Nhà cửa có cổng ra vào không phổ biến lắm ở vùng này của Sussex nhưng Wexford thấy dường như mỗi khi một tư gia có thu nhập khá trở lên được xây dựng, sống ở đó sẽ có phần không an toàn nếu không có cổng ra vào, một hàng rào mang tính thiết yếu và đậm phong cách Anh quốc với người giữ cổng. Người đang làm nhiệm vụ đó tại Riverbank Close, Sewingbury là một người châu Phi cao gần hai mét, mặc quần jean đen và áo phông có in chữ “Rivebank” trước ngực. Người lái xe đi trước Wexford và nhận được một lời chào ngọt ngào “Chào buổi sáng, thưa ngài” cùng nụ cười rạng rỡ nhã nhặn khi qua cổng gác; trong khi Donaldson lại được chào đón bằng sự khinh miệt lạnh nhạt và yêu cầu xuất trình giấy tờ.
“Tôi cho rằng”, Burden nói khi họ đã vào trong, “nếu tôi là một trong số những người sống ở đây, tôi sẽ thích gã đó và cảm thấy thật an toàn khi thấy hắn ta đang làm việc. Tuy nhiên...”
Wexford gật đầu. “Lần đầu tiên tôi thấy cách bố trí này là ở California và hy vọng nó sẽ không xảy ra ở đây.”
“Nó có xảy ra ở đây không?”
“Tôi không biết, Mike ạ. Dù sao thì, bờ sông ở đâu nhỉ?” “Cách đây khoảng nửa dặm và anh có thể gọi nó là một nhánh của sông Kingsbrook nếu lúc này nó chưa khô cạn hết.”
Một số công trình xây dựng rõ ràng đang được thi công tại căn số bốn. Một tấm biển ở trước khu vườn cho thấy những công nhân xây dựng ở đây đến từ Surrage-Samphire, Chuyên gia Trang trí và Phục chế, nhưng giống như thường lệ, không có đồ trang trí hay tu bổ gì trong căn nhà hiện đang vang rộn những tiếng nện ầm ầm, mặc dù khu đại sảnh, dường như đang trong quá trình ốp lại, là một đống hỗn độn gồm ván gỗ, chậu keo, bàn chải, giấy và giẻ lau. “Nhưng không có gạch”, Wexford lưu ý Burden.
Dù đã kỳ vọng, họ vẫn phải rung chuông cửa tới hai lần mới có người ra mở. Đó là một thiếu nữ trong bộ váy denim ngắn cũn, áo ngực lộ ra ngoài, trước sự khoái trá của Wexford, Burden hướng mắt đi chỗ khác dù đang cố kiềm chế những ham muốn trỗi dậy trong mình.
“Có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi có hẹn với bà Hilland”, Wexford nói, và bước vào trong nhà giữa đống vật liệu xây dựng ngổn ngang mà không cần biết có được phép hay không. “Và cô là?”
Trong chốc lát anh nghĩ rằng cô gái sẽ nói anh không có việc gì ở đây cả, nhưng cô ta lại nhượng bộ và trả lời, “Cosima Hilland”.
“Daniel là anh trai cô à?”
Mọi người đều biết điều đó, ánh mắt của cô ta đã nói lên điều này. Câu hỏi không cần thiết phải trả lời. Bước qua một đống chậu và ván gỗ, cô gái dẫn mọi người đến trước một cánh cửa đôi và nói, “Ở trong đó”, như thể cô ta đang nghĩ tốt nhất là để hai người họ tự đẩy cửa.
Mẹ cô gái cùng tầm tuổi như Diana Marshalson, một người phụ nữ gầy guộc, có mái tóc vàng nhạt và trông có vẻ mệt mỏi. Bà ta đứng dậy khỏi chiếc ghế bành đang ngồi, viết gì đó lên bàn. Wexford để ý thấy, từ khoảnh khắc họ bước vào căn nhà, đây là một trong những căn hộ hiếm hoi có máy điều hòa nhưng có lẽ chỉ là một trong số rất nhiều nhà ở Riverbank Close. Không mở cửa sổ, căn phòng mát mẻ như thời tiết mùa thu. Bên ngoài, ánh mặt trời chói chang trên đám cỏ khô và hành hạ lũ cây cối đến rũ lá.
Người đàn bà không nói gì cả, không cười và cũng chẳng đưa tay ra bắt, nhưng lại trợn đôi mắt màu nâu lên đến nỗi những đường kẻ bằng chì biến mất vào trong vành mắt. Wexford coi đấy là câu hỏi về việc họ vào nhà bà ta giống như cô con gái đã hỏi, “Có chuyện gì?”. Không cần được mời, Burden ngồi xuống, và Wexford, ngay khi bà ta quay trở lại ghế bành, cũng ngồi xuống nốt. Họ đã gọi điện thông báo cho bà ta trước cuộc viếng thăm nhưng bà ta không có vẻ gì là biết về nó. Bà ta ngồi đó im lặng, đầu tiên là nhìn ra ngoài cửa số, sau đó hướng ánh mắt về Wexford.
Anh phản ứng bằng cách hỏi liệu bà ta có phải là bà Hilland không.
“Vivien Hilland, là tôi”, bà ta nói với ngữ điệu của một người ở tầng lớp cao hơn so với ngôi nhà bà ta đang ở. Một trang viên nhỏ chắc sẽ phù hợp hơn.
“Bà hẳn đã nghe về cái chết của Amber Marshalson.” “Tôi chắc đây là lý do cho sự xuất hiện của anh ở đây.” “Con trai bà là cha của con trai Amber, tôi tin là vậy.” “Tôi cũng tin thế”, bà ta đáp. “Từ những gì tôi đã nghe và đọc được, khoảng một phần ba số đàn ông nghĩ họ là cha của con mình đã lầm. Trong trường hợp này cũng có thể là vậy nhưng vợ chồng tôi nghĩ rằng Daniel thực sự là cha của Brand.”
“Thật vậy sao”, Wexford nói và thở dài trong lòng. “Con trai bà hiện đang ở đâu?”
“Nó đang là sinh viên năm cuối Đại học Edinburgh.” Bà ta ngừng lại như thể đang đợi một trong hai viên cảnh sát hỏi sinh viên năm cuối nghĩa là gì. “Tuy nhiên, hiện tại thì”, bà ta tiếp tục, “nó đang ở Phần Lan cùng bạn bè. Đến một vài hồ nước hay đại loại thế”.
“Cậu ta có biết về cái chết của Amber Marshalson không?”, Burden hỏi.
“Chồng tôi có gửi tin nhắn di động cho nó. Nó vẫn chưa trả lời. Nó và Amber đã không còn... ừm, cặp với nhau nữa.
Chúng nó đã chấm dứt quan hệ từ sáu tháng trước khi đứa trẻ ra đời.”
“Chúng tôi rất mong có được số di động của cậu ta, thưa bà Hilland.”
Bà ta trông có vẻ không muốn nhưng rốt cục vẫn nhún vai và viết lên một mảnh giấy lôi ra từ ngăn bàn. Cô gái Cosima đi vào, đang uống một lon Coca. Cô ta đi qua mà không thèm liếc nhìn, mở cánh cửa phòng khách và cứ để nó đó, lang thang vào khu vườn rồi nằm sấp trên bãi cỏ. Bà Hilland lại nhướng mắt lần nữa.
Tiếng bước chân vang lên ngoài sảnh và một người đàn ông thò đầu qua cánh cửa. “Tôi chỉ thông báo cho bà biết là tôi sẽ vào thành phố mua miếng gỗ hoa văn đó”, anh ta nói. “Sẽ không lâu đâu.”
Đó là một anh chàng đẹp trai, mắt xanh và đang mỉm cười. Mặt bà ta giãn ra. Bà ta cũng cười lại. “Được rồi, Ross. Anh đi đi.”
“Lần cuối bà nhìn thấy Amber là khi nào?”, Wexford hỏi khi người đàn ông đã đi khuất và sắc đỏ trên khuôn mặt Vivien Hilland đã giảm bớt.
“Ồ, hai hoặc ba tuần trước. Con bé thường đưa thằng nhóc Brand đến. Dù sao thì, nó cũng là cháu trai tôi.”
“Vâng.”
“Lần cuối cùng, nếu đó là điều anh muốn biết, là vào - để tôi nhớ xem - Hai mươi tháng Bảy. Tôi nhớ rõ vì hôm đó đội xây dựng bắt đầu làm việc. Diana Marshalson đã gợi ý cho tôi về Ross Samphire. Anh ta đã hoàn thiện vài công trình ở studio. Tôi nhớ là mình đang nói chuyện với anh ta thì con bé và Brand đến.” Vivien Hilland chẳng có vẻ gì là giống một người bà mặc dù bà ta đang nói về Brand bằng giọng nhiệt tình. Bà ta thậm chí vẫn tiếp tục trả lời cho đến khi không còn câu hỏi nào. “Thằng bé trông rất giống Daniel, và nó nên như thế.” Bà ta cũng không giải thích thêm gì về nhận xét khá khó hiểu này. “Chồng tôi và tôi sẽ thích hơn nếu nó và Amber có thể dàn xếp những khác biệt giữa chúng và hai đứa sống chung trong suốt kỳ nghỉ ở đại học. Đó là lý do khiến chúng tôi muốn để lại căn hộ cho con bé. Anh có biết về căn hộ đó không?”
“Không, chúng tôi chưa nghe nói.”
“Tôi nghĩ Diana Marshalson đã kể với các anh rồi. Hẳn các anh cũng biết rằng chồng tôi, Stuart Hilland, đã từng là cử tri quốc hội của Nam Crenge trong Hạ Nghị viện của Đảng Bảo thủ.” Đây hẳn là cách nói quanh co nhất có thể rằng ông ta là một Tory MR, Wexford nghĩ. “Khi ông ấy vào Hạ Nghị viện, chúng tôi đã mua một căn hộ ở Crenthorne Heath nhưng không may ông ấy bị mất chức khi Đảng cộng sản lên nắm quyền vào năm 1997. Chúng tôi đã cho thuê vào thời điểm đó, nhưng tới tháng Mười một, hợp đồng thuê nhà hết hạn và chúng tôi giao nó cho Amber.”
“Cô ta và Brand sẽ chuyển đến Luân Đôn?”
“Đúng thế, một vùng ngoại ô ở Luân Đôn. Con bé không từ chối. Nó đã vui mừng trước viễn cảnh có một nơi ở của riêng mình. Hội đồng Kingsmarkham sẽ chẳng làm gì cho nó cả. Vậy, anh có muốn hỏi thêm gì không?”
“Lời đề nghị này”, Burden nói, “có kèm theo điều kiện là Daniel cũng sẽ sống ở đó khi nào có thể không?”.
“Thành thật mà nói, tôi nghĩ rằng cần phải thế nhưng chồng tôi không đồng ý. Không, căn hộ đó chỉ dành cho con bé. Tôi thực sự không hiểu tại sao các anh lại hỏi những câu không liên quan như vậy. Hẳn một kẻ ấu dâm hoặc tâm thần đã giết con bé, phải không?”
“Tôi không nghĩ vậy”, Wexford trả lời. “Tôi rất muốn hỏi thêm một câu mà bà nghĩ là không liên quan, thưa bà Hilland. Bà đã ở đâu vào sáng thứ Tư, trong khoảng từ một đến ba giờ sáng?”
“Tôi ư?” Như thể trong phòng có đầy người vậy. “Tôi ư? Tất nhiên là trên giường.” Gần như trước khi thốt ra câu trả lời, vẻ cân nhắc kỹ càng đã hiện lên khuôn mặt bà ta. “Không, không phải tôi”, bà ta đã trở nên bình tĩnh hơn. “Chồng tôi và tôi đã đi xem một vở kịch rất dài ở thành phố - Luân Đôn - sau đó chúng tôi đã ăn tối và lái xe về nhà. Chúng tôi về tới nhà lúc hai rưỡi.”
“Tôi hiểu. Cảm ơn bà. Con gái bà ở nhà một mình à?” Bà ta coi đó như một lời chỉ trích. “Cosima là đứa trẻ mười sáu tuổi rất có trách nhiệm, con bé già dặn hơn tuổi.”
Như để chứng minh, cô gái đứng dậy khỏi chỗ đang nằm trên bãi cỏ và ung dung tiến vào, ném lon Coca đi khi bước vào nhà.
“Bố con và mẹ đã về tầm hai rưỡi sáng hôm qua, phải không?”
“Con không biết”, Cosima trả lời. “Con ngủ cả đêm mà.” “Con nghe thấy chúng ta mà. Con biết là mẹ về. Con đã hét lên điều gì đó với chúng ta.”
“‘Cút đi’, con nghĩ vậy.”
Vivien Hilland bắt đầu gào vào mặt cô bé. “Làm sao mày dám dùng những ngôn từ thế hả, con nhóc hư đốn thối miệng kia! Và nhặt lon Coca lên. Nhặt đi, nhanh lên.”
Lắc nhẹ đầu qua hai bên để chứng minh mình giống kiểu người trưởng thành mà bà mẹ vừa lạc quan ví cô như thế, Cosima đi ngang qua căn phòng, và ngay khi ra khỏi, liền giậm chân trên cầu thang, mạnh tới gấp ba lần trọng lượng của cô. Bà Hilland quay sang nhìn họ với nụ cười gượng gạo. “Giờ thì xong rồi chứ?”
“Hiện tại là thế”, Wexford trả lời.
Ra ngoài, Burden lau trán bằng một chiếc khăn tay khử trùng, mặc dù trong nhà không khí khá mát mẻ. “Bà ta sẽ ra nhặt cái lon bây giờ đấy.”
“Thật đáng tiếc, bà ta đã phí phạm năng lượng vào những lời xỉ vả dữ dội khi đã quá muộn. Tại sao Diana Marshalson lại không nói cho chúng ta biết về căn hộ đó?”
“Chắc bà ta nghĩ nó không liên quan, tôi cho là vậy. Đúng không?”
“Không biết”, Wexford nói. Anh rú lên và rụt tay khỏi cửa xe; phần kim loại đã trở nên nóng rẫy. “Lạy Chúa, đau quá. Nếu không có chồng bà ta, Diana sẽ vô cùng sung sướng trước viễn cảnh được nhìn thấy Amber vốn chưa từng hòa hợp với bà ta và đứa nhỏ mình vẫn coi là cục nợ rời khỏi nhà.”
“Anh đang nói là điều này bác bỏ toàn bộ động cơ giết Amber của bà ta. Không phải tôi nghi ngờ bà ta nhưng bà ta thực sự ghét cô gái và chẳng có chứng cứ ngoại phạm.”
“Chồng bà ta chắc sẽ lưu ý nếu như bà ta rời khỏi nhà. Dù thế nào thì bà ta cũng không làm như thế. Bà ta có đủ lý do để không sát hại Amber. Để cô ta đến Crenthorne Heath, mang theo đứa bé và có thể họ sẽ không bao giờ nhìn thấy cô ta nữa.”
“Tôi tự hỏi”, anh nói khi họ vào trong xe, “liệu giữa hai gia đình có sự ghen ăn tức ở không. Nhà Marshalson, có lẽ là từ khi Diana rời công ty, dường như không phải dạng quá lắm tiền nhiều của. Họ chẳng có căn hộ nào ở Luân Đôn cả. Nếu có, Amber và Brand đã định cư ở đấy cho đến giờ rồi”.
“Và cô ta hẳn vẫn còn sống.”
“Có thể. Nhưng cái ‘nếu như’ ấy là vô dụng, đúng không? Chúng ta không thể nói trước được tương lai và cảm ơn Chúa vì điều đó. Luật cơ hội và ngẫu nhiên chi phối mọi thứ. Ví dụ, Donaldson có thể đưa chúng ta quay trở lại Kingsmarkham bằng cách đi vòng qua Stowerton hoặc đi theo đường B qua Framhurst. Nếu muộn hơn, chúng ta có thể băng qua gầm cầu nơi xảy ra vụ tai nạn vào tháng Sáu và ai đó có thể thả một tảng bê tông lên đầu chúng ta. Nếu chúng ta đi đường vòng, một chiếc xe tải có thể bị mất lái trên đoạn đường trơn này, không nhìn thấy gì và đưa chúng ta đi gặp Thượng đế. Ai biết được?”
“Tôi luôn đi đường vòng, thưa ngài”, Donaldson nói một cách nghiêm túc. “Nhưng nếu anh thích Framhurst thì...?”
“Ồ không, không.” Wexford phá lên cười. “Chúng ta sẽ đi đường của anh.”
Ben Miller là một cậu nhóc cao ráo đẹp trai, tóc ngắn và gầy. Hannah và Baljinder tìm thấy cậu ta ở một mình trong căn hộ nhỏ cuối dãy nhà mẹ mình ở Myfleet. Bà ta đang đi làm, và cả chị gái cậu ta, người cũng đang sống ở đó, nữa. Ben đang làm việc trên máy tính, không giống như Hannah nghĩ lúc đầu rằng cậu ta chắc đang chơi mấy trò trực tuyến, cậu ta đang làm luận văn trước khi trở lại trường đại học vào sáu tuần nữa.
“Dường như cậu là người cuối cùng nhìn thấy Amber Marshalson còn sống”, Hannah nói sau khi họ được mời nước, một điều kiện tiên quyết để tiến hành nói chuyện trong thời tiết nóng bức hiện đã lên đến ba mươi ba độ. “Cậu có thể nói cho chúng tôi biết không? Tất cả những gì cậu có thể nhớ được, làm ơn.”
“Cháu học cùng trường với Amber”, Ben Miller đáp. “Chúng cháu quen nhau hàng năm nay rồi. Sự việc xảy ra với Amber thật khủng khiếp. Cháu vẫn chưa thể tin được chuyện ấy.” Cậu ta nhìn thật đau khổ. “Chuyện gì đã xảy ra vào tối hôm đó? Vâng, cháu đến câu lạc bộ Bling-Bling vào khoảng chín giờ với bạn gái. Cô ấy sống ở Kingsmarkham. Tên cô ấy là Samantha Collins.” Ồ, sau cùng cũng có một phụ nữ tên là “Sam”, Hannah nghĩ. “Và sau một lúc thì có vài người chúng cháu biết nhập hội. Đó là Lara, Lara Bartlow. Và Chris Williamson đi cùng bạn gái của cậu ấy - cô gái đó tên gì nhỉ? À, Charlotte, Charlotte Probyn, rồi thêm hai cô gái nữa đến, Veryan và Liz, cháu không biết họ của họ là gì.”
“Cháu không uống và Amber cũng thế, ý cháu là cô ấy cũng đã không uống. Thật khủng khiếp khi nói đến người nào đó mà phải thay đổi thì động từ1 bởi vì họ đã chết, phải không? Cháu lái xe đưa Sam về nhà rồi đưa Amber về Brimhurst. Thề có Chúa, cháu ước gì mình đã đưa cô ấy về tận nhà. Chỉ là chúng cháu thường gặp nhau ở Kingsmarkham và cháu gần như luôn đưa cô ấy về nhà - vâng, cháu làm vậy kể từ khi cô ấy gặp tai nạn. Cô ấy chưa bao giờ lái xe về kể từ khi chuyện đó xảy ra. Nhưng cháu luôn thả cô ấy ở cuối đường Mill. Cháu chưa bao giờ và cũng không nghĩ cô ấy lại...”
1 Ben Miller đã sử dụng “doesn’t” (thì hiện tại) trong câu “Amber doesn’t” (Amber cũng thế), và sau đó đổi sang “didn’t” (thì quá khứ) vì thực tế Amber đã chết.
“Tai nạn gì, Ben?”, Bal hỏi. “Cô ấy đã đâm vào sau một chiếc xe ở đường Brimhurst.” “Cô ấy lái xe tông vào đằng sau một chiếc xe?”
“Chú phải biết điều đó chứ.” Ben Miller tiết lộ rằng mình là một trong số nhiều người coi đó là chuyện hiển nhiên khi CID2 biết chi tiết về các vụ tai nạn giao thông. “Đó là khi vài tên khốn nào đó thả một tảng bê tông xuống từ cầu Yorstone. Nó không rơi trúng Amber, nó rơi vào chiếc xe đằng trước cô ấy, còn cô ấy thì tông vào đuôi chiếc xe kia. Ừm, bất kỳ ai cũng thế thôi. Chuyện đó làm cô ấy bị sốc và cô ấy bảo sẽ không lái xe lần nào nữa. Ý cháu là, cháu hy vọng cuối cùng cô ấy sẽ lái xe trở lại, nhưng vẫn còn sớm quá, vụ va chạm chỉ vừa xảy ra vào tháng Sáu.”
2 Criminal Investigation Department: Cục Điều tra Tội phạm.
“Và đó là lý do cháu đưa cô bé về nhà?”
“Chú có nghĩ là bởi vì cô ấy đã uống say không? Cô ấy chưa bao giờ đụng đến đồ uống có cồn. Chí ít cháu chưa bao giờ thấy điều đó. Cô ấy đã từng uống nhưng cô ấy nói mình đã cai kể từ khi Brand ra đời, cũng giống như việc cô ấy bỏ thuốc lá vậy.”
Hannah biết rằng cái gật đầu và nụ cười phớt qua của Bal ám chỉ sự tán thành. Anh ta vốn vô cùng căm ghét việc hút thuốc. “Cháu có nhớ thời điểm mình thả Amber xuống không?”, anh ta hỏi.
“Chính xác đến từng phút ấy. Khi chúng cháu đang chạy xe dọc theo đường Myfleet thì Amber lưu ý rằng cháu chưa bật đồng hồ xe đằng trước. Các cô chú biết là chúng ta cần phải làm thế vào tháng Ba và tháng Mười mà. ‘Hiện tại không phải là mười hai giờ bốn mươi’, cô ấy nói vậy. Lúc đó hẳn đã muộn hơn và cháu nói, ‘Một giờ bốn mươi rồi’; cháu lại quên lên dây đồng hồ và lúc đó, cháu không thấy phiền về chuyện ấy chút nào cả. Chỉ phải vặn lại đồng hồ thôi. Vừa đúng lúc cháu ngoặt vào chỗ rẽ ở đường Mill.”
“Cô bé có nán lại trong xe để trò chuyện hay gì không?” Ben Miller nhìn có vẻ khó chịu. “Không, cô ấy không hề.
Và chẳng có bất cứ ‘gì’ đấy cả.” Không bao giờ có chuyện đó.
Cháu đã có bạn gái. Cô ấy xuống xe, nói rằng sẽ gặp lại cháu sau và đó là lần cuối cháu thấy cô ấy. Lần cuối trong đời, ôi lạy Chúa.”
“Cô ấy sẽ gặp lại cháu sau?”, Hannah nói, không hiểu được ẩn ý trong cách dùng từ của cô gái. Cô ta còn trẻ nhưng lại quá già để nói như thế.
“Tuần sau, ý cô ấy là thế.”
“Và cháu chạy thẳng về nhà?”
“Cháu mất mười phút để về tới nhà.”
“Có bất kỳ ai làm chứng cho việc đó không?” “Cháu không nghĩ là có ai lúc đó.”
Quay trở lại Kingsmarkham, Hannah thấy Wexford đang ở trong văn phòng cùng Burden. “Chị của Miller đã đi làm về khi chúng tôi rời khỏi. Cô ta là một thợ làm tóc. Cảm động không? Thằng nhóc thì đi học đại học trong khi cô chị đi làm tóc.”
“Cô là một người hợm hĩnh đấy, Hannah”, Burden nói.
“Nếu anh là một kẻ hợm hĩnh có học thức, thì tôi hy vọng mình cũng thế. Tôi không phải kẻ hợm hĩnh đẳng cấp. Người phụ nữ này không thể xác định được thời gian Ben về nhà. Cô ta đã đi ngủ. Cô ta nói mình chưa từng nghe thấy tiếng chân cậu ta bước vào nhà. Tôi đã nói chuyện điện thoại với người mẹ và bà ta cũng nói vậy. Tôi không thể nghĩ ra tại sao cậu ta lại đánh vào đầu cô gái bằng một viên gạch, anh bạn ạ.”
“Không, nhưng chúng ta không biết nhiều về cậu ta, đúng không?”, Burden nói.
“Mặc dù chúng ta đã bắt đầu hiểu chút ít về cô bé rồi đấy. Cô ta lái một trong những chiếc xe có liên quan đến vụ tai nạn ở đường Brimhurst khi vài tên lưu manh thả bê tông xuống cầu.”
“Chính Amber Marshalson lái xe ư?” Wexford đứng dậy khỏi ghế bành và đi vòng quanh bàn. “Tôi đã nói về chuyện này sáng nay, Mike, anh có nhớ không? Thử xem cô có thể làm được gì hay ho với cái máy tính không, Hannah?”
Như thường lệ, Wexford rất ngưỡng mộ các thiết bị mà cô động tay vào. Anh sẽ làm chúng lộn xộn hết cả lên. Anh đã từng loay hoay trong một đường dẫn siêu liên kết hoặc vô tình gửi một tập đính kèm email. Hannah mô tả lại những gì cô thấy được, đọc to những gì tìm kiếm được trên mạng.
“Hai phương tiện có liên quan. Một chiếc Honda màu bạc và một màu xám, cả hai cùng chung một dòng. Chiếc Honda màu bạc do Amber Marshalson lái, mười bảy tuổi, chiếc Honda màu xám do James Andrew Ambrose lái, sáu mươi hai tuổi, và vợ ông ta Mavis, sáu mươi tuổi, ngồi ở ghế sau.”
Chiếc Honda màu xám đang trên đường tới Myfleet, còn chiếc Honda bạc thì theo ngay sau nó. Một tảng bê tông nặng xấp xỉ hai mươi hai ký đã được thả từ trên cầu xuống khi hai chiếc Honda băng qua bên dưới, đập vào kính chắn gió và nắp ca-pô của xe nhà Ambrose, làm cho người lái mất kiểm soát và tông vào một thân cây. Chiếc Honda màu bạc đâm thẳng vào đằng sau chiếc màu xám. Amber Marshalson không bị thương nhưng Ambrose thì rơi vào tình trạng nguy kịch - vết thương nghiêm trọng như thế nào không được nói rõ ở đây - Mavis Ambrose cũng vậy, bị gãy xương và thủng phổi.”
“Mavis Ambrose đã qua đời”, Burden ủ rũ nói. “Không còn ai khác trong vụ đó nữa. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là tìm ra tảng bê tông đó đến từ đâu. Có thể đến từ, để tôi xem. Một công trình đang xây dựng ở Stowerton. Nhưng chúng ta không lần ra được dấu vết nào từ đấy.”
“Tại thời điểm đó”, Wexford trầm ngâm, “chúng ta đã coi đó chỉ đơn thuần là một vụ bạo lực ngẫu nhiên, chúng ta đã tin rằng nguyên nhân là do một vài kẻ túng quẫn muốn trả thù xã hội vì những gì hắn phải chịu đựng”. Hannah mở miệng phản đối nhưng anh lờ đi. “Nhưng không phải thế đúng không? Vụ đó không phải ngẫu nhiên và nó không nhằm vào James Ambrose, mà là Amber Marshalson, hung thủ đã bị bối rối trước hai chiếc Honda nối đuôi nhau. Trời lúc đó lại tối đến mức khó có thể đọc được biển số xe, và hắn đã nhằm vào chiếc màu xám mà hắn nghĩ là chiếc màu bạc.”
“Hắn đã gây ra cái chết cho người phụ nữ”, Hannah nói. “Bà ta đã chết thay cho Amber. Hắn đã nhắm trượt Amber trong tháng Sáu, do đó hắn đã thử lại vào tháng Tám và lần này”, Wexford gằn giọng, “hắn đã làm được”.