Ngân hàng ở phố Kingsmarkham High Street không gây khó dễ đối với việc kiểm tra tài khoản của Amber. “Dù gì thì cô gái tội nghiệp cũng đã chết”, người quản lý nói. George Marshalson đã nhầm nhưng chưa đến mức quá nhiều. Tổng số tiền có trong tài khoản của Amber lên đến bảy mươi lăm bảng. Không có giao dịch phát sinh trong vòng hai năm qua và cũng không có rút tiền ra.
“Hoặc là cô ta không tin tưởng ngân hàng”, Wexford nói, “hoặc rất có khả năng cô ta chưa kịp ghé qua để gửi hai ngàn đó. Số tiền chắc phải phát sinh gần đây”.
“Cô ta đến Thái Lan nhưng nếu cô ta buôn bán mà không được trả tiền, thì đó có thể chỉ là một kỳ nghỉ đơn thuần.”
“Ý anh là, cô ta không chi trả cho bất cứ thứ gì bằng số tiền gửi vào tài khoản ngân hàng. Có thể cô ta đã thanh toán bằng tiền mặt rồi sử dụng nó. Có vẻ như cô ta và có thể là cả người bạn đã mang thứ gì đó tới Frankfurt - một trong những đầu mối chính của châu Âu là Frankfurt - rồi gặp ai đó ở đấy, người này mang nó, dù là gì đi chăng nữa, đến điểm cuối cùng. Khi cô ta về nhà thì sẽ được trả công.”
Wexford biết rõ về chất gây nghiện hơn bất kỳ nhân viên sở cảnh sát nào cùng cấp bậc không chuyên sâu về nó nhưng Burden đã trở thành chuyên gia, chủ yếu thông qua việc chỉ huy các chiến dịch càn quét lớn ở Kingsmarkham và các làng lân cận trong những năm qua. “Cô ta vận chuyển nó?”, anh nói. “Bằng hành lý hay mang nó trong người?”
Cái suy nghĩ việc ai đó nuốt một túi chất gây nghiện và thải nó ra ở điểm cuối của chuyến đi luôn lởn vởn trong đầu Wexford. “Lạy Chúa, tôi hy vọng là không.”
“Chúng ta đã có quá nhiều việc phải lo trong vụ này rồi. Tìm ra cô gái kia là ai. Có thể điều một con chó đánh hơi vào Clifton. Thẩm vấn tất cả bạn bè, thân thích của cô ta lần nữa.”
Trong phòng khách nhỏ nóng bức và ngột ngạt của mình, Hannah và Bal đã làm một việc mà Bal gọi thân mật là “cuộc tán gẫu nhỏ” với Henry Nash. Trong mắt cô, căn phòng trông giống như một phần của một bảo tàng về quá khứ. Mọi thứ bên trong, bao gồm cả chủ nhân của nó, đã có từ gần một thế kỷ trước và nhiều thứ còn cũ kỹ hơn. Vài cuốn sách, trong đó bao gồm một cuốn Kinh Thánh, bài thánh ca cổ xưa và hiện đại, được buộc bằng một sợi dây da đen đã mòn cùng các thể loại khác, với những tựa đề khó đoán màu đỏ thẫm và xanh đậm. Hai tờ in thạch bản đã ngả màu trên bức tường phía trên đầu ông Nash khắc họa các thiếu nữ có dáng vẻ đầy đặn trong trang phục váy Hy Lạp thời Victoria, rũ xuống trên những bình đựng di cốt. Tấm thảm theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ, cũ mòn và những chiếc ghế theo phong cách “lò sưởi”. Một cây đàn piano chiếm cả một góc nhà, bên trên để bản nhạc “Những đóa hoa chuông Scotland”.
Chiếc điện thoại, cố nhiên là cũng cũ kỹ gần bằng cái đàn piano hoặc bức tranh những thiếu nữ Hy Lạp, nhưng lại đem đến cho Hannah cảm giác được quay lại thập niên 50. Nó có màu đen, và thay vì bàn phím thông thường thì lại là bàn quay số kỳ lạ cô chưa thấy bao giờ. Bằng công cụ này, ông Nash đã gọi đến Cục Điều tra Tội phạm Kingsmarkham để thông báo mình có một thông tin quan trọng. Tuy nhiên hiện tại khi Hannah và Baljinder đã ở đây, dường như ông ta lại không có ý định đả động gì đến thông tin quan trọng đó cho tới lúc đưa ra một bài công kích chống lại vài khía cạnh của cuộc sống hiện đại. Cha mẹ đơn thân, chữa trị các bệnh về khả năng sinh sản, gọi đám người thất nghiệp là “những người đang tìm kiếm việc làm”, gian lận tiền trợ cấp, người ngoại quốc, đặc biệt là những người có ngoại hình và màu da khác mình, tất cả đều bị đem ra chửi rủa. Trong lòng Hannah cảm thấy oán thán, nhất là cho Bal, mặc dù anh ta không có mấy biểu hiện giống như “dân da đen” hay “mắt lé”, nhưng vẫn im lặng nhẫn nhịn và mỉm cười nhẹ nhàng.
Sự phẫn nộ của cô đã bốc hỏa đến đỉnh điểm. Cô cảm thấy da mặt mình rịn ra chút mồ hôi, một giọt chảy xuống ấm nóng và mặn chát trên môi. Là một người theo chủ nghĩa nữ quyền, cô biết rất rõ rằng mình phải nhẫn nhịn. Phải chăng cô không được quyền đổ nhiều mồ hôi như đàn ông? Nhưng cô cũng biết, giữa suy nghĩ và cảm xúc còn cách nhau một khoảng rất lớn. Cô có quyền đổ mồ hôi như một người đàn ông nhưng cô cảm thấy Bal sẽ nhận ra và thật khủng khiếp nếu những mảng ướt át xuất hiện trên chiếc áo trắng như tuyết của cô. Mất hết kiên nhẫn, cô cắt ngang lời ông Nash về chủ đề của truyền hình sau phần chuyển chương trình lúc chín giờ. “Ông nói rằng có một vài thông tin cho chúng tôi.”
Ông ta cau mày nhìn cô bất mãn. “Tôi đang nói chuyện với anh bạn trẻ này”, ông ta đáp trả lại cơn giận dữ của cô. “Mấy người không biết kiên nhẫn là gì cả.”
Bal nói, “Kiên nhẫn là một thứ xa xỉ, ông Nash. Chúng tôi không có nhiều thời gian”.
Thay vì lăng mạ nhóm dân tộc thiểu số năm phút trước và cho rằng mọi người có xuất xứ giống mình nên quay trở về với “căn nhà và cái máng lợn nơi họ thuộc về”, Henry Nash giờ đã nhìn anh bằng ánh mắt tôn trọng hơn. “Được thôi”, ông ta nói. “Các vị còn có công chuyện phải làm. Tôi biết công chuyện đó là gì, không giống như chuyện mà tôi có thể kể tên.” Ông ta né tránh ánh mắt của Hannah như thể ông ta là một nhà tu khổ hạnh còn cô là vũ công múa bụng. “Đó là thằng cha nhà bên cạnh. Hắn ta tên Brooks. John Brooks. Phải có đến hàng trăm người tên là John Brooks nhưng chính xác là gã đó.”
Tự dưng ông ta im lặng, Hannah hỏi, “Anh ta làm sao, thưa ông Nash?”.
Ông ta trả lời câu hỏi của cô nhưng lại nhìn vào Bal trong khi nói, như thể đáng nhẽ gã đàn ông kia nên hỏi câu này thay vì người phụ nữ. “Đêm nào hắn ta cũng ra ngoài”, ông ta nói kiểu hân hoan.
“Ra ngoài?”, Bal hỏi. “Ý ông ‘ra ngoài’ tức là sao? Vào thời gian nào? Ông đã nhìn thấy anh ta sao?”
“Tôi có nghe tiếng xe hơi của hắn. Hắn đỗ xe trên đường. Tại sao, anh không hỏi đại loại như, khi nào hắn đem về một tảng bê tông ở bên đường. Tôi sẽ nói cho anh biết. Bởi vì vợ hắn ngủ ở phía sau. Họ dùng phòng riêng nếu anh từng nghe qua điều này. Tôi ngủ ở đằng trước và khi hắn khởi động xe, tôi liền bị thức giấc.”
“Lúc mấy giờ, thưa ông Nash?”
“Bất kỳ lúc nào trong khoảng một, hai, ba giờ nhưng thường là tầm một giờ. Vợ hắn sẽ không nghe thấy từ dãy nhà phía sau ấy và cô ta sẽ không biết hắn đã rời đi. Đó là tác dụng của việc sử dụng phòng riêng. Không nghi ngờ gì là cô ta chẳng có đứa con nào cả. Cô ta kể rằng hắn hay ngáy ngủ. Vâng, tôi cược là hắn ngáy ngủ. Có phải hắn chủ tâm làm vậy để được một mình một phòng không?”
“Anh ta có ra ngoài trong cái đêm Amber Marshalson bị sát hại không?”
“Không biết. Tôi không thường xuyên tỉnh giấc, nếu tâm trí tôi không bị ảnh hưởng. Nếu như tôi không trở mình trằn trọc, suy nghĩ về tình hình thế giới.”
Cái ý nghĩ trở mình trằn trọc, trái ngược với hoàn toàn yên giấc, khiến một dòng mồ hôi nóng hổi lăn dài trên khuôn mặt Hannah. Cô có thể cảm nhận được nó trên thân thể mình, chảy dọc xuống giữa khe ngực. Cô bước ra ngoài, cảm thấy mình có thể ngất xỉu nếu ở thêm một phút nào nữa trong căn phòng nóng bức và ngột ngạt kia. Bên ngoài, dưới bóng râm, trời mát hơn và ít nhất không khí cũng trong lành hơn.
“Chúng ta phải nói chuyện với tay Brooks này”, cô nói, “và anh ta sẽ không về nhà cho đến khi trời tối. Nếu anh ta ra ngoài vào ban đêm, có thể anh ta đã nhìn thấy thứ gì đó nhưng tôi không thể xem anh ta là thủ phạm. Nếu anh ta muốn giết Amber, anh ta khó mà lên xe và trốn đi đâu được”.
“Không”, Bal nói, “lái xe bỏ trốn sẽ cho anh ta một cái cớ và anh ta có thể lẻn trở lại bằng cách đi bộ nhằm tạo chứng cớ ngoại phạm”.
“Tôi cho là anh ta có thể đã làm thế.”
Anh nhìn chằm chằm vào cô và cô đột nhiên nghĩ con người có “xuất xứ từ tiểu lục địa châu Á” theo cách cô gọi - cô sẽ không phản đối việc bản thân bị mô tả là “người da trắng - Celtic” - thường chỉn chu đến thế nào, như thể tất cả những bộ quần áo của họ đều mới vậy. Một mảng ẩm ướt chắc chắn đã xuất hiện trên vùng bụng cô.
“Cô có vẻ nóng quá đấy, Hannah.” Đây là lần đầu tiên anh gọi cô bằng tên thật thay vì gọi “trung sĩ”.
“Đi nào, tôi có soda trong thùng lạnh trên xe. Nó sẽ giúp cô hạ nhiệt.”
Những người bạn đã đi cùng Daniel Hilland trong chuyến nghỉ mát tại Phần Lan vẫn chưa trở về. Hình như họ đã tới, theo lời của Daniel là “Iceland hay Latvia hay đại loại thế” và cuộc tìm kiếm bọn họ đến giờ vẫn chưa thành công. Bằng chứng ngoại phạm của Ben Miller, theo lời kể của cậu ta là đã thả Amber ở cuối đường Myfleet vào lúc một giờ bốn mươi rồi về nhà mười phút sau, không thể xác minh được. Cả mẹ và chị cậu ta đều không nghe thấy tiếng chân cậu ta bước vào nhà. Cậu ta thường về muộn và được dạy là phải giữ im lặng, kể cả việc cởi giầy để ở chân cầu thang. Theo lời kể của bà Miller, “Nhưng tôi biết nó về nhà - nó còn có thể làm gì khác nữa?”, thì thà không kể còn hơn.
George và Diana Marshalson có bằng chứng ngoại phạm riêng rẽ, Diana mặc dù có những xung đột trong đời sống nhưng chưa đủ để cấu thành động cơ phạm tội, có thể thấy rằng ít nhất bà ta còn có lý do quan trọng nhất muốn Amber còn sống, rõ ràng không cần hoài nghi. Thêm nữa, Wexford chắc chắn rằng tình yêu của George dành cho đứa con gái còn nồng đậm hơn so với vợ ông ta và nếu bà vợ có ý định sát hại Amber, ông ta chắc chắn sẽ chẳng bao giờ che giấu tội ác của bà ta. Cuộc hôn nhân đó, và tình cảm mà các thành viên nhà Marshalson dành cho nhau, khiến Wexford thấy hứng thú. Anh bắt đầu tin rằng có vài lý do khiến cho tình yêu của George dành cho Diana đang dần phai nhạt, hẳn Diana đã làm điều gì đó. Nhưng chắc chắn không bao gồm việc sát hại đứa con duy nhất của ông ta.
Những chất cạo ra từ ngăn kéo trong phòng ngủ của Amber đã được phân tích và nó đúng như những gì Burden nghĩ. Đây là phương thuốc phổ biến để chữa trị bệnh nấm bàn chân. Vậy liệu anh có phải gạt bỏ giả thuyết về nguyên nhân tại sao Amber lại xuất ngoại hai lần trong năm nay không? Không hề.
Đã từ lâu, Wexford không còn sử dụng đồ uống đóng chai nhưng hiện tại, khi nhiệt độ lần nữa lên đến quá ba mươi độ, anh đang phải nốc từng cốc từng cốc một. Ngồi đối diện Hannah Goldsmith, giữa họ là một chai soda cùng một đống giấy tờ ngổn ngang trên bàn, anh nghe cô kể về John Brooks và sự cay độc của Henry Nash.
“Tôi sẽ quay lại đó”, cô nói, “khi anh ta về nhà”.
“Cẩn thận với những gì cô nói nếu người vợ đang ở đó.” “Tốt nhất nên đảm bảo xem cô ta có biết không, thưa ngài. Mối quan hệ sẽ trở nên giả tạo khi bạn đời không trung thực với nhau nữa.”
“‘Với nhau’ là những từ rất có hiệu lực trong câu nói đó”, Wexford nói. “Nhưng không phải để cô trung thực với họ và họ sẽ chẳng cảm ơn vì điều đó đâu.”
Lời khuyên của anh ít có ảnh hưởng tới Trung sĩ Goldsmith hơn mong đợi, người đang định tìm kiếm những ngôn từ thẳng thắn và thô lỗ để sử dụng với kẻ trăng hoa kia, gã Brooks bắt cá hai tay ngay trước mặt vợ mình, khi cô va phải Bal Bhattacharya ở tầng dưới, mát mẻ và chẳng phải mồ hôi nhễ nhại vì nỗ lực triệt để nhưng vô ích với hàng xóm của mẹ Ben Miller nhằm tạo ra bằng chứng ngoại phạm cho hắn ta. Phải chăng có gì đó trong cái tín ngưỡng cũ kỹ kia rằng những người da đen ít chịu ảnh hưởng của sức nóng hơn người da trắng? Cô cảm thấy máu chạy rần rần lên mặt, khiến cô nóng hơn bao giờ hết. Đây có lẽ là ý nghĩ phân biệt chủng tộc nhất mà cô từng có!
“Quay trở lại đường Mill, sau đó, Trung sĩ Bhattacharya ạ”, cô nói khá mạnh mẽ, quên đi cách anh gọi mình là Hannah khá thân mật sáng nay.
“Phải, tôi đang nghĩ đến việc hỏi thằng cha đó mà không khiến người vợ nghi ngờ.”
Lý lẽ của Hannah rằng nỗi hoài nghi của vợ Brooks sẽ sớm trỗi dậy, nhạt dần trên môi cô. “Đó cũng là cảm giác của anh, đúng chứ? Rằng chúng ta nên tiếp cận nhẹ nhàng một chút?”
“Ờ, đúng thế. Ý cô ‘cũng’ là sao? Ai đó cũng đưa ra chỉ dẫn tương tự à?”
“Sếp”, Hannah nói.
Chiếc xe hiệu VW màu đỏ của John Brooks đang đậu lù lù ở trên đường, nơi Henry Nash đã mô tả. Nhưng chẳng có ai ra mở cửa dù họ đã nhấn chuông và đập mạnh búa gõ cửa liên tục. Cửa trước mở rộng để đón gió mát, và Lydia Burton ra nói với họ rằng không có ai ở nhà cả. Nhà Brooks đã ra ngoài ăn mừng kỷ niệm ngày cưới. Họ đi bằng taxi mười phút trước và đến một nhà hàng ở Myringham.
“Để John có cơ hội được uống rượu, các vị biết mà”, Lydia Burton nói.
“Thật kinh khủng”, Hannah nói khi cô ra khỏi tầm nghe, “làm thế nào lại tồn tại những kẻ hai mặt như vậy nhỉ. Ăn mừng kỷ niệm ngày cưới vào buổi tối và ôm ấp một người đàn bà khác vào ban đêm, bởi vì bản chất của hắn ta là như thế”.
“Chưa tệ bằng giết người”, Baljinder nói và sau đó với giọng của một sĩ quan cấp trên, “‘Ôm ấp’ không phải là một từ dễ chịu mà một phụ nữ đẹp có thể nói ra”.
Nếu có ai đó ở vị trí của Bal khiển trách cô như vậy, Trung sĩ Goldsmith sẽ tổng xỉ vả vào mặt gã ta, nhưng cho dù được gọi là xinh đẹp, điều đã xoa dịu cô hay đơn giản là vẻ đẹp và phong cách không thể chối cãi của Bal - cô không rõ - cô chỉ im lặng, nhìn anh, hy vọng anh sẽ mỉm cười và bất thình lình anh cười thật.
“Đi thôi, Trung sĩ”, anh nói. “Có một quán rượu trên con đường này tên là Lamb and Flag. Tôi sẽ đưa cô đến đó và mời cô đồ uống.”
Anh đang nghĩ đến việc về nhà. Sylvia đã đi có việc, để lại đám nhóc cho chị mình. Lương tâm đang vấn tội anh về cuộc gặp gỡ cuối cùng của họ. Anh đã cư xử không tốt với Sylvia (mặc dù còn đỡ hơn Dora) và con bé không làm gì cả, cũng chẳng định bào chữa cho điều đó. Khi nhìn thấy con gái, anh đã muốn làm lành với nó, dĩ nhiên không thay đổi quan điểm của mình nhưng sẽ nhẹ nhàng và tỏ ra cảm thông hơn. Anh nên hãnh diện, nên tự hào, anh tự nói với bản thân, rằng những cô con gái của anh sẽ để ý đến những gì bố chúng nói. Con gái người khác, theo những gì anh thấy, đều không quan tâm đến quan điểm của bố mình.
Nhiệt độ đang hạ xuống. Anh đến bên cửa sổ và nhìn dọc theo Kingsmarkham tới phía tây, nơi những ánh mặt trời còn sót lại dần chìm vào những khoảng hẹp giữa những đám mây gần như đen kịt. Một đàn chim sáo đá bay lên từ những cánh đồng nước ngọt ở Kingsbrook và xuất phát theo đội hình hoàn hảo qua những ngọn cây. Anh nghe thấy tiếng mở cửa sau lưng, quay lại và thấy Burden.
“Tôi đang nghĩ đến việc về nhà”, anh nói.
“Anh có thể sẽ nghĩ lại khi nghe những gì tôi sắp nói. Một cô gái khác đã mất tích. Cô ta hai mươi mốt tuổi, làm việc tại cửa hàng lưu niệm ở High Street gọi là Gew-Gaws. Cô ta sống cùng với bạn trai ở một căn hộ bên trên cửa hàng. Cô ta tên là Megan Bartlow.”
“Bartlow, Bartlow… Tôi đã nghe thấy cái tên này ở đâu rồi nhỉ? Thực sự là gần đây tôi có nghe đến...”
Burden phớt lờ anh. “Chúng ta không có lý do gì để nghĩ rằng có bất kỳ mối liên hệ nào giữa cô ta và Amber Marshalson. Cô Bartlow này hóa ra không bị tổn hại gì. Đây là một kế hoạch tinh ranh, không ai biết chính xác cô ta mất tích khi nào hay cô ta có thể đi đâu hoặc thậm chí có phải đơn giản chỉ chạy theo một gã khác. Bạn trai cô ta và người mẹ đang ở tầng dưới. Họ đến trình báo cô ta mất tích. Tôi không biết nhưng nếu anh muốn thì...”
“Tôi nhớ rồi”, Wexford cắt ngang. “Bartlow không phải là một cái tên phổ biến. Anh đã sai khi nghĩ rằng không có lý do gì để liên hệ cô ta với Amber Marshalson. Amber có hai người bạn là chị em gái của nhau. Lara và Megan Bartlow.”