T
rước khi dấn thân vào cuộc phiêu lưu này, tôi nghĩ cũng cần giới thiệu với các bạn tôi từ đâu đến và tôi tin vào điều gì. Vì đời sống xã hội không phải lúc nào cũng cho phép chúng ta giải thích. Tôi ba mươi tám tuổi. Định mệnh không hề báo trước những chức vụ mà tôi vinh dự được đảm nhiệm, ví như Bộ trưởng Kinh tế, hay sự dấn thân của tôi vào con đường chính trị như hiện nay. Tôi không biết phải giải thích thế nào về thiên hướng này. Tôi chỉ nhìn thấy trước trong đó kết quả, dù chưa thực sự hoàn thành của một sự dấn thân trong quá khứ, của một khát vọng tự do cháy bỏng, và tất nhiên, có cả sự may mắn nữa.
Tôi sinh tháng 12-1977 ở Amiens, thủ phủ vùng Picardie, trong một gia đình làm nghề y. Gia đình tôi gần đây mới tham gia vào giai cấp tư sản, một cách gọi cũ. Chúng tôi vươn lên được như vậy là nhờ lao động và năng lực. Ông bà tôi, một người là giáo viên, một người là công nhân đường sắt, một người là nhân viên xã hội và một người là kỹ sư cầu đường. Tất cả đều xuất thân từ tầng lớp bình dân. Lịch sử gia đình tôi gắn liền với lịch sử phát triển của nền Cộng hòa ở một tỉnh lẻ của nước Pháp, nằm giữa vùng Hautes-Pyrénées và Picardie.
Sự thăng hoa của gia đình tôi có được là nhờ tri thức, và chính xác hơn, với thế hệ hiện nay là bằng nghề y. Đối với ông bà tôi, đó là con đường danh giá và họ muốn hướng con cháu mình đi theo. Do đó, cha mẹ tôi, bây giờ đến em trai và em gái tôi, đều trở thành bác sĩ. Tôi là người con duy nhất không đi theo con đường này, không phải vì tôi không thích nghề y, mà vì tôi mang trong mình thiên hướng khoa học.
Nhưng vào thời điểm quyết định hướng đi cho cuộc đời, tôi lại mơ ước về một thế giới, một cuộc phiêu lưu của riêng tôi. Tôi nhớ đã từ lâu, tôi luôn có một mong muốn: đó là được tự lựa chọn cuộc sống của mình. Thật may mắn, cha mẹ tôi coi giáo dục là một sự khám phá thế giới tự do, nên luôn khuyến khích tôi học tập. Họ không áp đặt tôi chuyện gì cả. Họ cho phép tôi được là chính mình.
Vì vậy, tôi đã được tự chọn lựa cuộc sống. Ở mỗi giai đoạn, tôi lại phát hiện ra một chân lý mới. Mọi thứ không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đều rất đơn giản. Tôi phải làm việc chăm chỉ, nhưng tôi thích điều đó. Tôi đã nếm trải thất bại, đôi khi rất cay đắng, nhưng tôi không lùi bước, vì đó là con đường tôi đã chọn. Chính những năm tháng học tập không mệt mỏi này đã tôi luyện trong tôi niềm tin rằng không có gì quý hơn được tự do là chính mình, được theo đuổi những kế hoạch mà mình đã định, được thể hiện tài năng của chính mình. Ai cũng có một tài năng nào đó. Chính niềm tin sắt đá này dẫn dắt tôi dấn thân vào con đường chính trị, khiến tôi trở nên nhạy cảm với những bất công trong xã hội của quyền lực, của địa vị, đẳng cấp và kỳ thị. Chính cái xã hội đó đã ngăn cản sự phát triển của mỗi cá nhân.
Bà tôi đã dạy tôi học. Từ hồi tôi mới năm tuổi, sau mỗi buổi học ở trường, bà lại dạy tôi học ngữ pháp, lịch sử, địa lý,... và đọc sách. Tôi đã dành hàng ngày trời để đọc diễn cảm cho bà nghe. Molière, Racine, Mauriac, Giono hay George Duhamel, đó là một tác giả đã ít nhiều bị lãng quên nhưng bà tôi lại yêu mến. Bà và cha mẹ tôi đều quan tâm đến học hành, tuổi thơ của tôi gắn liền với những nỗi mong chờ và lo lắng của bà mỗi khi tôi có kỳ thi, dù là kỳ thi nhỏ nhất.
Tài sản mà tôi có được chính là điều vô giá đó. Tôi có một gia đình luôn quan tâm đến mình, một gia đình lúc nào cũng quan tâm đến việc học của tôi hơn bất cứ thứ gì khác. Biết bao lần, tôi đã xúc động vì gia đình luôn lo lắng, dặn dò tôi mọi chuyện, như lời Léo Ferré đã hát: “Hỡi con yêu, đừng về nhà quá muộn. Hãy giữ mình khỏi lạnh, con nghe”.
Những câu hát này đã ru tuổi thơ tôi, chúng chứa chan sự dịu dàng, tin tưởng và ước mong được làm những điều tốt đẹp. Nhiều người đã không có được may mắn như tôi. Tất nhiên, có thể làm gì từ nền tảng này lại là chuyện khác. Ngày nay, mỗi khi nói về giáo dục của nền Cộng hòa, tôi lại không thể không nhớ về gia đình mình, bởi những giá trị gia đình đã ăn sâu vào bài giảng của các thầy cô, tôi cũng không thể quên các thầy cô tôi, những người đã bồi đắp kiến thức để đưa học trò đến những chân trời tốt đẹp.
Lòng quyết tâm, mong muốn và tình yêu này, rất ít quốc gia có được. Mỗi thế hệ chúng ta phải có trách nhiệm giữ cho ngọn lửa ấy không bao giờ tắt.
Như vậy, tôi đã trải qua thời thơ ấu trong thế giới sách vở, hơi tách biệt với thế giới bên ngoài. Tôi đã sống một cuộc đời nhẹ nhàng, ở một phố thị nhỏ bé của Pháp, một cuộc sống hạnh phúc, chỉ có đọc và viết. Tôi đã sống chủ yếu thông qua các tác phẩm văn học. Mọi thứ đều trở nên sâu sắc hơn khi được kể lại. Thậm chí, đôi khi chúng còn hiện thực hơn cả trên thực tế. Những bài học sâu xa và hàm súc của văn học mạnh hơn hình thức bên ngoài, chúng mang đến cho thế giới toàn bộ chiều sâu của sự kiện, điều mà chúng ta thường lướt qua trong cuộc sống hàng ngày. Cuộc sống thực sự luôn hiện hữu khi người ta đọc. Tôi chỉ đi du lịch thông qua các tác phẩm văn học. Tôi làm quen với thiên nhiên, hoa lá và cây cỏ bằng văn phong của các nhà văn, và hơn thế nữa, bằng sự quyến rũ mà họ đã tạo nên. Cứ như thế, tôi đã học được từ Colette thế nào là một con mèo hay một bông hoa. Với Giono, tôi biết thế nào là gió lạnh vùng Provence và sự thật về các tính cách. Gide và Cocteau là những người bạn không thể thay thế của tôi. Tôi sống trong một thế giới riêng, chan chứa hạnh phúc, bên cạnh cha mẹ, anh em và ông bà tôi.
Cha mẹ tôi luôn thể hiện mối quan tâm đặc biệt đến việc học hành của con cái, nhưng họ cũng cho tôi quyền lựa chọn và tự do. Đối với bà tôi, văn chương, triết học và các tác giả vĩ đại đáng quý hơn bất cứ điều gì khác. Bởi vì sự học đã giúp bà đổi đời. Bà sinh ra trong một gia đình bình dân ở Bagnères-de-Bigorre. Cha bà là người gác ga xe lửa, mẹ bà làm nhân viên dọn dẹp. Bà là người con duy nhất trong gia đình học cao hơn bậc phổ thông cơ sở, các anh chị của bà sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở đều đi làm. Mẹ bà không biết đọc. Cha bà biết đọc sơ sơ, nhưng ông không hiểu hết nội dung. Bà từng kể với tôi một kỷ niệm thời đi học. Khi học lớp 5, có lần bà mang về nhà một tờ thông báo kết quả học tập ghi lời khen “Học sinh giỏi toàn diện”, cha bà lại nghĩ rằng đó là lời tố cáo con gái lẳng lơ và cho bà một cái tát như trời giáng. Sau đó, năm lớp 12, một thầy giáo triết học đã phát hiện ra năng khiếu của bà. Thầy đã khuyến khích bà theo học ngành văn học dưới hình thức học hàm thụ từ xa. Vài năm trước Thế chiến, bà tốt nghiệp đại học rồi được cử đi dạy học ở Nevers. Bà đưa bà cố đi theo, vì bà cố thường bị ông cố bạo hành, hai mẹ con đã ở bên nhau đến cuối đời.
Bà tôi là một cô giáo, khi viết từ này, tôi muốn gạt bỏ tất cả những khía cạnh hành chính, chỉ để lại niềm đam mê cháy bỏng của bà, một người đã dạy học với lòng tận tụy vô bờ bến và một sự kiên nhẫn đáng ngưỡng mộ. Tôi vẫn nhớ những lá thư hay những chuyến viếng thăm của các học trò cũ của bà. Bà đã chỉ cho họ con đường để đi từ tri thức đến tự do. Đó không phải là một con đường gai góc đâu, bởi sau mỗi giờ học, họ lại uống sô-cô-la nóng và nghe nhạc Chopin hay tìm hiểu những tác phẩm của Giraudoux. Bà tôi có xuất thân giống như các học trò. Họ là con các gia đình thợ thủ công hay nông dân vùng Picardie. Bà đã cho họ sống lại những gì bà đã trải qua, bà mở ra cho họ cánh cửa của tri thức, của thẩm mỹ và có lẽ là cánh cửa đi vào thế giới vô hạn.
Vào thời điểm đó, xã hội có vô số định kiến, nhưng không điều gì có thể làm bà nản chí, có lẽ bởi bà là người lạc quan, nhưng cái chính là vì bà biết những điều bà muốn truyền cho thế hệ sau còn tuyệt vời hơn những gì chúng ta gọi là văn minh và vì “danh dự của cả cộng đồng” cũng không thể ngăn cản phụ nữ tiếp cận những điều tốt đẹp đó.
Có lẽ tôi là học sinh cuối cùng của bà. Bây giờ bà không còn nữa, nhưng không ngày nào tôi không nghĩ về bà. Không phải vì tôi muốn tìm kiếm sự ủng hộ mà bà không còn cho tôi được nữa, mà vì tôi muốn chứng tỏ, bằng những việc làm của mình, rằng tôi xứng đáng với sự dạy dỗ của bà. Những năm gần đây, tôi thường nghĩ đến những nữ sinh Hồi giáo che mạng trong các trường phổ thông hay đại học. Bà từng lên án chủ nghĩa ngu dân ngăn chặn các cô gái tiếp cận với tri thức đúng đắn, tri thức tự do và của riêng cá nhân. Bà đã dành trọn cuộc đời để dạy dỗ các nữ sinh và đã lường trước điều đó khó khăn đến nhường nào, dù là trong một đất nước như chúng ta. Tôi tin là bà đã đau đớn nhận ra rằng chúng ta không làm được gì tốt hơn là cấm đoán và đối đầu. Tất cả sự thù địch này, về bản chất, hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta muốn truyền đạt cho các em học sinh. Chúng ta sẽ không thể làm nên điều gì tốt đẹp nếu không có tình yêu.
Và tôi đã có được may mắn ấy. Tôi vẫn còn nhớ rõ gương mặt của bà, giọng nói của bà. Tôi nhớ những kỷ niệm cùng bà, nhớ tinh thần tự do của bà, nhớ những kỳ vọng bà đặt nơi tôi.
Tôi nhớ những buổi sớm mai, bà kể cho tôi nghe về thời chiến và bạn bè của bà. Thời thơ ấu, mỗi ngày tôi lại cùng bà đắm chìm trong những cuộc chuyện trò không dứt, tôi phiêu lưu trong những câu chuyện về cuộc đời bà, như thể tôi đang được đọc một cuốn tiểu thuyết. Tôi nhớ mùi hương cà phê mà đôi khi bà pha từ lúc nửa đêm và nhớ cánh cửa phòng tôi hé mở, vọng vào câu hỏi lo lắng “Cháu còn ngủ đó à?” mỗi khi 7 giờ sáng rồi mà tôi chưa sang gặp bà. Tôi nhớ tất cả những gì đã tạo nên mối gắn kết thân thiết giữa tôi với bà mà tôi không thể kể hết.
Với cha mẹ tôi, các cuộc thảo luận cũng xoay quanh vấn đề sách vở. Với họ, tôi được khám phá một nền văn học khác, mang tính triết học hơn và hiện đại hơn. Cũng có khi là các cuộc nói chuyện về vấn đề y tế kéo dài hàng giờ, đời sống ở bệnh viện hay những tiến bộ trong thực hành và nghiên cứu y khoa cũng có thể là chủ đề của những cuộc tranh luận không bao giờ dứt. Vài năm sau, em trai Laurent của tôi, bác sĩ tim mạch, và em gái tôi Estelle, một chuyên gia về thận, lại tiếp tục nối nghiệp gia đình.
Trong những năm tháng này, tôi đã học được sự nỗ lực và khao khát hiểu biết để khám phá tự do. Rồi từ đó, tôi phát hiện tôi thích được làm việc bận rộn và đảm nhiệm những trọng trách, đồng thời tôi cũng biết được hạnh phúc của cuộc sống bình lặng, tránh xa những ồn ào ngoài xã hội. Gia đình chính là nguồn cội sẽ bảo vệ chúng ta. Và nhờ đó chúng ta sẽ trở nên sáng suốt.
Tôi có hai đam mê khác: piano và kịch. Piano là một đam mê luôn cháy bỏng từ thời thơ ấu. Còn môn kịch, tôi phát hiện ra sở thích này khi bước sang tuổi niên thiếu. Diễn kịch giống như một sự khám phá. Đứng trên sân khấu, diễn lại những gì tôi đã đọc rất, rất nhiều lần với bà tôi, lắng nghe người khác diễn, cùng nhau tạo nên một câu chuyện, khiến người ta cười, làm người ta xúc động.
Lên phổ thông trung học, nhờ môn kịch mà tôi gặp được Brigitte. Mọi thứ đã diễn ra một cách âm thầm, và, tôi đã yêu. Yêu bởi sự gần gũi về trí tuệ ngày càng trở nên đồng điệu. Không cần bất kỳ sự đấu tranh nào, tình yêu đó tồn tại mãi mãi.
Cứ thứ Sáu hàng tuần, tôi lại cùng cô ấy viết kịch hàng giờ liền. Công việc viết lách ấy kéo dài nhiều tháng ròng. Vở kịch được viết xong, chúng tôi quyết định đưa lên sân khấu. Chúng tôi trò chuyện về mọi thứ. Viết lách trở thành một cái cớ. Và tôi phát hiện ra chúng tôi như đã thân nhau từ thuở nào.
Mấy năm sau, tôi xây dựng được cuộc sống mà tôi mong muốn. Chúng tôi đã trở thành một, không thể tách rời, dù trải qua nhiều sóng gió.
Năm mười sáu tuổi, tôi rời quê hương đến Paris. Vào thời kỳ của những làn sóng di cư đến thành thị, nhiều thanh niên Pháp cũng giống như tôi. Đối với tôi, đó là một trong những cuộc phiêu lưu đẹp nhất. Tôi đã sống ở những nơi chỉ tồn tại trong tiểu thuyết, tôi đã đi trên những con đường ghi dấu trong các tác phẩm của Flaubert và Hugo. Tôi đã bị cuốn theo tham vọng tàn phá của những con sói mới lớn trong tác phẩm của Balzac.
Tôi yêu những năm tháng sống trên vùng núi Sainte-Geneviève.
Ngày qua ngày, tôi không ngừng học tập. Nhưng, phải thành thật, nếu ở Amiens, tôi liên tục đứng đầu lớp hết năm này sang năm khác, thì ở đây, tôi không thể tỏa sáng. Tôi nhìn thấy quanh mình nhan nhản những tài năng chưa từng thấy, những thiên tài thực sự về toán học, trong khi tôi chỉ là một con mọt sách. Tôi cũng phải thú thật rằng những năm đầu sống ở Paris là những năm tháng tôi chọn sống và yêu hơn là cạnh tranh với các bạn cùng lớp.
Tôi có một nỗi ám ảnh, một ý nghĩ không thể lay chuyển: phải sống cuộc đời mà tôi đã chọn với người tôi yêu. Tôi phải làm mọi thứ để biến điều đó thành sự thật.
Cánh cửa của trường Đại học Sư phạm(1) vẫn đóng kín với tôi. Tôi quyết định theo học triết tại Đại học Paris Nanterre, rồi thật ngẫu nhiên, tôi vào trường Sciences Po(2).
(1) Trường Đại học sư phạm là một trong số các trường đại học lớn (Grande ecole) của Pháp.
(2) Sciences Po là học viện Chính trị Paris hay Viện nghiên cứu Chính trị Paris, cũng là một Grande école.
Những năm tháng ấy thật hạnh phúc, tôi được tự do học tập, khám phá và gặp gỡ. Tôi yêu những nơi này, yêu những thầy cô đã dạy dỗ tôi. Nhờ một người thầy lịch sử tốt bụng, đồng thời cũng là một nhà văn viết tiểu sử kiên nhẫn, tôi may mắn được làm quen với triết gia Paul Ricœur. Cuộc gặp diễn ra tình cờ, vì khi đó ông đang tìm một người giúp lưu trữ tài liệu.
Tôi sẽ không bao giờ quên giây phút chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên tại Les Murs Blancs ở Châtenay-Malabry. Tôi lắng nghe từng lời ông nói. Tôi không hề thấy lo lắng khi ngồi trước ông. Phải thú thật là cũng nhờ sự thiếu hiểu biết của tôi: tôi chưa bao giờ đọc sách của ông, nên không ấn tượng mấy. Màn đêm buông xuống, phòng vẫn không lên đèn, chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau, sự đồng cảm bắt đầu xuất hiện.
Từ tối hôm đó, chúng tôi bắt đầu một mối quan hệ đặc biệt: tôi học hỏi, bình luận về các bài viết của ông, cùng ông đọc. Suốt hơn hai năm, tôi học hỏi bên cạnh ông. Tôi không có chức danh gì để thực hiện vai trò này cả. Nhưng sự tin tưởng của ông buộc tôi phải trưởng thành. Nhờ ông, tôi đã đọc và học mỗi ngày. Ông đọc các tác phẩm lớn và thường so sánh mình như một con người nhỏ bé đứng trên vai những người khổng lồ. Olivier Mongin, François Dosse, Catherine Goldenstein và Thérèse Duflot cũng là những người bạn thân thiết và luôn quan tâm đến tôi trong những năm tháng đó, họ đã thay đổi con người tôi.
Khi làm việc bên cạnh Ricœur, tôi đã học được rất nhiều về thế kỷ trước và cách tư duy lịch đại. Ông đã dạy tôi tầm quan trọng của việc nắm bắt những chủ đề và những khoảnh khắc quyết định. Ông đã dạy tôi làm thế nào để tiếp cận cuộc sống thông qua sách vở bằng cách liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn. Paul Ricœur sống trong những trang sách, nhưng ông làm vậy với mong muốn khai sáng cho sự vận hành của thế giới, để tạo nên ý nghĩa cho cuộc sống. Ông đã chỉ ra rằng không bao giờ được chấp nhận sự dễ dãi của cảm xúc hay những gì người ta nói, không bao giờ được đóng khung mình trong một mớ lý thuyết suông tách rời cuộc sống. Chính trong sự mâu thuẫn nhưng có lợi này, tư tưởng mới có thể được hình thành và tạo nên những chuyển biến về chính trị.
Chẳng phải chúng ta sẽ trở thành con người mà mình muốn với sự giúp đỡ của những người thầy sao? Sự đồng hành về trí tuệ này đã thay đổi con người tôi. Tất cả là nhờ Ricœur. Một sự đòi hỏi mang tính xây dựng, một nỗi đau đáu về thực tại và một lòng tin tuyệt đối vào người khác. Tôi biết, mình đã rất may mắn mới có được những điều ấy.
Trong suốt những năm tháng đó, tôi đã rèn cho mình một niềm tin, rằng những gì cuốn hút tôi không chỉ đơn thuần là học tập, đọc sách hay hiểu biết. Mà hơn thế nữa, tôi muốn hành động và nỗ lực để thực sự thay đổi thế giới này. Vì vậy, tôi chuyển hướng sang ngành luật và kinh tế. Đó cũng là lý do tôi chọn con đường chính trị. Cùng với một số bạn bè thân thiết, những người vẫn đồng hành với tôi đến tận hôm nay, tôi chuẩn bị cho cuộc thi vào Trường Hành chính Quốc gia(3).
(3) Trường Hành chính Quốc gia là một Grande école của Pháp, nơi đào tạo các viên chức cao cấp cho chính phủ và các cơ quan bộ ngành, các công ty lớn của Pháp.
Tôi nhập học trường này và ngay lập tức được gửi đi thực tập quản lý. Đây là kinh nghiệm đầu tiên tôi có được và trên thực tế, các công chức thường được đào tạo qua những chuyến thực tập kiểu này.
Tôi thích những năm tháng học và hành ở Trường Hành chính Quốc gia (ENA). Và chưa bao giờ ủng hộ việc đóng cửa ngôi trường này. Nếu có vấn đề trong hệ thống của chúng ta thì đó chỉ là vấn đề liên quan đến các quan chức cấp cao, họ được bao bọc quá mức trong khi phần còn lại của thế giới đang phải ngày ngày vật lộn để sống.
Tôi bắt đầu phục vụ Nhà nước tại Đại sứ quán Pháp ở Nigeria. Trong vòng sáu tháng, tôi có cơ hội làm việc với Jean-Marc Simon, một vị đại sứ đáng ngưỡng mộ. Sau đó, tôi đi thực tập tại văn phòng của tỉnh Oise. Ở đó, tôi khám phá ra một lát cắt khác của Nhà nước. Nhà nước về mặt lãnh thổ, các đại diện dân cử tại địa phương, hành chính công. Tôi đã sống bằng tất cả nhiệt huyết trong những tháng ngày ấy, tôi đã có được những người bạn thân thiết cho đến tận ngày nay, đặc biệt là anh bạn thân Michel Jau.
Chính trong thời gian đó, tôi đã gặp Henry Hermand, một người rất quan trọng với tôi, người vừa rời xa chúng ta mãi mãi. Ngay từ đầu, mối quan hệ của chúng tôi đã vừa dựa trên tình bạn, vừa dựa trên niềm đam mê chung về hoạt động chính trị. Người đàn ông đặc biệt này không chỉ là một doanh nhân thành đạt mà còn là người bạn đồng hành cấp tiến của nước Pháp suốt nhiều thập kỷ. Chính ông đã giới thiệu tôi với Michel Rocard.
Năm 2016, họ lần lượt vĩnh viễn ra đi, chỉ cách nhau vài tháng. Mười lăm năm qua, tôi thường xuyên gặp họ. Đôi khi là những khoảnh khắc thân mật, có khi là các cuộc thảo luận về những vấn đề riêng tư hoặc về chính trị. Ngoài sự khác biệt về tuổi tác, kinh nghiệm và cương vị đảm nhiệm, Michel Rocard và tôi còn khác nhau ở rất nhiều điểm. Ông hơn tôi về văn hóa đảng, ông mong muốn bằng mọi giá phải đổi mới các đảng phái chính trị.
Sự nghiêm khắc trong công việc, sự quyết tâm và tình bạn của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi. Ông chính là người đầu tiên khiến tôi biết quan tâm đến thế giới, đến những vấn đề quốc tế to lớn và có ý nghĩa lịch sử, như vạch ra những nguyên nhân làm biến đổi khí hậu mà ông đã đấu tranh đòi thay đổi suốt 30 năm qua, hay bảo vệ các vùng cực của trái đất.
Việc học tập ở Trường Hành chính Quốc gia là bước ngoặt bất ngờ của tôi. Trước đó, tôi không hề có bất kỳ thiên hướng hay chỗ dựa nào trong lĩnh vực này. Nhờ kết quả học tập may mắn bất ngờ mà tôi một lần nữa được lựa chọn. Tôi chọn ngành thanh tra tài chính, nhờ đó tôi được khám phá một thế giới mới, thế giới hành chính. Nó lập tức cuốn hút tôi bởi những điều mới lạ. Trong bốn năm rưỡi đó, tôi đã học được sự chặt chẽ trong việc kiểm toán, sự phong phú của những chuyến đi thực tế, sự gần gũi của hành chính công, tình bằng hữu trong một công việc có sự tham gia của nhiều bên.
Tôi đã đi dọc ngang đất nước và trải qua hàng tuần liền ở Troyes, Toulouse, Nancy, Saint-Laurent-du-Maroni và Rennes. Đó là những phút giây thắm tình đồng chí, chúng tôi học cách phân tích, bóc tách cơ chế đa chiều trong hoạt động của Nhà nước và các cơ quan chính phủ.
Trong thời kỳ này, tôi trở thành Phó Tổng Thư ký của Ủy ban Giải phóng Vì sự phát triển của Pháp do Jacques Attali làm chủ tịch. Trong vòng sáu tháng, tôi đã may mắn được làm việc cùng ông trong một ủy ban gồm 40 thành viên, nhiều người trong số đó đã trở thành bạn tôi. Tham gia ủy ban này là cơ hội quý để tôi tiếp xúc với những con người vĩ đại: họ là những nhà trí thức, những cán bộ, những chủ doanh nghiệp đã góp phần xây dựng nên nước Pháp, tôi được học hỏi từ họ, hơn thế nữa, được tiếp cận với những đề tài phong phú mà tôi đã theo đuổi cho đến tận ngày nay.
Sau những năm tháng đó, tôi đã quyết định chia tay lĩnh vực “Dịch vụ”, như người ta thường gọi, để tham gia vào khu vực tư nhân và doanh nghiệp.
Tôi muốn học hỏi sự vận hành của nền kinh tế, đối đầu với các vấn đề quốc tế, nhưng tôi biết rằng một ngày nào đó mình sẽ trở lại với khu vực hành chính công. Trong suốt những năm này, tôi luôn quan tâm đến chính trị. Khi làm việc cho tạp chí Trí tuệ, tôi thường xuyên tiếp xúc với người thân của Jean - Pierre Chevènement, sau đó tôi nhanh chóng chuyển sang Đảng Xã hội, nhưng nơi đó tôi không tìm thấy được bản thân mình. Rồi tôi đi khảo sát ở vùng Pas-de-Calais và đã xây dựng các mối liên lạc.
Thời điểm vừa rời khu vực hành chính công để gia nhập ngân hàng đầu tư Rothschild, mọi thứ đều quá mới mẻ đối với tôi. Tôi đã dành nhiều tháng để khám phá các phương pháp, kỹ thuật, nhờ sự giúp đỡ của những đồng nghiệp trẻ tuổi nhưng nhiều kinh nghiệm chuyên môn hơn. Sau đó, được các chủ ngân hàng giàu kinh nghiệm hướng dẫn, tôi dần hiểu được lĩnh vực kinh doanh đặc biệt này. Tôi đã có khả năng hiểu được một khu vực kinh tế và các vấn đề của một ngành công nghiệp nào đó. Tôi có thể thuyết phục một nhà lãnh đạo và đồng hành với ông ta trong quá trình thực hiện. Tôi cũng đã biết thêm về ngành thương mại, hiểu được sức mạnh to lớn của nó, nhưng trên hết, tôi đã học được nhiều điều về thế giới.
Tôi không đồng tình với những lời tán tụng rằng thời đại này là chân trời vô tận, nhưng cũng không chấp nhận những lời chỉ trích cay đắng rằng đây là thời đại bị ám ảnh bởi tiền bạc và sự bóc lột giữa người với người. Đối với tôi, cả hai quan điểm đó đều thiếu chín chắn.
Tôi đã dành nhiều thời gian với những người đồng nghiệp đặc biệt. Ví dụ như David de Rothschild, bằng trí thông minh và sự thanh lịch, ông đã tập hợp quanh mình những tài năng và những nhân vật tưởng chừng không bao giờ có thể đồng hành với nhau. Lãnh đạo khác với quản lý tài chính. Vấn đề cũng không phải là cho vay hay đầu cơ. Đây là công việc tư vấn, yếu tố con người đóng vai trò quan trọng nhất.
Trong bốn năm làm việc tại ngân hàng, tôi không có điều gì phải hối hận. Nhiều người đã trách móc tôi. Những người không hiểu biết về lĩnh vực ngân hàng thì thêu dệt nhiều chuyện. Ở ngân hàng, tôi đã học được một nghề nghiệp; điều này là cần thiết, bởi tất cả các nhà lãnh đạo chính trị đều phải có một nghề nghiệp. Tôi đã có cơ hội tìm hiểu nhiều lĩnh vực và nhiều quốc gia. Tôi thường xuyên gặp những người có chức quyền và tôi học hỏi được nhiều từ những cuộc gặp gỡ đó. Trong lĩnh vực ngân hàng, tôi kiếm được kha khá, nhưng không giàu đến mức không phải làm việc nữa.
Năm 2012, với một quyết tâm lớn, tôi đã quyết định rời ngành ngân hàng để tham gia phục vụ Nhà nước. Từ hai năm trước đó, tôi đã lập ra chương trình và ý tưởng cho một đảng cánh tả cải cách về mặt kinh tế, theo đề nghị của François Hollande. Nhận lời đề nghị sau cuộc bầu cử tổng thống, tôi đã tham gia vào bộ máy Nhà nước. Tôi đã phục vụ cho François Hollande hai năm với tư cách là Phó Tổng Thư ký phụ trách về Kinh tế và Khu vực đồng euro.
Từ thời điểm đó, tôi không có gì nhiều để nói. Những lời khuyên chỉ dành cho những người mà chúng ta muốn gửi gắm. Tôi hy vọng là mình đã đưa ra những lời khuyên hữu ích, không biết những lời tư vấn đó có được thực hiện hay không, nhưng chắc chắn một điều là tôi không đưa ra những lời khuyên tồi. Tôi chịu trách nhiệm cho tất cả những gì mình làm. Mọi việc diễn ra không được suôn sẻ, nên hai năm sau tôi xin từ chức. Tôi rời điện Élysée vào tháng 7-2014.
Sau đó, tôi không yêu cầu một chỗ đứng trong chính trường, một vị trí có trọng trách cao trong các công ty lớn hay chính quyền, như mọi người thường làm. Tôi thích tự mình làm chủ, khởi nghiệp và giảng dạy. Tôi không định quay trở lại chính trường nữa. Vả lại, một ủy ban tự xưng là “vì đạo đức nghề nghiệp”, đã kịch liệt cấm tôi gặp lại Tổng thống. Những việc làm thái quá này thật vô lý và nực cười. Nhưng tôi không quan tâm. Tôi đã đi theo một con đường khác. Và rồi, tôi lại được Tổng thống gọi về để giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Kỹ thuật số.
Tôi đã cố gắng hành động và được ủng hộ. Tôi đã dành nhiều thời gian ở Nghị viện để đạt được một điều luật mà tôi cho là có ích. Một điều luật cho phép gỡ bỏ mọi rào cản, mở ra những thị trường mới, hỗ trợ các hoạt động kinh tế, kích thích sức mua và tạo công ăn việc làm.
Tôi muốn xây dựng một chính sách công nghiệp đầy tham vọng, dựa trên đổi mới và đầu tư. Sau quá nhiều năm tụt hậu, ngành công nghiệp của chúng ta phải được ưu tiên phát triển bằng tất cả nghị lực và đam mê để hồi phục nền kinh tế, như trường hợp tập đoàn PSA hay Chantiers de l’Atlantique. Tôi muốn xây dựng một chính sách “duy ý chí sáng suốt” để đấu tranh cho ngành công nghiệp và mang lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế nước ta, dù ở một số ngành như hạt nhân nguyên tử, dịch vụ dầu khí, hay thép, việc tái cơ cấu không phải dễ dàng. Tuy nhiên, không vì thế mà tôi bị cuốn theo chính sách can thiệp vốn còn nhiều hạn chế của Nhà nước. Tôi đã gặp những thất bại mà tôi phải buồn bã thừa nhận. Với sự ủng hộ trong đầu tư, đồng thời huy động các ngành công nghiệp tập trung tìm kiếm các giải pháp cụ thể và phát triển “công nghệ Pháp”, tôi muốn tạo ra một luồng gió mới cho nền công nghiệp tương lai của chúng ta.
Nhưng giai đoạn sau lại là thời kỳ của những rào cản và bất đồng.
Sau các vụ thảm sát mùa thu năm 2015, chiến lược cần thiết để nắm bắt cơ hội mới của nền kinh tế bị khước từ. Chúng ta thiếu một ý chí cải cách thực sự và thiếu một tham vọng lớn hơn với châu Âu, chúng ta lao vào một cuộc tranh luận vô bổ về việc có nên thu hồi quốc tịch hay không, gây chia rẽ đất nước thay vì tìm hiểu xem chuyện gì vừa xảy ra. Tôi cho rằng đó là những sai lầm, thậm chí là những sai lầm chính trị cơ bản. Trong khi đó, sự khủng hoảng và tuyệt vọng trong xã hội làm dấy lên chủ nghĩa cực đoan và bạo lực. Trong khi các nước láng giềng của chúng ta đã tìm ra giải pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp, thì nền kinh tế và xã hội của chúng ta vẫn ì ạch trong tình trạng báo động đỏ.
Tôi đã không giải quyết được những mâu thuẫn này. Xét về hoạt động của một bộ trưởng, tôi mắc nhiều lỗi phân tích, thiếu năng lực kỹ thuật và những mục tiêu cá nhân. Vì vậy tôi quyết định thành lập phong trào Tiến bước! vào ngày 6-4-2016 tại Amiens, sinh quán của tôi. Dù gặp phải nhiều trở ngại trong hoạt động, nhưng phong trào Tiến bước! chưa bao giờ có mục đích “chống phá” mà luôn luôn mang tính “xây dựng”. Malraux nói đúng: “Sự đối lập không tồn tại”. Tôi là một người theo chủ nghĩa xây dựng. Chúng tôi mong muốn vượt qua những rào cản chính trị gây hậu quả tiêu cực, cố gắng đi xa hơn trong công cuộc cải cách đất nước, xây dựng kế hoạch, nối lại truyền thống lịch sử và những thành tựu, để con cái chúng ta được sống tốt hơn, để khơi dậy ước muốn được cống hiến xây dựng đất nước, để đánh thức những tài năng mới.
Trong những tháng tiếp theo, việc gì phải đến đã đến: tôi phải rời khỏi Chính phủ. Điều đó cũng hợp lý thôi, đó là cái giá tôi phải trả cho công việc của mình, cho những người ủng hộ tôi, cho suy nghĩ của tôi về đất nước chúng ta.
Tôi sẽ nói một lời đầy kiêu hãnh về sự phản bội mà người ta đã rêu rao để chống lại tôi, một lời thôi, không hơn. Điều đó cho thấy cuộc khủng hoảng đạo đức của nền chính trị đương đại. Người ta muốn gì khi nói rằng lẽ ra tôi phải ngoan ngoãn nghe lời Tổng thống như một cái máy, rằng tôi phải từ bỏ hoài bão của mình, hy sinh những gì tôi theo đuổi chỉ vì Tổng thống đã bổ nhiệm tôi làm bộ trưởng? Rằng ý tưởng làm lợi cho cộng đồng phải xếp sau ơn huệ. Tôi đã sốc khi thấy những thủ đoạn khéo léo của những kẻ muốn đè nén tôi, họ đã thú nhận rằng đối với họ, chính trị phải tuân theo quy luật: họ chịu khuất phục với hy vọng bản thân họ sẽ được đền bù. Tôi tin rằng khi nào người dân Pháp quay lưng lại với chính trị hoặc đi đến tình trạng cực đoan, thì đó là vì ghê sợ những thói quen này.
Tôi cho rằng những lời Tổng thống nói về việc tôi mắc nợ ông chỉ là bông đùa. Tôi biết ông ấy quá gắn bó với ý nghĩ phải làm sao cho xứng đáng với chức năng của Nhà nước và với giá trị căn bản của nền Cộng hòa. Ông không thể tự cho phép mình, dù chỉ một khắc, làm trái với quy định. Đây cũng là lý do tại sao tôi rất tiếc khi phải rời bỏ ông. Ông đã cho tôi cơ hội cùng ông phục vụ đất nước và sau đó trở thành một thành viên của Chính phủ.
Đất nước là đối tượng duy nhất tôi phụng sự, chứ không phải một đảng phái, một chức vụ hay một nhân vật nào đó. Tôi nhận những chức vụ từng có là vì chúng cho phép tôi phục vụ đất nước. Tôi đã nói điều này ngay từ đầu và không hề thay đổi. Khi gặp những trở ngại trên con đường hoạt động của mình, khi chứng kiến sự thiếu đổi mới về ý tưởng và con người, sự cạn kiệt sáng tạo, nói chung là tê liệt hoàn toàn, thì tôi không thể làm gì được nữa. Tôi đã chịu trách nhiệm và quyết định từ chức. Quan niệm của tôi về việc điều hành hoạt động chính trị không giống như quản lý nghề nghiệp, càng không phải là giữ cổng. Đó là sự cam kết chung, đồng lòng phục vụ đất nước. Những vấn đề khác đối với tôi không quan trọng, nhất là những lời chỉ trích hay vu khống của những người có lòng trung thành nhưng không dành cho đất nước, mà dành cho một hệ thống chính trị mà họ biết rất rõ sẽ mang những lợi ích và đặc quyền gì cho bản thân. Chúng ta đang sống trong hệ thống đó.
Suốt những năm tháng khó khăn đó, Brigitte đã chia sẻ cùng tôi. Chúng tôi kết hôn năm 2007. Đó là sự ghi nhận chính thức cho một tình yêu không được thừa nhận và thường phải giấu giếm, một mối tình mà nhiều người không hiểu.
Có lẽ tôi đã cứng đầu khi chống lại cuộc sống đủ đầy đang rời bỏ chúng tôi. Khi chống lại sự áp đặt của những điều ngay từ đầu đã lên án chúng tôi. Nhưng tôi phải nói người thật sự can đảm chính là Brigitte, sự quyết tâm bền bỉ và sự kiên nhẫn của cô ấy thật đáng ngưỡng mộ.
Cô ấy đã có chồng và ba con. Về phần mình, tôi chỉ là một cậu học trò không hơn không kém. Cô ấy không yêu tôi vì những gì tôi có. Không vì gia cảnh. Không vì cuộc sống tiện nghi hay sự an toàn mà tôi có thể mang đến. Cô ấy đã từ bỏ tất cả vì tôi, tuy cô ấy luôn lo lắng cho các con. Cô ấy không bao giờ áp đặt bất cứ điều gì, nhưng với tất cả sự dịu dàng, cô ấy khiến mọi người hiểu rằng những điều kỳ diệu luôn xảy ra.
Rất lâu sau tôi mới hiểu quyết tâm của cô ấy về một cuộc sống chung mới mẻ thực sự mang lại hạnh phúc cho chúng tôi. Nhờ vậy, các con cô ấy dần dần hiểu và chấp nhận. Chúng tôi đã xây dựng một gia đình mới, chắc chắn rất khác những gia đình bình thường, nhưng ở đó, sợi dây liên kết giữa chúng tôi luôn bền chặt.
Tôi luôn ngưỡng mộ sự can đảm của cô ấy.
Brigitte là giáo viên dạy tiếng Pháp và tiếng Latin. Cô ấy chưa bao giờ ngừng dạy học, đó là nghề nghiệp mà cô ấy theo đuổi từ năm 30 tuổi và cô ấy yêu công việc của mình hơn bất cứ thứ gì. Cô ấy dành nhiều thời gian cho những học trò gặp hoàn cảnh khó khăn, bởi vì cô ấy luôn lo lắng cho cuộc sống của họ. Đằng sau sự quyết liệt của cô ấy là một thế giới nhạy cảm mà chỉ có những người mong manh mới được tiếp cận và tìm lại chính mình.
Là một người mẹ, cô ấy cũng chan chứa yêu thương. Cô đã đồng hành với từng đứa con trong cuộc sống và quá trình học tập. Cô ấy luôn hiện diện bên cạnh con và luôn kiên định với những mong đợi của cô ấy về con cái. Không ngày nào Sebastien, Laurence và Tiphaine không gọi điện, đến gặp và lắng nghe ý kiến của cô ấy. Cô ấy chính là chiếc la bàn của các con.
Dần dần, trong cuộc sống của tôi đã có sự hiện diện đầy đủ của ba người con của cô ấy cùng các dâu, rể: Christelle, Guillaume, Antoine và bảy đứa cháu: Emma, Thomas, Camille, Paul, Elise, Alice và Aurèle. Chính vì tương lai của những đứa cháu này mà chúng tôi phải tranh luận với nhau. Tôi không thể dành cho chúng nhiều thời gian và đối với chúng đây là những năm tháng bị đánh cắp. Cũng vì sự hy sinh đó mà tôi không thể để lãng phí thời gian. Gia đình là nền tảng cho cuộc sống của tôi. Lịch sử đã dạy chúng ta ý chí bền bỉ không khoan nhượng với chủ nghĩa thỏa hiệp, nếu chúng ta thực sự tin tưởng và chân thành.