.

Sophroniska cứ nhắc đi nhắc lại là thằng bé Boris đã khỏi rồi; điều đó sẽ xác minh phương pháp chữa chạy của bà; nhưng ta sợ bà lạc quan hơi sớm. Tất nhiên ta không muốn nói trái lại ý bà; và ta thừa nhận rằng các thói tật, các cử chỉ nửa vời, các lời nói lấp lửng đã gần như biến mất; nhưng ta cho rằng chẳng qua là căn bệnh lẩn vào một khu vực sâu xa hơn của con người như để tránh cái nhìn soi mói của thầy thuốc; và bây giờ là lúc chính tâm hồn bị nhiễm bệnh. Cũng như những biến động thần kinh xảy ra tiếp theo thói thủ dâm, bây giờ những biến động này nhường chỗ cho nỗi lo sợ vô hình nào chẳng biết. Sophroniska lo ngại, đúng thế, thấy Boris, tiếp theo Bronja, bị xô đẩy vào một thứ thần bí ngờ nghệch; bà là người rất thông minh nên không thể không hiểu rằng niềm “khoái trá tâm hồn” mới mẻ giờ đây Boris đang tìm kiếm, xét cho cùng chẳng khác gì mấy với niềm khoái trá mà lúc đầu chú kích thích bằng trò vè, và dù đỡ tổn thất, đỡ tác hại cho cơ thể, niềm khoái trá ấy vẫn đòi hỏi ở chú phải ráng sức, phải thực hiện. Nhưng khi ta nói với bà điều đó, bà trả lời ta rằng những tâm hồn như của Boris và Bronja không thể không cần đến món ăn ảo tưởng, và nếu món ăn ấy bị tước đi, chúng ta sẽ ngã khuỵu, Bronja sa vào nỗi tuyệt vọng, còn Boris sa vào một thứ chủ nghĩa vật chất dung tục; vả lại, bà cho rằng bà không có quyền hủy hoại lòng tin của những đứa trẻ đó, và tuy biết rằng lòng tin của chúng là láo toét, bà vẫn muốn xem đó như là một sự thăng hoa của các bản năng thấp hèn, một sự vươn lên, một sự khích động, một sự phòng ngừa, biết đâu đấy?... Bản thân bà không tin vào những giáo lý của nhà thờ, nhưng bà tin vào hiệu lực của đức tin. Bà nói một cách xúc động về lòng thành kính của hai đứa trẻ đó, chúng cùng đọc với nhau sách Khải huyền và đầy hứng khởi, và trò chuyện với các thần linh, và trùm những tấm vải liệm trắng lên tâm hồn. Bà đầy mâu thuẫn như tất cả những người phụ nữ. Nhưng bà có lý: ta rõ ràng không phải là một người theo thuyết thần bí... như ta chẳng phải là một kẻ lười biếng. Ta trông cậy nhiều vào không khí ký túc xá của Azaïs và của Paris để Boris trở thành một người làm việc; để rồi chữa cho chú khỏi chứng bệnh tìm kiếm những “cái viển vông”. Đối với chú, cứu cánh là đấy. Hình như Sophroniska có ý định phó thác chú cho ta; nhưng chắc bà sẽ đi cùng với chú đến Paris, muốn được tự mình chăm lo thu xếp cho chú vào ký túc xá của Azaïs, do đó làm yên lòng người mẹ mà bà nghĩ là có thể thuyết phục được chị đồng ý.”