Kể cả việc nhìn thấy đứa trẻ sáng nay cũng khiến Wexford khó chịu đến nỗi phải ngay lập tức chuyển sự chú ý sang George Marshalson. Anh không muốn đứa trẻ ở đó, nằm giữa bãi cỏ trên một tấm chăn và được giám sát bởi người bà ngoại kế thờ ơ. Anh không muốn nhìn thấy ánh mắt vừa ngây thơ vừa không biết gì về chuyện đã xảy ra khi vô tình nhìn ra bên ngoài cửa sổ một lần nữa. Sớm hay muộn gì thì Brand cũng phải được nghe lời giải thích xác đáng cho việc tại sao mẹ nó lại chẳng còn ở đây và sẽ không bao giờ quay về nữa.
Burden ăn mặc chỉnh tề với quần jean vải lanh và áo khoác bông sọc, anh ta hỏi Marshalson về những gì xảy ra hôm Hai mươi tư tháng Sáu. “Ông đã không đề cập đến tai nạn mà Amber có liên quan.”
“Điều này có quan trọng không?” Ông ta thực sự ngạc nhiên. Wexford trâm ngâm trong vài giây, để ông ta suy nghĩ chút ít. Hoặc là không suy nghĩ gì cả. “Phải chăng có điều gì đó ở đây tôi nên biết mà thực tế thì lại không?”
“Ông Marshalson, tảng bê tông được thả từ trên cầu đã đụng trúng chiếc xe đi trước xe Amber, một chiếc Honda màu xám, không phải màu bạc, nhưng hai chiếc xe lại rất khó phân biệt vào lúc chiều tà. Tôi không muốn chuyện này khiến ông thêm đau đớn vì bi kịch đã xảy ra, nhưng nó không làm ông nghĩ rằng đây là một lần ám sát hụt cô bé hay sao?”
“Lạy Chúa. Thật kinh khủng.” Marshalson dường như thực sự bị sốc và kinh ngạc.
“Vâng, đúng là không dễ chịu nhưng tôi chắc chắn rằng những gì tôi kể với ông liên quan tới vụ này. Đó có phải là xe riêng của Amber không?”
Marshalson chậm rãi nói, “Tôi đã tặng nó cho con bé vào ngày sinh nhật lần thứ mười bảy. Đó là trước khi đứa bé được sinh ra. Sau đó, sau đó”, giọng ông ta ngập ngừng, “con bé đi học lái, rồi lấy bằng... Anh chắc chứ?”.
“Vâng, thưa ông Marshalson, tôi chắc chắn. Bất kỳ kẻ nào nhắm tảng bê tông vào xe của Amber là có ý sát hại cô bé nhưng lại nhắm nhầm vào ông bà Ambrose. Và thế là bà Ambrose đã chết. Tất cả chuyện này cho chúng ta thấy một điều là kẻ giết con gái ông biết cô bé và đã chủ định sát hại cô bé ngay từ đầu. Tôi xin lỗi vì ngôn từ hơi thô lỗ nhưng lúc này tôi muốn ông có những hiểu biết chính xác nhất.”
“Không, không sao. Cảm ơn anh. Thật là một cú sốc lớn, quá lớn. Tại sao lại có ai đó thù hận Amber chứ? Con bé chỉ là một thiếu nữ. Nó chưa bao giờ làm hại ai, con bé vô tội.”
Giọng nói của ông ta dao động và đứt quãng. “Thử tưởng tượng xem con bé có thể làm gì chứ? Không gì cả, tôi chắc chắn đấy, không thể làm gì cả.”
“Chúng tôi không biết, thưa ông Marshalson”, Burden nói. “Mặc dù ông có thể chắc chắn là con gái mình không có tội gì cả.” Anh liếc nhìn Wexford. “Vẫn còn một điều nữa.”
“Amber lúc đó có mang theo một ngàn bảng tiền mặt trong túi áo khoác”, Wexford nói.
Thậm chí không một diễn viên xuất sắc nào với nhiều năm kinh nghiệm sân khấu có thể diễn tả vẻ hoài nghi như vậy. Trước tiên Marshalson hỏi, “Anh có chắc về điều đó không?”. Và khi họ khẳng định lại với ông, “Tôi hoàn toàn mù tịt chuyện này. Amber không có bất cứ khoản tiền nào ngoại trừ tiền trợ cấp - một số tiền rất nhỏ, tôi dám khẳng định - tôi có thể cho con bé. Con bé cũng không thể tiết kiệm được một khoản tiền như vậy, nó không phải người hay tiết kiệm. Vậy thì khoản tiền này có được từ đâu?”.
“Chúng tôi phải nói lại là chúng tôi chưa xác minh được.” “Tại sao không... Ý tôi là, tại sao kẻ đã làm điều này không lấy số tiền đó đi?” Rõ ràng ông ta đang tránh dùng những từ ngữ như “sát thủ” hay “kẻ giết người”. “Chắc hẳn chúng làm thế để có được số tiền đó chứ?”
“Nhưng chúng đã không lấy, ông Marshalson”, Wexford nói nhẹ nhàng. “Amber có tài khoản ngân hàng không?”
“Có, nhưng chẳng bao giờ có nhiều tiền trong đó cả.”
“Một điều nữa, ông Marshalson”, Burden nói, “và chúng tôi sẽ để ông nghỉ ngơi. Amber có được thừa kế gì khi cô bé đủ mười tám tuổi không?”.
Một lần nữa nỗi hoài nghi của ông ta lại có vẻ thành thật. “Amber, đứa trẻ tội nghiệp ư? Không, không có gì cả.” Mặc dù tặng món quà là một chiếc xe hơi, nhưng dường như ông ta cần phải biện minh cho số tiền trợ cấp nho nhỏ dành cho cô con gái. “Tôi không phải là một người giàu có, ngài Chánh thanh tra ạ. Tôi phải thừa nhận công ty dạo này làm ăn không được tốt. Vợ tôi có tiền nhưng đó là tiền riêng của cô ấy.”
Trong vườn, thằng bé đã tỉnh dậy. Như những đứa trẻ cùng tuổi khác, nó tỉnh dậy cùng tiếng khóc nghe có vẻ thất vọng hay hờn dỗi hơn là đau khổ. Diana đứng dậy khỏi ghế và bế thằng bé lên tay - giống như ai đó đang nhấc một cái túi xách quá nặng bằng quai cầm, Wexford nghĩ. Khi họ đến gần cửa sổ, trong lúc đi qua vài cánh cửa hậu, anh nghe thấy Brand nói bằng giọng buồn bã, “Mẹ, Mẹ”.
Thời khắc này anh muốn chấp nhận Diana như là mẹ thằng bé. Không nghi ngờ gì Ban Công tác Xã hội sẽ can thiệp, nhưng gần như chắc chắn rằng Brand sẽ ở cùng với ông ngoại và bà ngoại kế vẫn còn đủ trẻ khỏe để nuôi dạy nó, bà ta sẽ làm nhiệm vụ của mình, trở thành một người bảo mẫu hiệu quả, nhận thấy rằng nó ăn rất khỏe và xem ti vi rất ít. Nhiều bà mẹ ruột còn không làm được như thế, anh nghĩ.
Anh thấy rằng bà ta dường như cũng không biết nguồn gốc của một ngàn bảng đó hơn ông chồng là mấy. Brand giờ đang ngồi trên ghế cao, hút nước cam từ bình và ăn một lát chuối, Diana Marshalson gần như thể hiện vẻ ngạc nhiên tương tự.
“Chiếc xe mà Amber lái đã thành ra thế nào khi tảng bê tông rơi từ trên cầu xuống vào tháng Sáu?”
“Nó thành đồ phế thải.”
“Tôi hiểu. Bà Marshalson, tôi xin phép được ngó qua phòng ngủ của Amber. Không cần thiết phải lục soát kỹ lưỡng như một vụ mất tích, nhưng tôi vẫn muốn liếc qua chút. Thanh tra Burden sẽ đi cùng tôi.”
Ngoài chiếc giường được dọn gọn gàng, tất cả mọi thứ trong phòng như một mớ bòng bong, chính xác như cái cách bạn mong chờ được chứng kiến trong phòng ngủ của một cô gái vị thành niên mà thiên chức làm mẹ lại dường như thật xa lạ và không phải một phần bản chất của cô. Quần áo vứt ngổn ngang. Hai chiếc ghế bị che phủ, bao bọc, mất hút trong đống quần áo và nhiều thứ khác được treo từ tay cầm cửa tủ sang đến cái móc dây của máy hút bụi. Khi Wexford mở một trong những cánh cửa, rất khó để đoán đống quần áo đã được tích lại như thế nào, nhồi nhét toàn đồ cá nhân với váy ngắn, váy dài, quần jean, quần tây, áo ngắn, áo jacket, váy và áo khoác. Số lượng quần áo cũng ngang với số mỹ phẩm mà tiện chỗ nào thì bày chỗ đấy. Một ngăn kéo tủ quần áo còn không thể đóng nổi, nó cũng được nhồi đầy nào là chai, lọ, cọ trang điểm và khăn giấy. Một chiếc khăn voan màu hồng và một bên quần tất vắt từ bên này sang bên kia một ngăn kéo khác. “Tưởng tượng cái tình trạng lộn xộn này khi Brand ở đây xem”, Wexford nói.
Burden nhún vai. “Nếu nó từng như vậy. Thằng bé dường như không có ý nghĩa lớn lao gì trong cuộc đời cô ta.”
“Chà, chúng ta cũng không rõ. Mà có thể chúng ta không cần biết.” Ý Wexford là, hãy cứ để mọi việc như thế để tôi không phải tỉnh giấc giữa đêm và lo lắng về thằng bé. Tình trạng khó xử của Sylvia đã đủ tồi tệ để phải lo lắng rồi. Hãy cho tôi một góc không nhìn thẳng vào thực tế phũ phàng của cuộc sống.
Burden đang mở ngăn kéo, hết cái này đến cái khác. Không theo một trật tự nào cả. Một cái thì rải rác mạt của một chất màu trắng mà Burden nói là bột phấn, còn có mấy tờ khăn giấy đã qua sử dụng và bị vo tròn lại, những cuộn len cùng nửa lọ mỹ phẩm dùng dở. Những cái khác bị nhồi nhét với một đống hỗn độn các thứ linh tinh để mặc, để đọc, hình cắt (hoặc xé thì đúng hơn) từ tạp chí, bút bi, tất, kính mát, kẹp uốn tóc, máy sấy tóc, một số bàn chải và lược. Cả hộ chiếu cũng bị vứt vào đây. Mở hộ chiếu ra, đầu tiên anh nhìn qua bức ảnh của Amber, bức ảnh hộ chiếu cho thấy chủ nhân của nó khá xinh đẹp, ở một trang trong có dán tem cho nhập cảnh vào Thái Lan vào ngày 7 tháng 12 và hết hạn vào ngày 21 tháng 12 năm ngoái. Anh đưa nó cho Wexford và chuyển sự chú ý vào đống quần áo có túi, sau một hồi tìm kiếm anh thấy có hai điếu thuốc lá đã bị bẹp, một số đồng xu mệnh giá nhỏ, thêm khăn giấy đã dùng và một bao cao su khác, một phong bì đầy tiền bị kéo ra với một thứ trông như đồ lót.
“Tôi sẽ đếm”, anh nói, “nhưng anh có nghĩ là có ít nhất một ngàn bảng trong này không?”.
“Có thể. Tôi rất hoang mang. Cô ta ăn cắp hay tự kiếm được?”
“Nếu cô ta kiếm được”, Burden nói, làm bộ nghệt mặt, “thì hẳn cô ta đã chơi xổ số. Chẳng có cách nào khác để kiếm được nhiều tiền đến thế”.
Trên phố High Street ở Kingsmarkham, đồng hồ kỹ thuật số bên ngoài Trung tâm mua sắm Kingsbrook chỉ mười một giờ mười lăm và nhiệt độ đang là ba mươi lăm độ.
“Với anh thì phải là chín mươi”, Burden tử tế nói. “Được thôi, tôi có thể tính được mà. Tôi đã được con gái mình dạy cách tính. Đó chỉ là một phép tính nhẩm mất chút thời gian thôi.”
Một người đàn ông trẻ tuổi đẹp trai với mái tóc bằng, hơi dài đang đứng dựa lưng vào ngăn để hành lý của một chiếc xe hơi ở đồn cảnh sát trong khu vực đậu xe. Anh ta đã đậu chiếc Audi của mình vào khoảng trống được đánh dấu “Dành cho Cảnh sát trưởng”. Wexford đi về phía anh ta, bắt gặp ánh mắt của anh ta, màu xanh đậm với lòng trắng rất rõ ràng, rồi đột ngột hỏi, “Tôi có thể giúp gì cho anh?”.
“Thực sự phải là tôi có thể giúp gì cho ông? Hoặc không thể, tôi đến vì điều đó.” Một bàn tay dài màu nâu chìa ra. “Daniel Hilland. Hân hạnh được gặp ông.”
Thực sự không cần phải trả lời câu này và Wexford không phản ứng gì cả. Cũng không bắt tay anh ta. “Anh không thể để xe ở đây.”
“Tôi nghĩ là ông muốn gặp tôi. Chúng ta có thể vào trong không?
“Không được phép để xe ở đây, chúng tôi không cho phép. Anh có thể di chuyển nó ra chỗ khác, không mất nhiều thời gian đâu. Anh có nhận thức được chuyện gì đã xảy ra với cô bạn gái trước của mình không?”
Hilland gật đầu. “Dĩ nhiên rồi.”
“Tôi nghĩ là anh đang đi nghỉ mát ở Phần Lan chứ?” Tiếp một cái gật nữa.
“Tôi muốn xem hộ chiếu của anh, anh Hilland, và những tài liệu khác có thể chứng minh rằng anh đã ở đó vào thời điểm xảy ra sự việc.”
Hilland nhìn chằm chằm. “Ý ông tài liệu là như thế nào?” “Anh có thể lấy ra, ví dụ hoá đơn cho vé máy bay của anh, một mẩu giấy trông gần giống vé của anh nhưng không có giá trị cho việc di chuyển.”
Cảm thấy nóng đầu, Hilland cáu kỉnh nhìn anh và Burden. “Chẳng ai lại đi giữ mấy thứ đó cả.”
“Không giữ là kém thông minh đấy. Nhưng dẫu sao hẳn anh vẫn giữ hóa đơn khách sạn chứ?”
“Tôi sẽ giữ nếu tôi ở khách sạn. Chúng tôi đi cắm trại. Nghe này, ông không thể nghiêm trọng đến mức cho rằng tôi có liên quan gì đến cái chết của Amber chứ. Điều này thật vô lý. Ý tôi là, tại sao tôi phải liên quan chứ?”
“Luật pháp không có nghĩa vụ phải xem xét động cơ gây án, anh Hilland. Nhưng tại thời điểm hiện tại, chúng tôi chỉ đang cố gắng loại trừ đối tượng bằng các câu hỏi. Tôi có thể đặt anh vào diện nghi vấn nếu anh không thể trình báo bất cứ bằng chứng nào về việc mình đã ở đâu theo lời anh nói. Chắc chắn là một trong những người bạn của anh có thể kể cho tôi.”
“Tôi nghĩ là mình sẽ phải hỏi họ.” Hilland nói bằng một giọng điệu thậm chí khiếm nhã hơn so với lúc đầu. “Thật buồn nhưng tôi nghĩ họ sẽ nói. Họ không thích mấy chuyện này đâu.”
“Chuyện này là chuyện gì?”
“Ồ, xem nào, cảnh sát, giết người, đối tượng tình nghi và những gì đại loại như thế, đặc biệt là khi mọi người đều biết rằng một số kẻ tâm thần nghiện xem phim khiêu dâm trên mạng đều có ý nghĩ như thế đối với các cô gái kiểu đó.”
Wexford không phải tự nhắc nhở bản thân rằng trong số “những cô gái kiểu đó” có một người là mẹ của con trai Hilland. Anh hiếm khi gặp một gã thanh niên trai trẻ nào phản cảm hơn gã này. Một kẻ cộc cằn, thô lỗ trong xã hội, mà đến tận bây giờ vẫn được phân loại tại đồn cảnh sát Kingsmarkham như là “hạ lưu”, có lẽ đúng với hắn. “Đúng vậy”, anh trả lời. “Tôi muốn biết tên và địa chỉ của một trong số những người bạn của anh và tôi muốn biết ngay bây giờ.”
Ngạc nhiên trước sự thay đổi trong giọng điệu của Wexford, Hilland hờn dỗi nhìn vị Chánh thanh tra nhưng vẫn đưa ra hai cái tên, một người có địa chỉ ở Wales và người kia thì nhà gần Lewes.
“Khi chúng tôi tìm thấy thi thể, có một ngàn bảng nằm trong túi áo khoác của cô ta. Anh có biết gì về việc tại sao cô ta lại có khoản lớn đến thế không?”
Hilland thay đổi ánh mắt như thể đối với hắn ta, đó chẳng phải là một số tiền lớn bằng cách nhướng cặp mắt nâu lên và ngoẹo đầu về một hướng. “Chịu. Tôi không bao giờ gặp cô ta nữa, ông biết đấy. Chúng tôi đã chia tay trước khi cô ta sinh con. Không có nhiều điều để nói khi đã chia tay.”
Tự nhắc bản thân phải giữ bình tĩnh bằng mọi giá, Wexford thử hỏi tại sao cô ta lại cần tiền, mặc dù anh biết chắc rằng hoàn cảnh khó khăn không phải là động cơ liên quan đến việc ăn cắp hay bất cứ cách nào, dù hợp pháp hoặc bất hợp pháp, để kiếm được số tiền này.
“Cô ta chuẩn bị chuyển đến sống ở căn hộ của bố tôi”, Hilland nói. “Cô ta cần có tiền để sống. Điều này khác với việc sống cùng nhà với cha cô ta và người đàn bà tên gì nhỉ? - Diana.
Amber chẳng có tài sản cá nhân nào cả. Và trước khi ông hỏi, với sự chỉ trích trong từng câu chữ, thì không, tôi không đưa cho cô ta bất kỳ thứ gì. Tôi chả có gì để đưa cả. Tôi chỉ là một thằng sinh viên, OK?”
“Thôi được, tất cả chỉ có thế thôi”, Wexford trả lời ngắn gọn, thích chí nhìn gã đàn ông nổi nóng, mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt và ướt đẫm vùng dưới cánh tay. “Tôi muốn anh đem hộ chiếu và bất kỳ tài liệu nào anh có tới đây vào sáng ngày mai. Giờ anh có thể đi và nhớ đừng có đỗ xe ở đây nữa.”