• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bóng xưa bảng lảng – Tập 1
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 9
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 9
  • Sau

2

Lên miền Tây vời vợi ngàn trùng…

Gã không nhớ đó là câu thơ hay câu hát, nhưng giờ đây gã và sáu đồng chí của gã đang lên chiếc xe Gát để lên miền Tây. Đường số 6 như con trăn gió khổng lồ thương tích đầy mình, oằn oài vắt qua con sông Đà, vắt qua những đỉnh đèo “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, lượn qua những vực sâu thăm thẳm, khi thì phơi mình trước đại ngàn nắng gió, lúc lại lủi sâu vào những khe hẹp dưới vòm cây rậm rạp. Chiếc xe Gát già nua hồng hộc nhoài lên những con dốc, vẹo trái, ngoặt phải khiến chục người gồm bảy tân binh chưa được phát quân trang và ba cán bộ tuyển quân gồm một thượng úy trọ trẹ tiếng miền Nam, một thượng sĩ người Tày và một hạ sĩ trẻ măng dáng dấp như diễn viên Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, hết chao bên nọ lại đảo bên kia. Lúc đầu gã cảm thấy buồn bực, gan ruột rối bời rồi nóng lên cổ họng và bắt đầu… nôn. Thôi thì những gì sáng nay mọi người động viên nhét vào dạ dày bây giờ gã đem rải khắp cung đường. Gã bám lấy thành xe, miệng há hốc, dớt dãi loằng ngoằng như sợi tơ đong đưa về phía sau xe. Ông thượng sĩ phải túm thắt lưng để gã khỏi lao xuống mặt đường. Gã mệt lử, đầu óc choáng váng, ấy vậy mà vẫn lẩm nhẩm đọc đi đọc lại bài thơ “Tây Tiến” của ông Quang Dũng. Nhưng ông Quang Dũng đâu có say xe. Ngày ấy Trung đoàn Tây Tiến của ông chỉ có đôi chân vạn dặm. Giá như ngày ấy có xe để bộ đội hành quân, giá như Quang Dũng cũng bị say xe, chắc “Tây Tiến” của ông sẽ có khổ thơ rất hay dành riêng cho gã. Gã vừa thốc tháo nôn, vừa cười thầm những ý nghĩ vu vơ. Tổ Phụ bảo gã phải qua trải nghiệm. Có lẽ cuộc hành quân này, cú say xe này cũng là một sự trải nghiệm. Và gã phải vượt qua.

Tối mịt hôm ấy xe tới Mộc Châu.

Ồ! Mộc Châu. Gã tỉnh như sáo, cao hứng đọc mấy câu vẫn là bài thơ “Tây Tiến”: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ / Có nhớ dáng người trên độc mộc / Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” rồi hỏi Trần Công - người bạn cùng nhập ngũ và hình như cùng cái tuổi Giáp Thân.

- Lau thì Châu Mộc quá nhiều. Nhưng làm gì có dòng sông nào mà “… nhớ dáng người trên độc mộc / Trôi dòng nước lũ, hoa đong đưa”?

Trần Công cười bảo:

- Châu Mộc mênh mông, sông Mã phía tây, sông Đà phía bắc, khe suối chi chít thiếu gì sơn thủy cho câu thơ cất cánh. Tiếc là không có thời gian để chúng mình thăm thú Mộc Châu.

Thế mà trời chiều mấy chàng lính trẻ. Đêm ấy nghỉ lại Mộc Châu, bữa tối như bữa tiệc. Hôm sau ra xe tiếp tục hành trình. Chiếc Gát như đứa trẻ động kinh, rung lên bần bật rồi tắc lịm. Ông thượng úy cáu tiết văng tục mấy câu, ông thượng sĩ lăng xăng giúp xế, chàng hạ sĩ vớ đâu được chiếc ghi-ta cao hứng bập bùng giai điệu “Xa khơi”, còn bảy chàng tân binh đi quanh đi quẩn, bắt chuyện với mấy nhân viên cửa hàng ăn uống, đến chiều thì gặp mấy nàng gái Thái nõn nà với bộ váy áo xinh xinh, lạ mắt. Bữa cơm tối, bác lái xe chán ngán bảo:

- Chả hiểu sao máy tụt hết hơi. Điệu này chỉ có điện về xin thủ trưởng cho xe khác xuống đón.

Chỉ có bác lái xe, hai ông cấp thượng lo lắng. Còn bọn lính mới (kể cả chàng hạ sĩ) chả mấy quan tâm. Đồng cỏ và mấy bữa cơm ngon đã hút hồn họ.

Sáng hôm sau bừng tỉnh, nhìn quanh nhìn quẩn gã thấy chỉ còn bác lái xe với hai ông thượng đắp chăn hút thuốc, còn mọi người đã biến đâu hết. Gã nháo nhào vùng dậy, chạy ra suối rửa mặt thì thấy Trần Công đang thơ thẩn dưới gốc mận già chi chít quả. Trần Công bảo mùa này Tây Bắc rất nhiều trái cây ngon, đặc biệt là đào và mận. Vừa nói chuyện Trần Công vừa đưa mắt dõi nhìn về phía xa xa, nơi đường số 6 ngoằn ngoèo hút sau rừng cây bát ngát. Gã hỏi:

- Cậu nhìn gì thế. Hay có em nào vừa lướt qua đây?

Công cười, bảo:

- Sao cậu tinh thế. Ban nãy, dưới bờ suối kia, mình vừa gặp một cô gái không biết là Kinh hay Thái. Cô ấy bảo nhà cô cách đây chỉ một con dao quăng, có nhiều đào, nhiều mận, có cả mắc coọc, trên dốc còn có quán tự giác, ăn gì cứ tự trả tiền.

- Thế thì tuyệt vời! Hay là mình tới đó đi?

- Mình muốn lắm, nhưng sợ thủ trưởng không cho.

- Có gì mà không cho. Mình về xin phép ông thượng úy trọ trẹ là xong.

Chưa kịp quay lưng thì một giọng miền Nam đã cất lên:

- Đây! Trọ trẹ đây. Chúng mày tưởng một con dao quăng là gần lắm à? Đi thì cứ đi, nhớ về mà ăn trưa đấy nhé.

Nói xong, ông quay ngoắt, làu bàu: “Đúng là là… Chết vì gái”.

Được lời như cởi tấm lòng, gã cùng Trần Công vội chạy về giắt thêm ít tiền rồi cứ dọc đường số 6 mà đi. Đi mãi, đi mãi cũng chẳng gặp bản làng nào, chỉ thấy những cây mận, cây đào trĩu quả đung đưa bên vệ. Gã đã định quay lại thì Trần Công reo lên:

- Kia kìa. Đấy. Có người trên đỉnh dốc đấy. Mà hình như cô ấy.

Cả hai hết mệt, rảo bước lên dốc.

Đúng là cô ấy. Trần Công bảo thế. Đẹp. Đẹp thật! Chân trắng như chưa bao giờ dẫm xuống bùn. Chỉ tội hơi to. Bàn chân bè bè, cong cong như chân những người kéo thuyền. Ngực căng phồng, rung rinh như trái bưởi cuối mùa. Còn mặt thì tuyệt. Nhất là đôi mắt đen láy, cái miệng tròn xoe, ươn ướt như lúc nào cũng chờ đợi một nụ hôn.

Cô mỉm cười, điệu cười của những người thật thà, chân chất, mến khách. Vườn cây gia đình cô nghiêng nghiêng trên sườn đồi, được bao quanh bằng những cây ban khẳng khiu, ken dày những chiếc lá hình hai trái tim sát lại bên nhau. Tiếc là mùa này không phải mùa ban nở. Phải đến mùa xuân, hoa ban như vạn ngàn con bướm trắng đậu kín núi rừng, khoác lên Tây Bắc chiếc áo hoa xanh thắm, điểm xuyết những chùm hoa tuyết. Trong vườn đủ các loài cây ăn quả, nhiều nhất là mận, là đào. Những quả mận tím, mận xanh mòng mọng nước. Những quả đào xanh nhạt, phơn phớt hồng hình trái tim và cả những trái mắc coọc màu nâu, thoắt nhìn đã thấy ứa nước miếng…

Cô gái nhanh nhảu đưa mỗi người vài trái ăn thử, rồi thoăn thoắt vặt mận, đào, mắc coọc để vào hai chiếc giỏ, bảo:

- Mình cho hai anh.

Gã thò tay vào túi, rút tờ năm đồng mới cứng đưa cho cô. Cô cuống quýt xua tay:

- Không. Mình cho mà. Của nhà mình. Mình cho mà!

Du đi đẩy lại, gã chỉ cốt đụng được vào tay nàng. Tay nàng mát lạnh, êm như lưng chú mèo tam thể. Khi gã đút lại tờ năm đồng vào túi, cô nàng nở nụ cười, liếc con mắt đen láy về phía gã. Người gã run lên, tim đập như vừa vượt qua con dốc cao hun hút. Gã bắt đầu thấy vui vui. Ừ. Đi bộ đội cũng đâu phải đi vào địa ngục.

Cô gái dẫn gã và Trần Công ra một túp lều. À. Đây là “Quán tự giác”. Trước cửa lều viết nguệch ngoạc ba chữ như thế. Trong lều, trên một chiếc chõng tre nhẵn bóng, sạch sẽ để đầy các loại hoa quả. Nào chuối, nào mận, nào đào, nào mắc coọc, lại cả khoai lang luộc, sắn nướng, củ mài… và một ấm tích chả biết chè hay vối mà nước xanh biếc, sóng sánh. Góc chõng là cái giỏ mây trong đó chỏng chơ mấy đồng tiền hào, tiền xu và cả cái gì lấp lánh như một viên đá hoa cương. Sâu trong lều có chiếc bàn thờ nhỏ, một bát hương chật cứng chân hương đặt trước một bức vẽ cô tiên đang dang đôi cánh phía sau đôi tay để trần mềm mại. Gã đoán đây là thần chủ hoặc một thứ ma gà mà có lần gã đã nghe bà cụ Bắc trên Đoài về kể. Bỗng dưng gã thấy rùng mình, quay lại bắt gặp đôi mắt cô gái. Mặt gã lại nóng bừng. Gã chả biết gã đang nghĩ gì, chắc không phải là tình yêu, kể cả thứ tình yêu sét đánh. Nhưng gã nghĩ là gã sẽ chẳng bao giờ quên được cô gái xinh đẹp này.

Những ngày nằm chờ xe ở Mộc Châu, gã, khi thì cùng Trần Công, khi thì đi một mình mấy lần tới nhà cô. Có lần cô rủ gã xuôi về Lóng Luông. Cô bảo đấy mới là thủ đô của những loài hoa, mới là vương quốc của những trái cây quý hiếm. Nhưng gã sợ. Sợ tàn dư thổ phỉ vua Thái, vua Mèo. Sợ đơn vị bỏ rơi và sợ không kìm nén được khi đối diện một mình với cô gái đẹp. Mà gã thì còn quá trẻ. Con đường gã đi mới chỉ bắt đầu. Gã không muốn dở dang như lời khuyên của chú.

Nửa tháng sau thì đơn vị cho xe xuống đón. Cả bọn hò reo. Xe qua quán tự giác trước nhà cô gái, cả gã và Trần Công đều đưa mắt sục tìm. Nỗi buồn đọng mãi trên khóe mắt.

- Đây rồi!

Xe đang bon bon thì ông thượng úy sung sướng reo to. Cả xe bật dậy. Xe rẽ phải, vào khoảng đất trống, bằng phẳng, xung quanh san sát những dãy nhà dài như những dấu huyền. Tất cả xuống xe theo ông thượng úy vào hội trường. Từ trong mấy dãy nhà, bộ đội tỏa ra, toàn là tân binh, chuyện nở như pháo.

Đích thân trung đoàn trưởng ra cửa bắt tay từng người. Ông như người cha đón những đứa con đi xa trở về chứ đâu phải một ông thủ trưởng. Ông bảo bọn gã ngồi hết vào hàng ghế đầu, rồi tự mình kéo chiếc ghế tựa ngồi đối diện, nói chuyện. Ông giới thiệu trung đoàn mình là Trung đoàn 148 Quân khu Tây Bắc. Tiểu đoàn này đang làm nhiệm vụ huấn luyện tân binh. Huấn luyện xong sẽ đưa về các đơn vị theo yêu cầu nhiệm vụ và có thể là theo cả nguyện vọng.

Ông kể trung đoàn thành lập vào đúng ngày kỷ niệm Quân đội nhân dân Việt Nam tròn một tuổi, là một trong những trung đoàn được thành lập sớm nhất của quân đội. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trung đoàn đã chiến đấu và chiến thắng vẻ vang trên khắp vùng Tây Bắc, Bắc Lào, nhất là chiến thắng Quỳnh Nhai cuối năm 1952, xứng đáng với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ông kể, ông là người Thái. Ông yêu người Thái. Người Thái có nền văn hóa lâu đời. Con gái Thái thì đẹp… hết chê. Ông bảo các đồng chí đóng quân ở miền Tây Bắc phải cố mà học tiếng Thái, hiểu phong tục người Thái, phải biết múa xòe, múa sạp, biết hát Then, biết ném còn. Cao hứng, ông còn hát một câu dân ca tiếng Thái: Phán đẩy kin, khảu cắp pa pho/ Phán hảy đảy mơ Mường So giam lả - đại ý là: “Ước được ăn cá vùi tro/ Ước được đi Mường So thăm nàng”. Đến bữa cơm trưa, ông đi lấy bát cùng xuống nhà ăn, ăn với bộ đội. Ông là Trung tá Cầm Vĩnh Chi, người mà gã bảo không bao giờ gã có thể quên. Nhờ ông mà gã tìm được những niềm vui, quên được những nỗi buồn. Nhờ ông gã đã chăm chỉ luyện rèn, mặc dù bị hỏng xe, lên chậm, gã bắn bài một vẫn đạt ba mươi điểm. Sau đợt huấn luyện, gã và ba đồng chí có thành tích tốt nhất được thưởng phép bảy ngày. Gã đắn đo. Được thưởng phép ai mà chẳng thích, nhưng về thì tốn kém lắm, biết đâu dân làng lại cho là đào ngũ thì nhục. Chần chừ mãi, cuối cùng gã quyết định nhờ xe đơn vị quay lại Mộc Châu tìm cô gái đã hút hồn gã. Rủi cho gã, bố mẹ cô bảo cô đã về Hà Nội đi học. Thì ra mấy tháng trước cô vừa mới thi xong đại học, nghỉ hè. Thế mà gã và Trần Công cứ tưởng cô chỉ là cô gái đẹp nương rẫy nơi làng bản. Ở chơi vài hôm, gã xin phép pho me trở lại đơn vị. Gã tự thấy tình yêu trong gã đang lớn lên, đang tiếp cho gã thêm sức mạnh, nhưng nhiều khi cũng giày vò khiến gã khổ đau, nghi kỵ.

Trước ngày làm lễ kết thúc khóa huấn luyện, trung đoàn trưởng đi một vòng kiểm tra. Lâu nay, gã tự coi mình như người thân của ông, nên khi ông tới gần, gã đã mạnh dạn hỏi:

- Thủ trưởng ơi, có phải chúng cháu được đề đạt nguyện vọng công tác không ạ?

- Cũng có thể. Nhưng chủ yếu là theo yêu cầu nhiệm vụ. Thế nguyện vọng của đồng chí là gì?

- Cháu muốn xin đi học quân giới.

- Quân giới à? Hay đấy. Nhưng vì sao?

Gã nhớ hồi còn bé, có một đơn vị bộ đội đánh bốt Bịu về đóng quân ở xóm nhà gã. Một anh bộ đội đã cho gã đeo một khẩu tiểu liên. Gã mê lắm. Chú gã lại nhiều lần kể cho anh em gã nghe về Anh hùng Trần Đại Nghĩa, Anh hùng Ngô Gia Khảm, đã chế ra bao nhiêu vũ khí, có loại bắn xuyên cả lô cốt, boong ke, cả xe tăng khiến giặc Pháp hết hồn. Gã căm thù giặc Pháp vì đã bắn chết mẹ gã. Gã càng yêu quý hai ông Anh hùng quân giới. Hết cấp ba, gã thi vào Đại học Tổng hợp Lý, lại muốn vào Bách khoa để sau này có thể chế được những loại vũ khí mà Pháp không có, thế giới cũng không có. Vì vậy mà gã mê quân giới.

Gã đắn đo rồi trả lời trung đoàn trưởng bằng một câu hỏi:

- Thưa thủ trưởng. Có phải ông Trần Đại Nghĩa là kỹ sư quân giới?

Trung đoàn trưởng gật đầu.

- Cháu sẽ như ông ấy, sẽ sáng chế những vũ khí mà các nước không có, nếu cháu được vào quân giới.

- Tốt! Tôi sẽ lưu ý và sẽ đề đạt nguyện vọng của đồng chí lên cấp trên. Nhưng phải nhắc nhở đồng chí hai vấn đề: Một là: Trong quân đội, nhất là trong giờ hành chính không xưng hô chú cháu. Tất cả là đồng chí. Hai là: Phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh. Nếu vì lý do nào đó, nguyện vọng của đồng chí không được đáp ứng thì đồng chí vẫn phải tuyệt đối chấp hành. Đó chính là sức mạnh của mọi quân đội.

Gã xìu xuống, lý nhí: “Vâng ạ!”.

***

Nguyện vọng của gã đã không được đáp ứng. Gã bị điều về Tiểu đoàn 26 Thông tin của quân khu. Tiểu đoàn này đối diện với quân khu bộ, gồm ba đại đội: Đại đội 1: Thông tin hữu tuyến. Đại đội 2: Thông tin vận động. Đại đội 3: Thông tin vô tuyến. Đại đội 3 lại chia thành ba trung đội. Trung đội 1: Vô tuyến 2 oát. Trung đội 2: vô tuyến 15 oát. Trung đội 3: Vô tuyến 50 oát đặt trên xe chuyên dụng và vài ba máy 15 oát đặt trên xe com-măng-ca đặc chủng. Gã được bổ sung vào Đại đội 3, trung đội máy 50 oát đặt trên xe chuyên dụng. Bạn bè ghen tỵ và chúc mừng gã. Nhưng gã thì buồn thiu. Trong khi anh bạn Trần Công chỉ thích được về thông tin làm “lính công tử” quần áo trắng bốp, lên xe xuống ngựa, mưa chả đến mặt, nắng chả đến đầu… thì lại bị điều đi học lái xe. Tuy không trúng nguyện vọng, nhưng Trần Công không buồn. Trần Công bảo: Mình lái xe thì muốn gặp Ành (Lò Thị Ành là tên cô gái Mộc Châu) lúc nào thì gặp. Nhất định mình sẽ chiếm được trái tim của nàng. Gã hốt hoảng. Chết thật. Hóa ra Trần Công cũng yêu nàng. Trần Công lại là người đến trước. Liệu nàng yêu gã hay yêu Trần Công? Hình như trong tim gã đang nhen nhóm một ngọn lửa - ngọn lửa của Ô-ten-lô. Gã sợ ngọn lửa ấy đốt cháy gã.

Nhưng gã hoàn toàn yên tâm. Về Tiểu đoàn 26 chưa được chục ngày thì gã nhận được thư nàng. Ngắn thôi. Nhưng quan trọng là câu mở đầu: “Anh thương nhớ!” và câu kết: “Em đợi. Hôn anh nhiều”. Gã vội hồi âm. Gã viết rất dài, nhắc đi nhắc lại, quanh co, luẩn quẩn như con đường số 6. Nhưng phải thừa nhận là gã viết hay. Rất hay. Cũng lạ. Hồi học sinh sở trường của gã là những môn tự nhiên, văn chỉ trung bình khá, có thể nói là xoàng, thế mà viết thư cho nàng lại hay như tiểu thuyết diễm tình. Từ đó gã và nàng thư từ qua lại liên miên. Thư của nàng đã bơm cho gã những năng lượng kỳ diệu. Gã học rất giỏi, chơi thể thao rất khá và làm thơ rất hay. Tốc độ thu phát tín hiệu Mooc của gã cực cao, lớp đàn anh nhập ngũ tháng Tư năm ấy cũng phải ngả mũ cúi chào. Gã còn đoạt giải “ất ơ” ở căng-tin quân khu bộ. Nguyên do là ở đoàn văn công quân khu có một diễn viên nức tiếng xinh đẹp, tên là Cao Ánh Tuyết. Cao Ánh Tuyết là niềm ao ước của tất cả đàn ông, nhưng cũng là tâm điểm của những cây “ớt chỉ thiên”. Vì thế vào một ngày đông giá rét, trước cửa căng-tin quân khu bộ xuất hiện một vế đối: “Cao Hổ, Cao Nai, Cao Ánh Tuyết” thách ai đối được sẽ được một phần thưởng bằng hiện vật trị giá mười tám đồng. Phần thưởng được ủy thác cho Thiếu úy Ngô Thùy Linh căng-tin trưởng trao tại cửa căng-tin. Không cần suy nghĩ gã mượn bút viết vào tờ lịch vế đối “Tú Xương, Tú Mỡ, Tú Lơ Khơ” trao ngay cho thiếu úy. Sáng hôm sau, Thiếu úy Ngô Thùy Linh đứng chờ sẵn ở cổng. Khi gã chạy thể dục qua, thiếu úy vội gọi vào trao cho gã một cái hộp mặt trên ghi nắn nót dòng chữ: “PHẦN THƯỞNG CHO MỘT TÀI NĂNG”. Giở ra, thì… ôi thôi đủ thứ nhu yếu phẩm mà theo Thiếu úy Linh phải xấp xỉ hai mươi nhăm đồng, gấp năm lần phụ cấp binh nhì của gã. Gã đem về khao cả tiểu đội. Hay tin, thượng úy, chính trị viên phó tiểu đoàn gọi gã lên quạt cho một trận, bảo là gã đã làm mất uy tín của Trung úy Cao Ánh Tuyết, gián tiếp làm mất uy tín của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, bắt gã phải viết kiểm điểm. Gã buồn, hậm hực ra về.

Không may cho gã, có ông nhà thơ rởm nào đó, vô công rồi nghề, viết một bài song thất lục bát:

Năm phút rưỡi hai mươi chữ tức

Tức cái gì có ức lắm không?

Ức xin chớ để trong lòng

Bảo đây đây sẽ làm thòng lọng cho.

Để chế nhạo cái tật nói chuyện cứ kèm theo hai tiếng “tức là” vô nghĩa của chính trị viên phó tiểu đoàn, đem dán vào cửa phòng ông. Sáng ra, ông ức lắm, đùng đùng chạy xuống “xê” 3 gọi gã dậy mà quát mắng ầm ĩ. Gã ra sức thanh minh, nhưng ông thượng úy không nghe. Ông bảo chỉ có gã, gã thù ông vì bị ông bắt viết kiểm điểm.

Gã cãi không được, nhưng gã lại có quý nhân phù trợ. Chính trị viên tiểu đoàn - Đại úy Lê Lộc có thói quen dậy sớm vừa thể dục, vừa tranh thủ đi khắp doanh trại xem xét tình hình. Khi thấy cấp phó của mình không giữ được bình tĩnh, ông dừng lại, ôn tồn hỏi nguyên do. Trung đội trưởng của gã, có cái tên như tên người Trung Quốc: Diệp Khải Toàn, một thiếu úy chuyên môn nghiệp vụ rất giỏi, đã từng đi thi thu phát báo toàn quân, một con người cần mẫn, trung thực, khẳng định: Gã không phải là tác giả bài thơ, vì từ lúc ở tiểu đoàn về, gã vội chạy lên trung đội xin giấy để viết kiểm điểm, chưa hề đi đâu. Gã hay làm thơ, nhưng thơ dạng này nhất định không phải là thơ của gã. Nếu cần thì tổ chức giám định chữ viết, chứ nhất định không được chụp mũ, không được đổ oan cho một chiến sĩ tốt.

Đại úy Lộc cười, bảo: “Làm gì đến nỗi nghiêm trọng thế. Có lẽ chỉ là sự hiểu nhầm”, rồi bảo đồng chí thượng úy về tiểu đoàn hội ý.

Buổi chiều, hết giờ hành chính, đại úy xuống mời gã sang phòng trung đội trưởng nói chuyện. Ông ân cần hỏi gã mọi chuyện. Khi nghe gã đọc đôi câu đối ở nhà ông trưởng họ, đại úy nói như ông cụ bố vợ chú gã:

- Ở Việt Nam này, nhà như nhà cậu đâu có mấy. Cố mà giữ lấy truyền thống. Mình thấy cậu có năng khiếu văn chương. Hãy viết đi. Văn chương sẽ giúp cậu tin vào cuộc sống, tin vào con người, tin vào tương lai. Và mình tin cậu!

Từ đó đại úy coi gã như bạn vong niên. Gã tin tưởng đem tất cả thư của nàng cho đại úy đọc. Đọc xong, đại úy bảo:

- Cậu có số đào hoa. Nhưng cẩn thận đấy. Tình yêu có thể nâng người ta, cũng có thể dìm người ta. Cậu không nghe cụ Nguyễn Du gọi “bể tình” à. Quân đội không cấm yêu đương, nhưng phải yêu cho đúng. Cái vụ cô bé Vi Thị Mến cậu đã quên rồi sao?

Gã đâu có quên, nhưng lỗi đâu tại gã. Hôm ấy cả trung đội vào Mường Hoa làm rẫy, Trung đội trưởng Diệp Khải Toàn rủ gã vào bản chơi. Thấy ngôi nhà sàn đầu bản to đẹp, gã đòi lên. Trung đội trưởng đồng ý. Lên nhà, mọi người tíu tít mời chào, nhào vào ngồi quanh bếp lửa. Vì được đi chơi nên gã diện bộ quân phục mới tẩy, trắng tinh. Ngồi bệt xuống sàn, gã sợ bẩn. Gã thấy có cái ghế đan bằng mây xinh xinh, sạch sẽ bèn đi lại lấy đem ra ngồi. Cô con gái, mà sau này gã mới biết tên là Vi Thị Mến, mặt bừng đỏ, chạy thụt vào nhà. Mọi người ngơ ngác.

Hết mấy ngày lao động, trở về đơn vị thì một hôm có mấy người dân tới gặp Ban chỉ huy tiểu đoàn đòi gặp gã. Các thủ trưởng cho gọi gã lên. Gã như chú gà tồ nào có biết gì. Mọi người giải thích mãi, gã mới hiểu rằng việc gã ngồi vào chiếc ghế mây giống như ở quê gã chàng trai tới xin với cha mẹ người con gái cho mình làm rể. Cô gái không chạy ra khỏi nhà mà chạy vào buồng là cô đã ưng cái bụng, đã “tình trong như đã…” theo cách diễn đạt tế nhị của cụ Nguyễn Du. Gã ớ ra, mặt đỏ bừng. Gã còn cô gái xứ Mộc Châu, gã còn gia đình, vả lại gã đâu có yêu, đến tên cô ta gã còn chưa biết, nữa là… Gã khăng khăng phản đối. Mấy ông già người Thái mặt đỏ phừng phừng. Sự việc sắp đi đến hồi nghiêm trọng. May sao, giữa lúc căng thẳng thì đồng chí tiểu đoàn trưởng về. Ông vồ lấy ông già người Thái, reo lên:

- Ót. Có phải Ót không? Bựng đây. Bựng A1, “bê” 2, “xê” 9 đây. Lâu nay lẩn đâu mà bây giờ mới thấy mặt…

Thế là hai ông ôm nhau. Thì ra họ là những người lính cùng tiểu đội, đã từng chiến đấu giành từng xăng-ti-mét đất trên đồi A1 ở Điện Biên Phủ năm xưa.

- Hú vía. Hôm ấy mà anh Bựng không về kịp thì… cậu đã có vợ.

Cả hai cùng phá lên cười.

Truyện gã viết đầu tiên là chuyện ấy. Trung tá Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội gửi thư cho gã. Trung tá biểu dương, khen ngợi nhưng cũng phê phán thẳng thừng. Ông vạch cho gã bao nhiêu khiếm khuyết. Cuối cùng ông khuyên:

“Đồng chí nên viết những chuyện vẫn xảy ra thường ngày mà đồng chí quan sát được. Đừng tham viết dài. Viết ngắn và chọn lọc, mặc dù điều đó vô cùng khó. Nhưng tôi tin đồng chí sẽ trưởng thành. Ngoài Văn nghệ Quân đội đồng chí có thể gửi cho những tờ báo khác, nhất là buổi phát thanh Quân đội nhân dân. Văn nghệ Quân đội chờ đợi những sáng tác mới của đồng chí. Chào thân ái!”.

Mặc dù truyện ấy của gã cứ bặt vô âm tín, nhưng những lời khuyên của ông trung tá đã nâng đỡ gã. Ngoài công việc của một người lính, gã dành thời gian để viết thư cho nàng và để viết văn. Ngay từ bài viết đầu tiên gửi cho Đài Tiếng nói Việt Nam kể về một người lính gác kiên quyết không cho ông thiếu tướng vào đơn vị vì ông không đeo quân hàm, không có giấy giới thiệu… đã được buổi Phát thanh Quân đội nhân dân phát đi phát lại. Rồi đến các truyện: Con dao quắm, Hoa ban châu Thuận, Cô gái Mộc Châu… đến mấy bài thơ: Hoa trắng miền Tây, Heo hút Tây Trang, Đón em đỉnh dốc Pha Đin… được bạn đọc, nhất là bạn đọc miền Tây yêu thích. Người ta gọi gã là nhà văn. Gã đỏ mặt bảo “chỉ là tập tọe”. Càng vậy, gã càng được nhiều người biết và yêu quý. Chỉ có ông chính trị viên phó tiểu đoàn là cho rằng gã chỉ là kẻ bịa tạc. Làm gì có chuyện đồng chí Bằng Giang đến đơn vị mình mà lính gác không cho vào, làm gì có chuyện gã lao xuống dòng suối đang cuồn cuộn chảy mò dao quắm cho bà cụ người Thái… Láo toét… Láo toét hết… Gã cũng chẳng buồn tranh luận với ông, vì gã biết chẳng bao giờ ông chấp nhận gã.

Thế nhưng khi chú gã gửi tờ giấy Vụ Đại học Chuyên nghiệp báo gã về Trường Đại học Ngoại ngữ tập trung để học tiếng Nga vì gã được Vụ chọn đi Nga du học thì đích thân chính trị viên phó tiểu đoàn lại xuống tận nơi đưa tờ giấy ấy cho gã, còn tươi cười bảo:

- Phải công nhận là cậu giỏi thật. Thi đại học mà đỗ thủ khoa thì giỏi thật. Tớ chịu đấy. Nhưng cậu đã nhập ngũ thì không thể quay về đi học được đâu. Tớ rất tiếc và thành thật chia buồn với cậu. Nhưng tớ tin là cậu sẽ vượt qua, sẽ tiến bộ và sẽ thành một nhà văn lớn. Quân đội cũng là một trường đại học lớn mà…

Ông cười rất tự nhiên, giơ ngón tay cái rồi cao hứng huýt sáo đi về. Gã bỗng thấy thương ông quá. Lớp tuổi ông nào mấy người được học hành đến nơi đến chốn. Nghèo đói, giặc giã khiến lớp cha anh cơ hàn, thất học. Gã ngẩn người suy nghĩ. Liệu gã có nên buồn, có nên thất vọng hay dẹp tất cả để vươn lên? Gã lại nhớ tới giấc mơ trước ngày nhập ngũ. Lời Tổ Phụ như còn phảng phất đâu đây. Bóng xưa bảng lảng… gã chợt nghĩ tới tiêu đề một truyện ngắn - câu chuyện kể lại giấc mơ kỳ diệu.

Gã quyết định quên đi tờ giấy ấy. Gã đâu còn là cậu học trò mơ giấc mơ viện sĩ. Gã đã là một chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng… Dẫu vậy, nỗi buồn, sự tiếc nuối vẫn đeo bám gã. Gã trằn trọc, có lúc hận trời, hận đời, hận cả sự ngu ngốc của chính mình. May cho gã là thời gian cứ lặng lẽ trôi, rửa sạch vết đau, xóa sạch nỗi buồn, ban tặng niềm vui và sự trưởng thành.

***

Mùa xuân năm sau (năm Giáp Thìn - 1964) gã được tiểu đoàn lựa chọn xuống trường Hạ sĩ quan Bố Ẩn học lớp trưởng đài 15 oát. Gã hăng hái chuẩn bị mọi thứ để có thể học tốt nhất, không quên viết thư cho nàng báo tin đã thay đổi địa chỉ và hòm thư. Chỉ mười ngày sau, gã đã nhận được những lời yêu có cánh. Gã vô cùng phấn khởi, tự tin như đã từng tự tin mình sẽ là viện sĩ.

Chủ nhật đầu tiên, gã khấp khởi tìm vào trường lái xe chơi với Trần Công. Gặp nhau mừng như được gặp người nhà. Trần Công rủ gã ra chân chiếc cầu được sơn trắng tinh như chú bồ câu dang cánh vượt qua dòng suối Nậm Ngừ, nối Quân khu bộ với thị xã Sơn La ngập tràn sắc đào, ban trắng và những chuyện đau thương quanh một nhà tù. Suối Nậm Ngừ mùa này trong vắt nhìn rõ những viên đá trắng muốt, những chú cá đủ màu tung tăng bơi lội. Dù đang là mùa xuân, trời còn rét ngọt, nhưng hôm ấy trời bỗng dưng bừng nắng, hai người rủ nhau cởi bỏ quần áo nhảy ào xuống dòng nước mát lạnh, róc rách, lượn lờ. Họ vừa nói chuyện, vừa ngước mắt ngắm nhìn dòng người tấp nập xuôi ngược trên cầu. Một tốp những cô gái Thái áo trắng, váy xanh thêu thùa diêm dúa, đưa tay chỉ trỏ, líu lo, hai người nghe câu được câu chăng, rủ nhau xuống suối. Họ vượt lên đầu nguồn cách chỗ hai người vài chục mét. Họ vén váy. Vén tới đâu nước dìm tới đó. Rồi vén áo, giấu làn da trắng ngần vào dòng nước. Nhưng nước thì trong quá, mà da các nàng lại trắng quá, mắt những chàng trai độ tuổi gã lại quá tinh tường. Đám con gái đỏ mặt vì nhận ra điều đó, e thẹn dìm xuống sâu hơn. Nhưng sâu mấy mà che nổi. Các nàng đành cậy đông mặc cho hai chàng trai thèm no con mắt. Có thêm vài anh bộ đội ào xuống, tinh nghịch rủ hai người vượt lên phía thượng nguồn. Bọn con gái la ó ầm ĩ, buông váy chạy ngược bờ suối lên cao hơn. Phụ nữ Thái bảo: “Tắm suối phải tắm trên nguồn/ Tắm ở phía dưới chửa luôn có ngày…” nên chẳng bao giờ chịu tắm dưới dòng. Mấy anh em chiến sĩ có cả mấy chàng người Thái đùa dai, lợi thế quần đùi cứ thế mà trêu. Cuộc rượt đuổi diễn ra tưởng như chẳng bao giờ chấm dứt. Vui thì cũng thật vui, nhưng mà ngộ quá chừng.

Gã và Trần Công bỏ cuộc, tìm lên một bờ suối vắng, ngồi dưới gốc bích đào, ngước nhìn về phía Sơn La - nơi ấy có cây đào Tô Hiệu mùa này chắc rực rỡ đỏ thắm những bông hoa như máu của những người cộng sản mấy chục năm nhuộm thắm đất này. Xa xa là những sườn núi trắng toát hoa ban. Nhìn hoa ban hai người lại cùng nhớ tới một người. Trần Công hỏi gã:

- Lâu nay cậu có được tin em Ành không?

Mắt gã sáng lên, tự hào:

- Sao không? Mình với cô ấy tháng nào mà chả có vài lá thư. Nhờ cô ấy mà mình quên hết nỗi buồn, yêu đời và yêu tất cả mọi người.

Mặt Trần Công nghệt ra, tỏ vẻ không tin. Thấy vậy gã càng đắc ý, lôi trong túi áo ra tất cả thư của nàng mà lâu nay gã vẫn coi là bảo bối bất ly thân, bảo:

- Đây. Không tin thì đọc đi.

Trần Công run run mở từng phong thư. Càng đọc, mặt Công càng tái đi, rồi đột ngột ngồi phắt dậy, bảo:

- Cậu ngồi đây. Chờ tớ một chút. Chả lẽ cô ta coi hai thằng chúng mình là hai thằng ngốc. Chả lẽ cả hai thằng đều bị cắm sừng?

Trần Công chạy vù đi. Gã ngơ ngác không hiểu chuyện gì. Chưa đầy mười phút, Công thở hồng hộc dúi vào tay gã một bọc thư, giận dữ bảo:

- Đọc đi. Mình thật không ngờ…

Gã cũng run run mở những phong thư. Bức thư nào cũng ngắn, cũng mở đầu bằng ba từ: “Anh thương nhớ” và kết thúc bằng hai câu ngắn gọn như hai viên đạn bọc đường đầy hy vọng: “Em đợi… Hôn anh nhiều…”.

Gã lẳng lặng vò nát những lá thư, ném tung xuống dòng suối đang hối hả, ạt ào tìm về cõi xa xăm.

Từ hôm đó gã như một cái bóng. Gã không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Khi còn là học sinh cấp ba, gã ngồi bàn dưới, Yến ngồi bàn trên. Tóc Yến vừa dài, vừa dày, mấy lần quăng xuống làm đổ lọ mực Cửu Long của gã. Gã tức lắm. Chờ một lần cô nàng diện chiếc áo pô-pơ-lin trắng muốt, gã đã bôi mực ướt đầm mép bàn. Cô nàng cứ vô tư dựa lưng vào. Lúc ra chơi, bạn bè mách, Yến tức tưởi khóc không thành tiếng. Gã ân hận lắm, quăng cả lọ mực ra bờ ruộng, bẽn lẽn xin lỗi bạn. Yến chỉ thì thào: “Cậu ác lắm!” rồi nguýt gã một cái, nhoẻn miệng quay đi. Từ đó, gã và Yến thành đôi bạn vô cùng thân thiết. Gã học giỏi. Yến yếu môn toán, lý, lại là hai môn sở trường của gã. Gã tình nguyện xin được kèm cặp Yến. Cuối năm, Yến thi tốt nghiệp đạt loại khá. Bạn bè gán ghép, Yến bình thản bảo: “Ừ, chúng mình yêu nhau thì đã sao? Cũng như các cậu yêu trường, yêu thầy cô thôi mà”. Cho nên khi Yến gọi gã là “Viện sĩ trên mây” rồi luôn tìm cách tránh mặt, gã tuy buồn nhưng không cảm thấy bị xúc phạm, bị lừa dối, bị phản bội. Đằng này, chính Ành chủ động viết thư cơ mà. Tại sao không yêu mà Ành có thể viết được những lời như thế, không yêu sao Ành thèm khát một nụ hôn? Tại sao Ành cũng viết những lời ấy cho Trần Công? Trần Công có đi xa hơn những điều mình tưởng? Gã tin là không, gã tin là Công chẳng giấu giếm gã điều gì. Vậy thì tại sao cùng một lúc Ành viết những lời yêu cho cả hai người? Mà có thật là yêu không? Bố mẹ Ành kể, ở bản, ở cả trên Sơn La, cả dưới Mộc Châu, rất nhiều người tìm đến với Ành. Ành bảo Ành còn phải đi học, phải trở thành cô giáo đem cái chữ về bản, về làng. Ành coi tất cả những ai đến với mình đều là bạn. Ành không lừa dối ai, nhưng cũng không muốn mất ai. Người ta bảo đồng bào dân tộc thật thà lắm. Không lẽ Ành muốn dành tình yêu cho cả hai chàng trai Kinh Bắc? Không. Không đâu. Chỉ là sự dối lừa, trò nghịch ngợm quái dị để được cười khi thấy những kẻ si tình đau khổ. Từ Ành mà gã căm ghét đàn bà. Ấy chết. Không thể cá mè một lứa. Gã hối hận. Mẹ gã, chị gã cũng là đàn bà đấy thôi. Các anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu… cũng là đàn bà đấy thôi… và bao tấm gương liệt nữ, bao người phụ nữ thủy chung thờ chồng nuôi con, đảm đang việc nước, việc nhà. Không. Chỉ có nàng ấy. Con sâu bỏ rầu nồi canh. Gã căm thù nàng. Gã chỉ muốn trả thù. Nhiều đêm gã không ngủ. Ban ngày lên lớp, gã nghe tai nọ xọ tai kia. Có lần quên mở máy, gã đã cuống quýt đòi gọi cơ công. Gã ngủ ít, ghi nhật ký thì nhiều…

Cho đến một đêm, trời Bố Ẩn trong veo, hơi mát từ núi phả vào, xa xa con hoẵng khắc khoải chạy khắp núi rừng tác gọi bạn tình, gã đang chìm vào giấc ngủ thì nàng đến. Nàng thanh minh rằng nàng học theo một cô gái nước Nga, sợ bạn người yêu buồn nên đã viết thư cho nhiều chiến sĩ… Nàng không ngờ ra nông nỗi này. Nàng khóc. Nước mắt của nàng chảy thành con suối, con suối lềnh phềnh trôi những bức thư, kéo cả gã theo. Đứng trên bờ, nàng vừa khóc, vừa cười. Gã căm tức nhìn lên thì không phải là nàng mà là một bà già quý phái. Bà nghiêm khắc nhìn gã bảo:

- Con tưởng tổ phụ con đến với ta dễ dàng lắm sao? Nếu tổ phụ con hèn nhát để tên hoạn quan làm nhục, quy hàng nhà chúa. Nếu tổ phụ con không phải là Đô Minh vương, thì một công chúa như ta đâu có thèm để ý. Đàn bà nghĩ sâu lại hóa nông, biết một chẳng biết mười. Cớ sao vì thế mà con âu sầu, trễ nải? Cớ sao con dám quên lời tổ phụ, quên lời chú con? Con biết tội của con chưa?

Nói rồi bà lướt nhẹ xuống dòng nước bập bềnh, trôi mãi về xuôi. Hương thơm man mác khắp phòng. Gã bừng tỉnh. Mồ hôi vã ra. Gã vừa vui, vừa sợ. Thì ra mỗi bước chân gã đi, mỗi ý nghĩ, mỗi việc gã làm đều được tổ tiên theo sát. Gã phải nhớ những lời của tổ phụ, tổ mẫu, nhớ những lời của chú. Gã phải quên nàng, quên người đàn bà xinh đẹp miền Tây Bắc này. Gã còn con đường của gã.

***

Đang háo hức chuẩn bị cho lễ tốt nghiệp thì ngày mồng 5 tháng 8 đen tối ập đến. Đế quốc Mỹ cậy mạnh, cậy giàu đã cho máy bay, chiến hạm bắn phá miền Bắc, huênh hoang tuyên bố “đưa Bắc Việt trở về thời đồ đá”.

“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” - lời Bác Hồ năm nào kêu gọi Toàn quốc kháng chiến giờ lại vang lên. Cả dân tộc bước vào thời chiến.

Buổi lễ không tổ chức hoành tráng như dự định, nhưng vẫn trang nghiêm và cảm động, vẫn có Thiếu tá Chủ nhiệm Thông tin quân khu, có Ban chỉ huy Tiểu đoàn 26 và đặc biệt khi chuẩn bị chào cờ bế mạc thì một chiếc U-oát từ đường 6 rẽ vào. Một người nhỏ con, nhanh nhẹn bật cửa bước ra, đi thẳng về phía hội trường. Gã nhận ra ngay Thượng tá Hồng Kỳ - Chủ nhiệm Chính trị quân khu mà có lần gã đã được nghe ông nói chuyện. Đó là kỷ niệm không bao giờ gã có thể quên.

Hồi còn ở Tiểu đoàn 26, gã với Đại úy Lê Lộc như đôi bạn vong niên. Hồi ấy thường những tối thứ bảy đầu tháng, văn công quân khu lại tổ chức biểu diễn cho các sĩ quan trong quân khu bộ và những đơn vị trực thuộc xem. Vì là tối thứ bảy nên hầu hết sĩ quan đều mặc thường phục. Thứ bảy hôm ấy là ngày mồng 2 tháng 11 năm 1963 (tức là ngày 17 tháng 9 năm Quý Mão). Sở dĩ gã nhớ rõ như vậy là vì gã làm lính đã được bốn tuần trăng. Hôm ấy, do quá nửa sĩ quan của tiểu đoàn đi chiến dịch 74 bên nước bạn Lào nên số đi xem rất ít. Đại úy Lộc nhớ tới gã, đem xuống một bộ thường phục, bảo:

- Tớ báo cáo đại đội rồi. Hôm nay cậu đi xem văn công với tớ.

Gã sướng mê, nhưng còn e. Đại úy phải giục mấy lần. Gã diện bộ cánh đại úy mang xuống, khoác bên ngoài chiếc áo đại cán bốn túi vừa như in, đẹp trai lồng lộng, đến nỗi khi bước vào hội trường, chị Lê Ngân ngạc nhiên hỏi:

- Đồng chí… Đồng chí mới được điều về đơn vị nào mà trẻ thế đã là sĩ quan? Lại còn đẹp trai ngời ngời.

Gã thấy xấu hổ quá. Cũng may là Đại úy Lộc nhanh miệng bảo:

- Sĩ quan mới ra trường, về đơn vị tôi thực tập ý mà.

Mấy cô văn công trẻ thì dồn mọi ánh mắt về phía gã. Gã vừa ngượng, vừa sợ, nói nhỏ với đại úy: “Hay là em về”. Đại úy huých tay: “Hầy! Yên tâm đi”. Hai thầy trò lẳng lặng vào hàng ghế sau cùng. Cuộc biểu diễn bắt đầu. Mở màn là song ca “Trước ngày hội bắn” của đôi nam nữ diễn viên. Đại úy huých gã hỏi:

- Có biết ai đấy không?

- Dạ. Em không biết.

- Nhân vật trong câu chuyện “đối có thưởng” đấy.

- Chị Cao Ánh Tuyết hả thủ trưởng?

- Còn ai nữa. Hoa khôi của quân khu đấy. Xinh không?

Gã im lặng. Gã đang liên tưởng để so sánh Ánh Tuyết với cô nàng của gã. Gã cho rằng: Ánh Tuyết chỉ hơn nàng có đôi chân nho nhỏ, còn phoóc người và khuôn mặt thì… thua xa.

Xong tiết mục song ca, đến một bài hát Then, rồi đến một làn điệu chèo. Bên cạnh gã là một ông đại úy chả biết ở đơn vị nào lầu bầu đứng dậy bảo: “Con này mất dạy. Hát cái chó gì mà lúc nào cũng hi hi, hi hi” rồi bực dọc bỏ về. Thấy lạ, gã ghé tai hỏi nhỏ Đại úy Lộc. Đại úy cười, bảo:

- Ông ấy là người Thái. Tiếng Thái thì hi hi là cái số ta của phụ nữ. Hát chèo mà không đệm í hi thì ai gọi là hát chèo. Ông ấy không hiểu, cho là hát nhảm nhí nên mới bỏ về.

Gã phì cười. Nhưng kìa, ông ấy lại trở lại, lẩm bẩm một mình: “Chả biết có chuyện gì. Văn công đang biểu diễn thì lại nói thời sự”. Đúng lúc ấy, đèn bật sáng. Đồng chí trưởng đoàn văn công xuất hiện:

- Báo cáo các đồng chí. Tiết mục văn nghệ hôm nay tạm dừng ở đây. Do yêu cầu nhiệm vụ cấp bách mà quân khu quyết định cử đồng chí Hồng Kỳ - Chủ nhiệm Chính trị quân khu tới nói chuyện với các đồng chí. Xin kính mời chủ nhiệm.

Một người nhỏ con bước ra. Gã chán ngán thở dài. Bao nhiêu ngày mong đợi được xem văn công, thế mà cái ông thượng tá nhỏ con này lại phá hỏng. Đã là Chủ nhiệm Chính trị thì lúc nào mà chả chính chị với chính em. Thà lăn lộn ngoài thao trường nắng gió còn hơn ngồi trong hội trường học chính trị. Mọi thứ đều là công thức, là những điều lặp đi lặp lại. Chao ơi! Khô như rang, quanh đi là quan điểm, quanh lại là đường lối…

Gã đang định trốn về thì ông thượng tá bắt đầu nói:

- Thưa các đồng chí. Chắc một số các đồng chí đã biết câu chuyện đế quốc Mỹ thay ngựa giữa dòng. Một nhóm tướng lĩnh của quân đội Sài Gòn đêm hôm qua đã đảo chính, lật đổ Ngô Đình Diệm. Số phận gia đình họ Ngô đến nay chưa ai biết. Người Mỹ rất thực dụng và dứt khoát. Chắc họ không để anh em họ Ngô có cơ hội làm lại cuộc đời, có cơ hội trả thù. Nhưng dù là ai lên thay thế ông Diệm, ông Nhu thì bản chất bán nước, hại dân, căm thù cộng sản cũng không thay đổi và đế quốc Mỹ sẽ càng trắng trợn, lộ nguyên hình là kẻ xâm lược. Cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam sẽ càng khó khăn, khốc liệt, thậm chí chúng có thể mạo hiểm đưa cuộc chiến tranh ra miền Bắc. Trước tình hình ấy thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đặc biệt là đội ngũ sĩ quan chúng ta phải làm gì?

Ông dừng lại một chút, rồi tưởng như quên mục đích ban đầu ông kể về lịch sử nước Mỹ, về nữ thần tự do, về tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió”, tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”… Ông nói về tập thơ “Việt Bắc”, đọc thơ “Tây Tiến”, nói chuyện Vua Thái đèo Văn Long... Rồi ông đột ngột quay về câu hỏi ban đầu. Ông bảo sĩ quan ngày nay phải vừa hồng vừa chuyên. Ông kể rằng một ông thượng tá như ông đến thăm một đơn vị thông tin vô tuyến. Thượng tá được người ta đưa xuống thăm một tổ đài. Ông hỏi:

- Các đồng chí làm việc thế nào?

- Báo cáo thủ trưởng, mọi hôm vẫn tốt. Nhưng từ sáng nay bị mất sóng ạ.

Đồng chí trưởng đài sốt sắng báo cáo. Ông cau mày hỏi:

- Thế đã cho người đi tìm chưa?

- Dạ… dạ…

- Không dạ rơm gì cả. Huy động cả đơn vị đi tìm. Cần gì cứ nói. Tôi sẽ giải quyết ngay.

Trưởng đài là một tay láu cá. Biết thượng tá không hiểu gì về chuyên môn, bèn gãi đầu gãi tai, bảo:

- Báo cáo thủ trưởng, mất sóng vì máy của chúng em thiếu chất bôi trơn. Giá bây giờ có con ngỗng béo, thịt mà lấy mỡ bôi vào thì sóng lại về ngay thôi ạ.

- Tưởng gì…

Thượng tá liền viết ngay một lệnh, yêu cầu Ban Hậu cần xuất ngay cho tổ đài hai con ngỗng, còn mở ngoặc thật béo, phục vụ cho công tác đi tìm sóng…

Cả hội trường phá lên cười. Ông bảo “có hồng mà không có chuyên thì sẽ ứng xử như ông thượng tá nọ, còn có chuyên mà đạo đức kém (tức là thiếu hồng) thì sẵn sàng lừa trên, dối dưới như gã trưởng đài láu cá”. Bài học thật sâu sắc…

Ông làm gã đi hết từ bất ngờ nọ tới bất ngờ kia. Gã vốn yêu môn lịch sử, coi mỗi giờ học là một giờ được sống với quá khứ bi hùng, ly kỳ, thú vị. Thầy dạy sử của gã có cách truyền cảm tuyệt vời. Nhưng ông thượng tá này không phải thầy giáo mà có cách nói truyền cảm còn trên cả tuyệt vời, so với thầy giáo dạy sử của gã có khi còn là sư phụ. Thế mới biết thiên hạ nhân, thiên hạ tài. Càng nghe, gã càng bị hớp hồn. Gã khâm phục sự hiểu biết, cách nói, cách dùng từ ngữ rất bình dân mà vô cùng dễ hiểu. Các nhà thuyết pháp, hùng biện ngày xưa, các nhà ngoại giao ngày nay có lẽ cũng chỉ đến thế là cùng. Và gã ước mơ. Gã mơ có sự hiểu biết và năng lực truyền cảm như ông…

Giờ đây gã lại gặp ông. Hình như ông già hơn, yếu đi. Nhưng đôi mắt ông vẫn sáng, cái miệng ông vẫn xinh và dáng đi vẫn vững vàng, nhanh nhẹn.

Ông lại nói về đất nước. Giọng ông đượm buồn. Đế quốc Mỹ dọa đưa chúng ta về thời đồ đá. Chúng ta không sợ, nhưng căm. Chúng ta không khuất phục, nhưng đau. Phải mười năm hòa bình mới có chút khang trang. Phải mười tám năm mới có được những chàng trai, “những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi”… Thế mà phải tan, phải hy sinh… Cả nước ngập tràn những cuộc chia ly màu đỏ, cả nước nén đau không rơi nước mắt. Ông bảo đất nước nhất định sẽ có một ngày tràn trề nước mắt, nhưng là nước mắt yêu thương trong ngày gặp mặt, trong ngày thống nhất Bắc - Nam. Ông trích lời Bác Hồ, trích thơ Tố Hữu, trích từng dòng trên những trang sách. Ông khiến gã và đồng đội chỉ muốn bật dậy, chỉ muốn xông thẳng vào miền Nam ruột thịt, chạy lên mâm pháo: Bóp cò.