Khi Sylvia và chị cô còn là những đứa trẻ, cha họ đã dạy họ cách chuyển đổi một thang đo nhiệt độ này thành thang đo nhiệt độ khác, một công thức hữu ích mà chưa ai từng đề cập đến ở trường. Ngày ngày, người ta luôn luôn đổi từ độ Farenheit sang độ Celsius - hay độ C như người ta vẫn gọi. Một công thức gì đó mà nhân chín, chia năm và trừ đi ba mươi hai. Sylvia nghĩ cô nên dạy lại cho những cậu con trai của mình. Nhưng không phải bây giờ. Cô đã muốn nổi đóa với Robin và Ben trong ít nhất là một tiếng đồng hồ sau khi cảm thấy phiền não vì những gì chúng nói. Chúng đã vào vườn để chơi trong hồ bơm hơi, một món quà từ ông bà nội, và cô hy vọng chúng ở đó cho đến giờ trà chiều.
Cô đã nói với chúng về đứa bé. Giờ cô đang mang thai và rất nhanh thôi chúng sẽ lưu ý đến điều đó. Vì thế cô đã nói với chúng, nhớ lại tất cả những gì nhiều năm trước mẹ đã từng nói với cô khi bà đang mang thai Sheila. Cô đã đáp lại gì nhỉ? Cô có một suy nghĩ mơ hồ đại loại như, “Mẹ sẽ yêu con nhất chứ?”. Giống như một cảnh sát, Robin đã hỏi, “Bố là ai?”.
Không một đứa trẻ nào hỏi thế khi cô ở tuổi ấy cả. Cô đã đỏ mặt khi nghe vậy. “Là bố.” Và khi cô ở tuổi của Robin, không đứa trẻ nào sẽ phải nghe những lời tương tự. Dĩ nhiên chúng muốn cô và Neil quay trở lại với nhau. Không quan tâm đến cả hai mối tình mà cô có lẫn Naomi. Chúng muốn cha mẹ sống cùng với mình. Mọi đứa trẻ đều muốn vậy.
“Vì thế bố sẽ quay lại đây với chúng ta”, Ben nói, khẳng định luôn chứ không hỏi nữa.
“Không”, cô nói. “Không.”
Như thế này đã là quá nhiều với chúng. Chúng nhìn cô. Sau đó Ben thoát khỏi cái máy Gameboy và cầm nó trên tay, nhìn chằm chằm. Và giờ cô sợ hãi và muốn từ bỏ. Cô không thể nói với chúng - chưa phải bây giờ - rằng đứa bé sẽ không ở với “họ” mà sẽ ở với Neil và Naomi, sẽ được đặt vào trong vòng tay của Naomi trước khi cô có thể khiến bản thân đau khổ vì sợi dây liên kết với nó.
“Ừm, vậy đấy”, cô nói. “Đó là tin tức của mẹ. Giờ các con biết rồi đấy.”
Bọn chúng không nói gì nữa. Ý cô là gì khi nói với bản thân rằng chúng đã làm cô cảm thấy phiền não? Chúng hiếm khi nói câu nào. Cảm giác tội lỗi sâu sắc của chính cô đã khiến cô trở nên như vậy. Từng ngày, gần như từng giờ trôi qua. Và tối nay, cha mẹ cô sẽ đến. Cô không biết cha cô sẽ nói gì. Cô chưa bao giờ hiểu hết ông.
Hai cậu thanh niên được hỏi, Barry Vine và Lynn Fancourt, đều kể những điều tương tự. Amber đã đến câu lạc bộ Bling-Bling một mình “vào khoảng mười giờ” và ở lại đến quá một giờ một chút. Chris Williamson nói anh ta không để ý thời gian và Charlotte Probyn cho rằng lúc đó muộn hơn bởi vì cô ta đã cùng với Chris rời đi khi Amber, Samantha và Ben Miller đã đi rồi. Lara Bartlow thì đi cùng với James Sothern. Cô ta không phải là bạn gái nhưng họ sống gần nhau ở khu Muriel Campden Estate. Đó là một câu đố đối với Sĩ quan Vine về việc họ đến câu lạc bộ cùng nhau. Ben, Amber và Veryan Colgate không uống gì, Liz Bellamy uống một cốc rượu vang, còn những người khác thì uống bia. Không ai trong số họ nhảy bởi vì, có vẻ các cậu con trai không muốn. Lynn Fancourt không thể hiểu được thái độ của Vine nhưng sau đó cô đã hiểu được phần nào.
“Họ là một nhóm chơi với nhau, đúng không? Họ nói chuyện, có cười đùa một chút. Và sau đó là âm nhạc.”
“Âm nhạc”, Barry nổi tiếng vì niềm yêu thích đối với nhạc opera của Bellini.
Samantha Collins thì thú vị hơn. Sự chán ghét - hay là ghen tị? - của cô ta đối với Amber đã được thể hiện rõ ràng ngay từ đầu cuộc thẩm vấn. Không đợi được hỏi, cô ta thốt ra một giọng đầy đạo đức. “Tôi luôn nghĩ rằng cô ta đã sai khi đến câu lạc bộ. Tôi đã nói với Ben rất nhiều lần nhưng anh ấy không thèm để ý. Cô ta có một đứa con một tuổi ở nhà, lạy Chúa. Ý tôi là, dù không bận tâm lắm về việc một người có nên mang thai vào tuổi mười bảy hay không, cô ta cũng đã làm vậy và có một đứa con, cô ta nên có trách nhiệm hơn, các vị không nghĩ thế à?”
Cả Barry lẫn Lynn đều không có ý định nói xem mình nghĩ gì và Barry tin rằng không nên ngắt lời một nhân chứng tiềm năng khi họ đang xúc động.
“Tôi biết không nên nói xấu người đã chết nhưng chẳng có điều nào trong số này tôi chưa từng nói thẳng vào mặt cô ta cả. Tôi tin vào những gì mình nghĩ. Bố mẹ cô ta - chà, bố cô ta. Ông ta hành xử giống như bị tổn thương khi Amber nói rằng mình có thai. Ông ta thậm chí còn không thích Brand. Tôi không nói ông ta không đối xử tốt với thằng bé nhưng liệu anh có dám để con anh lại cho những người không quan tâm đến nó? Để đi hộp đêm? Mà không phải hiếm khi đâu nhé, tuần nào cũng vậy. Tuy nhiên đối với một số người thì mọi việc đều luôn trôi chảy, đúng không? Anh phải thừa nhận thế đi. Ý tôi là, nhận lời đề nghị sống trong một căn hộ! Ở Luân Đôn! Tôi nên cảm thấy quá may mắn; tôi rất yêu cuộc sống xa nhà. Tôi và Ben sẽ chuyển đến ở với nhau nếu chúng tôi có một căn nhà chứ không phải hy vọng. Không phải năm này qua năm khác với mức giá trả góp.”
Im lặng trong một hai giây ngắn ngủi, Lynn hỏi cô ta về buổi tối hôm đó.
“Còn gì để nói nữa? Ben đón tôi và chúng tôi tới Bling- Bling. Nửa tiếng sau hoặc hơn chút thì cô ta đến. Muộn hơn mọi khi, tôi không biết tại sao. Ba chúng tôi rời đi cùng nhau, nhưng thực sự tôi không thích điều đó. Ý tôi là, họ có thể đã từng là bạn bè nhưng Ben là bạn trai tôi và tôi không muốn người thứ ba xen vào khi chúng tôi ở bên nhau, cô thấy đúng không?”
“Lúc đó tầm mấy giờ?”
“Chắc là một giờ mười lăm, hoặc một giờ hai mươi. Không thể nói chính xác được thời gian lúc đó - anh biết đấy. Tôi thích đi bộ nhưng không phải lúc đó, cảm ơn. Thêm nữa, tại sao lại để hai người đó ở riêng với nhau? Tôi phải lái xe về Brimhurst nhưng tôi không thích vậy. Thực tế là, có lẽ tôi nên thành thực với anh, tôi không thể chờ cô ta chuyển đến sống ở căn hộ của gia đình Hilland được.”
“Cô ta đã chết trước khi làm được điều đó”, Barry nói và không quan tâm đến việc mình có lên giọng kẻ cả hay không. Cuộc nói chuyện khiến anh có cảm giác mạnh mẽ rằng động cơ sát hại Amber Marshalson hẳn phải có liên quan đến căn hộ ở Crenthorne Heath.
Wexford đang ở một mình trong văn phòng và cũng có suy nghĩ tương tự. Anh đã gọi cho Vivien Hilland và với những manh mối có được từ vụ tai nạn giao thông vào ngày Hai mươi tư tháng Sáu, anh hỏi bà ta thời điểm của lời đề nghị đầu tiên về căn hộ đó.
“Tôi không nhớ chính xác là khi nào. Nhưng đợi một phút - vâng, tôi nhớ rồi. Đó là vào khoảng tháng Sáu, hai hoặc ba tuần trước sinh nhật của Amber. Amber sẽ tròn mười tám tuổi vào tháng Bảy. Anh biết đấy, thời buổi này bọn trẻ hẳn sẽ tổ chức tiệc khi chúng đủ mười tám tuổi và có lẽ là một bữa tiệc nữa khi chúng hai mươi mốt. Chúng tôi đang nói về chuyện đó thì chồng tôi đi vào và thì thầm điều gì đấy. Tôi đi ra cùng anh ấy và anh ấy nói với tôi, tại sao không giao cho con bé căn hộ khi ông bà Klein chuyển đi vào tháng Mười. Rồi, tôi quay trở lại sau ba tiếng và đề nghị con bé đến đó ở, nó đã rất hứng thú, tôi nói rằng mình không thể tặng con bé món quà sinh nhật nào tốt hơn thế nữa.”
“Sinh nhật cô ấy vào ngày nào, bà Hilland?”
“Để tôi nhớ. Mùng Một tháng Bảy, tôi nghĩ vậy. Không, mùng Hai tháng Bảy.”
“Như vậy, cuộc nói chuyện về căn hộ diễn ra vào giữa tháng Sáu?”
“Chắc là thế.”
“Trước khi xảy ra vụ tai nạn mà Amber dính vào?”
“Ồ vâng, dĩ nhiên rồi! Vào khoảng một tuần trước đó.” Như vậy, việc sát hại cô gái vào ngày Hai mươi tư tháng
Sáu là để ngăn cản việc cô ta sở hữu căn hộ hay để đảm bảo rằng cô ta sống không quá mười tám tuổi? Vụ đó đã thất bại. Anh phải tìm ra chuyện gì đã xảy ra khi Amber đủ mười tám tuổi. Liệu cô ta có được thừa hưởng tài sản không, và với cái chết của cô ta, có ai được thừa hưởng chỗ tài sản đó không?
Chưa chắc, vì nếu cô ta có tiền thì đã không cần phải đồng ý lời mời từ nhà Hilland. Một chuyến viếng thăm nhà Marshalson khác cần được tiến hành càng sớm càng tốt. Trong khi đó, anh phải rà soát lại các thông tin về tảng bê tông thả từ trên cầu và cái chết của bà Ambrose.
Cái chết của nhân chứng là một trong những điều đầu tiên anh lưu ý. James Ambrose gần như không thể nhớ được bất cứ điều gì về chuyện đã xảy ra. Mavis Ambrose đã chết và Amber Marshalson cũng vậy. Quay trở lại hiện trường dưới cầu Yorstone, Ambrose chỉ nhớ là có nhìn thấy một người ở trên cầu, một cái bóng mờ mờ, nhưng không chắc là đàn ông hay phụ nữ. Ông ta nghĩ cái người ở trên cầu mà ông ta chỉ thấy được hình dáng, có lẽ đang mặc một chiếc áo khoác có mũ trùm. Wexford rà soát lại trong hồ sơ. Ban đầu mọi thứ có vẻ khớp. Một người đàn ông đội mũ trùm đã ở trên cầu Yorstone trước khi cố giết Amber Marshalson và một người đàn ông đội mũ trùm đứng trong bụi cây ở đường Mill trước khi vụ án mạng diễn ra. Liệu đây có phải cùng một người? Anh tiếp tục đọc.
Hai bên cầu, cây cối rất rậm rạp.
Con đường băng qua rừng về phía nam là lối tắt để tránh các làn xe rộng trên đường Yorstone, đâm ra con đường lần nữa ngay trước khi đến cây cầu, chạy từ đường Kingsmarkham, quãng đường chưa tới một dặm. Ngày nay, mọi người có thể tùy tiện xây nhà ít nhiều theo ý mình, một ngôi nhà gỗ dành cho người đi rừng hoặc người trông coi khu săn bắn đã được dựng lên ở giữa con đường này. Người sống ở đó là một phụ nữ chín mươi ba tuổi, tên là Grace Morgan.
Trời ngả về chiều nhưng vẫn chưa tối hẳn và bà ta đang nhìn ra ngoài cửa sổ phòng khách với hy vọng trông thấy một cặp lửng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện vào thời điểm này, tuy nhiên chẳng hề thấy gì ngoài bóng tối.
Burden để ý thấy dường như toàn bộ những đường phố lớn cổ xưa ở khu giữa Sussex đang liên tục được phá đi rồi xây lại, và ngay khi chỉ mới cải tạo được một hoặc nửa con phố thì con phố tiếp theo lại lập tức được thi công. Gạch xi măng, bê tông, các khối đá xây dựng đầy rẫy. Ngay cả khi họ có thể xác định được một công trường cụ thể nào, họ cũng chẳng thể suy ra tảng bê tông kia đã được ai đó sống gần đấy lấy đi. Thời buổi này, hầu như ai cũng có xe hơi. Thật đơn giản để một người lái xe trong đêm tới Stowerton hay phố York, Kingsmarkham hoặc chợ phô mai cũ ở Pomfret hay các trang viên ở Sewingbury Minster, lấy một tảng bê tông rồi lái xe về.
Liên quan đến hung khí được sử dụng trong việc sát hại Amber Marshalson lần thứ hai và đã thành công, một cuộc gọi đến Wexford thông báo rằng có Tiến sĩ Clansfield muốn gặp anh. “Ông ta là ai?”, anh hỏi viên sĩ quan trực ở đầu dây bên kia.
“Ông ta nói rằng mình là một chuyên gia về gạch, hay đại loại thế, thưa ngài.”
“Cho ông ta lên.”
Wexford đã có bản báo cáo từ chuyên gia về gạch đặt trên bàn, mặc dù anh thậm chí vẫn chưa liếc mắt qua.
“Tôi đang trên đường về nhà và muốn tạt qua đây nói chuyện với anh một lát. Phòng khi anh nghĩ tôi không làm tròn trách nhiệm”, Tiến sĩ Clansfield, người đàn ông vừa bước vào phòng, nói.
“Ngồi xuống đi.”
“Một lát thôi đấy. Tôi không thể ở lại lâu. Tôi đã hứa đưa con gái đi xem trận chung kết quần vợt của quận...”
Tôi hứa là mình cũng sẽ đi xem, Wexford nghĩ. Hoặc nói với vợ mình là tôi sẽ làm vậy.
“Tôi không biết anh hiểu về gạch được bao nhiêu...” “Ông xây nhà bằng gạch”, Wexford nói, “thế thôi”. “Đúng vậy, tôi không muốn đi quá sâu vào vấn đề chuyên môn nhưng có đủ mọi loại gạch và chúng đã thay đổi trong hàng bao năm qua. Trước kia có gạch La Mã. Giống gạch ngói hơn, ta tạm gọi thế, và một loại nữa là gạch Tudor, loại này lớn hơn nhưng vẫn khá nhỏ và dẹt. Ở các quận phía đông, anh sẽ chủ yếu thấy gạch màu trắng. Thực ra chúng màu vàng nhưng bởi vì nguyên liệu cấu thành nên chúng là sa thạch có màu như vậy - nghĩa là không có sắt - ở vùng đó.”
“Tôi hiểu.”
“Ừm, có hàng ngàn loại gạch trên thế giới. Gạch đùn đục lỗ dây cắt có các loại mặt mịn, mặt xoa cát, mặt xát, mặt vẽ đường cong, trát vữa nhám. Rồi có loại được đánh bóng mịn và ép.”
“Một viên gạch ép?”, Wexford nói.
“Đó chỉ là thuật ngữ thôi”, tay chuyên gia nói một cách nghiêm túc. “Cũng giống như gạch ép ướt hay gạch có rãnh nhỏ, chỉ là thuật ngữ thôi.”
“Tôi tò mò về những viên gạch ép. Tôi có thể xem loại đó không?”
Lần này Clansfield hơi mím môi.
“Đây là loại phổ biến nhất và thực tế nhất mà anh có thể thấy. Đúng là có đến hàng triệu viên, nếu không muốn nói là hàng tỷ viên, ở trong thành phố này.”
Không ai sống ở Great Thatto mà không có một chiếc xe hơi. Chẳng có phương tiện giao thông nào khác. Đoạn đường từ đó tới Myland hẹp đến mức xe hơi dáng dài không thể vượt qua nhau được. Chẳng có hàng quán nào cả. Nhà thờ chỉ mở cửa vào ngày Chủ nhật đầu tiên của tháng khi vị cha xứ của St Mary, Myland đến làm việc vào buổi sáng. Đôi khi không có cư dân nào trong số sáu mươi mốt người ở Great Thatto tham dự buổi thuyết giảng, vì thế vị cha xứ lại khóa cửa và về nhà.
Khung cảnh nơi đây đã cứu vãn sự hẻo lánh của chốn này. Dọc theo con đường, người ta có thể thấy vườn quốc gia South Downs luôn nằm phía bên phải, Clusterwell Ring, ngọn đồi trọc hình nón nằm bên tay trái, và họ nhà sồi mọc um tùm ở khắp mọi nơi, vươn những nhánh cây xanh ngắt tua tủa trên con đường hẹp. Ban đêm, trời tối không khác gì bên trong túi nhung đen nhưng khi những vì sao xuất hiện, mọi người có thể thấy chúng rõ hơn bất kỳ chỗ nào ở Sussex.
Rời khỏi Kingsmarkham rất muộn với cảm giác nên ở lại và tiếp tục nghiên cứu bản báo cáo về các loại gạch, Wexford chạy xe xuyên qua Great Thatoo, mệt mỏi đánh lái vào điểm dừng bất cứ khi nào có xe khác đến gần. Đó là những chiếc xe to, thuộc dòng Sedan hoặc SUV, gầm xe cao và nắp ca-pô nhăn nhở như những chiếc mặt nạ nguyên thủy.
“Anh mệt quá”, anh nói với Dora. “Anh không muốn ăn gì cả.”
Cô lắc đầu.
“Anh khó chịu đến nỗi không muốn ăn.”
Không phải lần đầu tiên Wexford tự hỏi khi anh ngoặt xe vào Old Rectory, nơi đã ám ảnh Sylvia và Neil đến mức phải mua cho bằng được. Đó là một căn nhà lớn, thực sự rất lớn, nó ở tận cùng của quận và là thiên đường cho trẻ em, nhưng anh chưa thấy ngôi nhà nào xấu xí hơn nó. Sự pha trộn giữa phong cách bắt chước kiểu Gothic với phong cách nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ làm anh thấy nhức mắt. Xung quanh nhà, rất lâu rồi không có ai dọn dẹp vườn tược gì ở Thatto Old Rectory và vùng đất đã sớm bị bỏ hoang.
Cảnh báo nguy hiểm xuất hiện trước mắt khi Dora đứng qua một bên và lắc đầu từ chối hôn con gái. Anh thì vẫn làm vậy. Tại sao không? Nó không phải con anh ư? Anh không phải đấu tranh vì nó, tranh cãi về nó, đe dọa thẩm phán của vùng Solomon vì nó ư? Sylvia đã rất lo lắng, anh hiểu điều này. Giá mà Dora cảm thấy thật khó khăn, có lẽ cô sẽ lái xe đưa họ về nhà và anh sẽ được uống một ly rượu vang.
Họ đến ngồi bên khung cửa sổ phòng khách rộng mở, Dora cương quyết từ chối ra ngoài vì đám muỗi. Hàng đàn muỗi đã tụ lại trong bóng tối và bắt đầu vũ điệu kỳ dị của chúng. Họ nói về phản ứng đầy bạo lực của mẹ Sylvia cũng như thái độ trơ lì của cô và cha cô. Họ nói về những đứa con trai đang ngủ của cô và liệu chúng có đi nghỉ mát hay không. Và rồi, vì không thể chịu đựng lâu hơn được nữa, Sylvia nói, “Bố có thể nói cho con suy nghĩ của bố về chuyện con sinh con hộ Naomi không?”.
“Những gì bố nghĩ cũng không khác biệt lắm”, Wexford nói.
“Dĩ nhiên là không, nhưng con muốn biết. OK, đó cũng chẳng phải chuyện của bố nhưng con chắc sẽ không chịu được nếu chuyện quan trọng khủng khiếp này không được nhắc đến.” Wexford trầm ngâm vài giây. “Con đã sai rồi. Là một thành viên trong gia đình, những gì con làm ở mức độ nào đó cũng có sự ràng buộc với những người khác.”
“Thế bố nghĩ sao? Rằng con bị điên à, hẳn là vậy rồi.”
“Bố nghĩ rằng con sẽ khiến bản thân chẳng vui vẻ gì.”
“Mẹ cũng nghĩ thế”, Dora nói không phải giọng trầm trầm, nhẹ nhàng như mọi khi, “và những đứa trẻ cũng vậy. Tất cả đống lộn xộn đang diễn ra đây, thụ tinh nhân tạo, nhân bản vô tính và phụ nữ sáu mươi tuổi mang thai, tất cả đều sai lầm. Nó gây ra đau khổ và rối loạn”.
“Con nghĩ ít nhất mẹ cũng có thể hài lòng rằng Neil chính là cha đứa bé. Con không nghĩ bố quan tâm nhưng con biết mẹ không chấp nhận việc con có... ừm, quan hệ với nhiều người.”
“Không, mẹ không quan tâm. Nhất là khi con đang mang đứa bé. Và nếu con muốn biết, thì chính là mẹ không chấp nhận con. Không chấp nhận con lúc này.”
Wexford hỏi cô khi nào đứa trẻ ra đời. “Mười lăm tháng Mười hai.”
“Trước khi làm chuyện này”, Dora nói một cách cay đắng, “con có thể nghĩ rằng đó không phải là đứa con duy nhất mà con sẽ cho đi, nhưng nó vẫn là cháu của bố mẹ”.
“Chuyện là như thế này”, Sylvia nâng tông giọng. “Nếu con không giao đứa bé cho Neil và Naomi thì con cũng sẽ chẳng hề mang thai nó. Con vừa kiếm được một công việc mới. Con sẽ không có thời gian để chăm sóc đứa bé. Mẹ phải nghĩ rằng đứa bé hoàn toàn là của họ. Con nghĩ vậy.”
Wexford nhìn cô đánh giá, chứ không cảm thông. “Bố ước gì mình tin được những gì con nói. Con chưa đủ mạnh mẽ cho chuyện này đâu, Sylvia. Một ai đó ‘phủ nhận’ là cách diễn đạt yêu thích của con. Chà, bố nghĩ chính con mới phủ nhận. Con đang che giấu cảm xúc thật dưới một loạt ngôn từ của nhân viên công tác xã hội.”
Anh nhìn thấy những giọt nước mắt chảy ra và tràn lên khóe mắt Sylvia. Không phải anh, mà chính Dora đã nói bằng một giọng anh chưa từng nghe thấy trước đó, “Được rồi, tốt nhất là khóc đi. Nó cho biết con thực sự cảm thấy thế nào, khóc nức nở ấy. Khóc vì rất nhiều người trong chúng ta. Nếu như con không rõ điều này, tức là con đang hủy hoại chính gia đình mình”.
Anh không nói gì nữa mà chỉ cầm lấy tay vợ mình và nắm chặt. “Nếu con đã bình tĩnh hơn, thì bố mẹ về đây.”
Wexford hôn con gái. Dora thì không. Dora chỉ đứng đó, tay cầm chìa khóa xe của mình, Sylvia quay gương mặt đẫm nước mắt đi. Wexford cảm thấy một khát khao điên cuồng được kéo con gái vào vòng tay nhưng anh không làm gì cả, chỉ theo Dora ra khỏi nhà và nghĩ về một người mẹ trẻ, chỉ bằng nửa tuổi Sylvia, đã chết một cách khủng khiếp, để lại đứa con trai bé bỏng bơ vơ.