Thay vì phỏng vấn trong những căn phòng ảm đạm khác, Trung sĩ Camb đã đưa họ vào “căn phòng gia đình” mới lập ra ở đồn cảnh sát Kingsmarkham. Căn phòng này, theo lời của Wexford, được ra đời từ ý tưởng của Hannah Golsmith và sự ủng hộ thật lực của Cảnh sát trưởng. Một kho lưu trữ những tài sản thất lạc, có diện tích chưa đến 12 x 10 feet, chỉ có duy nhất một cửa sổ gác mái nhỏ, nhưng lại được bù đắp vào không gian trống vắng và bí bách bằng những đồ nội thất trang trí sinh động. Tấm thảm dệt thô màu xanh ngọc bích đậm, ba chiếc ghế bành nhỏ nhắn có ba màu khác nhau và cái thứ tư thì có sọc xanh vàng. Một bức tranh đủ lớn để che phủ mặt tường chủ yếu pha trộn giữa màu đỏ san hô và đỏ thẫm mà theo mô tả của Wexford, nó trông giống một lò mổ vào giờ đóng cửa chiều thứ Bảy. Anh đã gợi ý Cảnh sát trưởng rằng những hộ nộp thuế hội đồng ở Kingsmarkham nên được mời đến tham quan nơi này để chiêm ngưỡng thứ họ đã phải trả tiền. Trong khoảnh khắc, anh thấy mình đã quá nghiêm túc.
Anh thấy bạn trai của Megan Bartlow và mẹ cô ta đang ngồi cạnh nhau, anh ta ngồi trên ghế màu vàng còn bà mẹ ngồi trên chiếc màu đỏ, đối diện với bức tranh trải dọc theo một cái bàn bằng nhựa trắng, chất đống những phụ trương màu mè cũ kỹ từ những tờ báo Chủ nhật. Không ai trong số họ làm xáo trộn thứ tự ngăn nắp đó, căn phòng gia đình trông như thể được sắp đặt bởi một người nổi tiếng (một gã dân địa phương hiện đang chơi cho Manchester City). Hai người kia có vẻ bằng tuổi nhau, đều gần năm mươi. Mẹ của Megan là một phụ nữ gầy gò, hốc hác với mái tóc nhuộm vàng xõa quá vai và khuôn mặt được trang điểm lộng lẫy như kiểu đồ nội thất với cùng một sắc thái. Người bạn trai - một loại “con rể theo thông luật”, như Wexford đã nói với Burden lúc trước - ăn vận trông giống kẻ côn đồ thế kỷ XXI trong lễ hội hóa trang. Tóc anh ta màu xám, dài và buộc đuôi ngựa. Anh ta đeo cả tá khuyên xỏ trên vành một bên tai và một cây Thánh giá bằng bạc hay kim loại màu trắng treo lủng lẳng giữa phần tam giác của bộ ngực lông lá màu xám lộ ra sau chiếc áo vest trắng bẩn thỉu. Những hình xăm dữ tợn màu đỏ, đen và xanh bông cải bao phủ cả cánh tay. Anh ta mặc cái quần bó sát với vài vết sờn ở viền và hai lỗ rách trên hai đầu gối ở ống quần.
Wexford nói một cách lịch sự, “Chào buổi tối”, và hỏi tên của họ.
Mẹ của Megan dường như đã quên béng cái họ Bartlow từ lâu và không nhớ nổi nữa. “Lapper, Sandra Lapper”, bà ta nói và rồi, “Ôi lạy Chúa, không phải. Tôi bị mắc chứng mau quên. Là Warner vì tôi đã kết hôn với Warner tuần trước. Thật ngốc nghếch!”.
“Tên tôi là Keith. Keith Prinsip.”
Người đàn ông có khuôn mặt đen thui, nhăn nheo với một cái miệng rộng nhưng môi mỏng và đôi mắt ti hí bên dưới hàng mi trông như cái mũ có màu nho đen. Anh ta tựa vào ghế, một chân vắt chéo lên đầu gối bên kia, mím môi và huýt sáo không ra tiếng với chính mình. Bà Warner lục lọi trong một chiếc túi xách màu đen trang trí bằng nhiều dây đai lẫn khóa mạ vàng và đưa ra một bức ảnh được bọc trong giấy bóng. Burden tiếp nhận bức ảnh, xem xét kỹ rồi đưa qua Wexford. Vẻ ngoài của Megan giống như hiện thân cho sắc đẹp của tuổi trẻ, mũi to và cằm nhỏ. Cô ta có một mái tóc vàng rất dài và thẳng, với phong cách trang điểm giống hệt bà mẹ.
“Bà có một cô con gái nữa tên là Lara phải không, thưa bà Warner?”, Wexford hỏi.
“Làm sao anh biết?”
Cảnh sát sẽ chẳng bao giờ trả lời những câu hỏi như vậy. “Hãy kể cho tôi chuyện gì đã xảy ra.” Wexford nhìn từ người này sang người khác, không có ý định chỉ ra ai trong số họ là người phải kể. Sandra Warner nhìn Keith Prinsip và Prinsip lại tiếp tục huýt sáo không ra tiếng nhưng chẳng nói câu nào. “Được thôi”, Wexford nói. “Vì anh và cô Bartlow sống cùng nhau, anh Prinsip, có lẽ anh nên nói.”
“Cha tôi đã chết”, Prinsip bắt đầu nói. “Tôi phải tới đó để tham dự lễ tang và khi đến đó, ông thấy đấy, tôi đã ngủ lại nhà em gái tôi, người cha tôi sống cùng, được chưa?”
Gắng kiềm chế để không thốt lên rằng chuyện đó chẳng “được” tẹo nào, Wexford hỏi anh ta “tới đó” là tới đâu và thời điểm anh ta đang nói đến.
Giống như bao người khác cùng cảnh ngộ, Prinsip dường như không thể hiểu ra hoàn cảnh của gia đình anh ta cũng như chi tiết về cuộc sống hằng ngày của anh ta không nên nói ra cho bàn dân thiên hạ biết. Anh ta hỏi một cách ngờ vực, “Brum, phải nó không? Đúng rồi, Burmingham, phải không? Nơi tôi sinh ra, nơi cha tôi đã sống. Không phải hôm qua. Tôi muốn nói là ngày hôm kìa và đêm hôm kia”. Anh ta nỗ lực một cách tuyệt vọng. “Hình như cha tôi mất vào thứ Bảy. Tôi đến đó vào thứ Hai và đám tang tổ chức vào thứ Ba. Tôi quay trở về vào thứ Tư. Đó là ngày hôm qua. Đúng ngày hôm qua không, Sandra?”
“Không nghi ngờ gì là cậu đang bấn loạn, Keith ạ.” Sandra Warner nói với Wexford, “Cậu ta đến đó vào ngày Ba mốt tháng Tám và quay lại vào hôm qua”.
“Cô Bartlow không đi cùng anh à?”
“Meg chưa bao giờ hòa hợp với gia đình tôi. Em gái cô ấy và em gái tôi, chúng đánh nhau như chó với mèo ý.”
“Vậy anh đã rời đi vào lúc mấy giờ ngày thứ Hai? Và lúc đó Megan đang ở đâu?”, Burden hỏi. Đây là một công việc khá khó khăn. Nếu tin tưởng vào người đàn ông này thì họ sẽ ở lại đây cả đêm. “Bà Warner?”, anh hỏi.
“Cậu đi lúc chín rưỡi, phải không Keith? Thế thì lúc đó Megan đang ở cửa hàng. Nó mở cửa lúc chín giờ. Đúng không Keith?”
Wexford để ý rằng những câu đó phải được chính miệng Prinsip nói ra, bằng không chúng đều vô giá trị. Anh chờ đợi trong khi bà Warner nhắc cậu ta lần nữa.
“Cậu đã chào tạm biệt nó và nói rằng nếu Kath muốn cậu ngủ lại qua đêm thì cậu sẽ gọi nó và nó sẽ xuống trông cửa hàng.”
“Megan làm việc tại cửa hàng Gew-Gaws à?”
“Đúng vậy”, Prinsip nói, khuôn mặt giãn ra. Anh ta cố gắng lần nữa. “Cô ấy làm việc cho Jimmy Gawson. Tôi đã gọi cô ấy khoảng sáu lần vào ngày thứ Ba nhưng cô ấy tắt máy.”
“Anh có thử cố gọi cho cô ta bằng cách nào nữa không? Ý tôi là”, Burden nói, nhận ra người nghe đang chẳng hề để tâm, “anh có cố thử lại không?”.
“Có nhưng vô tác dụng.”
“Cậu đã gọi cho tôi, Keith. Rất muộn vào tối thứ Ba, hình như là nửa đêm. Cậu có biết Lee đã nói gì không? ‘Rằng Keith muốn nhớ ra là chúng ta mới cưới nhau’, ông ấy nói.
‘Theo những gì cậu ta biết, anh có thể đang làm chuyện ấy.’” Sandra Warner cười rít lên. “Hãy nghe tôi. Tốt hơn tôi nên giữ mình. Có Chúa mới biết chuyện gì đã xảy ra với Megan và tôi đã cười ra nước mắt.”
“Tôi gọi cho Sandra như tôi đã kể vào ngày tiếp theo vì tôi rất lo lắng.” Lúc này Keith Prinsip không cần nhắc nhở gì nữa. “Ý tôi là, cô ấy có thể đi đâu chứ? Tôi quay trở về từ Brum vào tầm giờ ăn tối ngày hôm qua, trong khoảng mười hai giờ đêm đến một giờ sáng, và không thấy tăm hơi cô ấy đâu cả.”
“Không thể nào, Keith. Con bé chắc chắn phải ở cửa hàng.”
“Cô ấy không có ở đó, Sandra.” Cuộc phỏng vấn trở thành cuộc đối thoại giữa hai người bọn họ. “Điều đầu tiên tôi làm là đi xuống đó. Jimmy, chủ cửa hàng, đã hỏi, ‘Megan đâu rồi?’. Câu đầu tiên anh ta nói với tôi như vậy. ‘Megan đâu rồi?’”
“Keith quay lại chỗ chúng tôi và đi ăn tối cùng Lee. Chúng tôi nói rằng, ý tôi là bao gồm cả Lee, chúng tôi sẽ đợi thêm một ngày nữa, và nếu con bé không xuất hiện, chúng tôi sẽ... ừm, chúng tôi không biết nhưng chúng tôi sẽ phải làm gì đó.”
Wexford và Burden nhìn nhau, cả hai rơi vào im lặng vì những thông tin lặp đi lặp lại và hoàn toàn vô nghĩa này. Thực sự thì Sandra Warner còn nhớ lại thông tin có ích hơn một chút. Wexford hỏi bà ta rằng con gái bà ta, Lara, có sống cùng nhà với bà ta không và hai chị em họ có hòa thuận không.
Trong khi đó, Burden đi lấy một mẫu đơn trình báo người mất tích.
“Anh muốn biết về đứa con gái khác của tôi để làm gì? Lara không bị mất tích, ơn Chúa.”
“Cô ta là bạn của cô gái đã chết, Amber Marshalson”, Wexford nói, không thể tránh được phải giải thích.
“Không thể nói là bạn được. Không phải bạn.” Bà Warner trông như bị xúc phạm. “Là bạn bè, tôi chắc chắn với bà là thế.” Wexford không có tí chắc chắn nào về việc anh nói là đúng nhưng anh đã nói gần gần như vậy. “Cô ta và Amber đã đến Frankfurt cùng nhau.”
Là dự cảm hay điều tra, điều thứ nhất anh gần như đoán đúng nhưng điều thứ hai hoàn toàn sai. “Không phải Lara. Là Megan. Và nếu con bé làm vậy thì sao chứ?” Sandra Warner nhanh chóng phản bác lại. “Đó không phải là phạm pháp, đúng không? Tôi thậm chí còn không biết cái đấu trường đẫm máu ấy ở đâu. Một nơi nào đó dùng tiền Euro chăng.”
Đó có thể là phạm pháp, Wexford tự nói với bản thân. “Tôi muốn nói chuyện với Lara vào ngày mai. Cô ta đi làm lúc mấy giờ?”
“Con bé không đi làm. Hình như nó đang học chương trình đại học. Trường Stowerton Business, đó không phải là trường đại học, chỉ là cao đẳng thôi.”
“Tôi sẽ gặp lại bà và cô ta vào ngày mai. Đến lúc đó, chúng ta có thể đã có chút thông tin về Megan.”
Burden quay lại với mẫu đơn và đứng nhìn hết người nọ đến người kia, không biết ai sẽ khai vào đây.
“Đưa cho tôi”, Sandra nói. “Đưa cho Keith chẳng nước non gì đâu. Cậu ta quên kính ở nhà rồi.” Bà ta nháy mắt lia lịa với Burden khi anh giải thích tín hiệu này như ám chỉ Keith không có khả năng đọc. Bản thân Keith chẳng hề thể hiện sự xấu hổ vốn có của việc thất học nhưng lại tiếp tục huýt sáo, lần này thì không im tiếng nữa mà là một giai điệu mơ hồ và nhẹ nhàng của bài “Can’t Buy Me Love”.
Đã muộn. Wexford chào tạm biệt Burden và đi bộ chậm rãi về nhà. Megan đã chết, anh có dự cảm chắc chắn như vậy và nhận thức này khiến cuộc phỏng vấn kia chỉ giống như một trò hề - điều mà nếu đặt trong hoàn cảnh khác thì anh sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến. Cô ta chết vì có quen biết với Amber Marshalson, cụ thể hơn là vì cô ta có liên quan đến chuyến đi mà Amber hoặc cả hai người họ, một lúc nào đó trong cuộc hành trình, đã thảo luận chuyện tiết lộ danh tính những người đã trả tiền cho mình. Hoặc là, anh sửa lại giả thuyết này, Megan đã đe dọa khai ra những người phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Amber. Rất có khả năng là vậy. Không ai đến Frankfurt vào ngày nghỉ. Người ta chỉ đến đó vì hội thảo, gặp gỡ đối tác hay chuyển máy bay. Amber và Megan đã đến đó để vận chuyển cái mà họ, hoặc một người trong bọn họ, buôn lậu sang Đức, có thể, là tới Viễn Đông.
Dường như không có gì có thể ảnh hưởng đến bộ óc đần độn của Keith Prinsip - một cái tên Serbia, tên các sát thủ của Thái tử Ferdinand - nhưng anh nghĩ một cách kinh hoảng về tác động của nó lên Sandra Warner vui tính, rõ ràng đang hạnh phúc với cuộc hôn nhân mới của mình, khi mà điều tồi tệ nhất vẫn chưa xảy đến với bà ta. Nó sẽ khiến bà ta bị tổn thương một cách toàn diện.
Anh về đến nhà và nhìn thấy xe của Sylvia đậu bên ngoài. Rất vui - anh không thể ngăn cảm xúc này - nhưng cũng thất vọng, anh tự nhủ với bản thân phải thoải mái hơn với con bé, phải đối xử tốt với nó, không trách cứ thêm nữa. Anh đi vào đại sảnh và nghe thấy âm thanh không mấy chào đón, không phải từ Sylvia hay vợ anh. Trong khoảnh khắc, anh không xác định được nhưng vẫn mở cửa, đi vào và bắt tay với Naomi Wyndham, người có lẽ anh đã từng gặp một lần trước đó. Cô ta là một phụ nữ mảnh mai, nhỏ nhắn khoảng tầm ba mươi lăm tuổi với mái tóc đỏ dài có thể khiến Rossetti xuất khẩu thành thơ. Có cái gì đó khiến Wexford thấy khó chịu trước sự thân mật giữa những người vợ cũ với bạn gái hiện tại hay giữa người chồng cũ với người tình một thời của vợ, nhưng khi xem xét lại cảm xúc của mình, anh phải thừa nhận rằng sự bất hòa và giận dữ sẽ trở nên nặng nề hơn nhiều.
Dora cảm thấy điều đó mạnh mẽ hơn anh. Dường như cô từ chối con gái và tất cả những ai có liên quan đến nó. Khi Wexford đi vào, cô đang nói với Sylvia bằng một giọng lạnh tanh rằng cô nên quay lại và làm hòa với người phụ nữ đang ngồi cạnh Ben và Robin. Cô khó mà hiểu được, cô nói, tại sao Sylvia lại thay đổi ý kiến khi có liên quan đến vấn đề và chi phí thuê người giữ trẻ. Với anh, cô đã trở nên thật gay gắt. “Naomi rõ ràng quá để tâm đến đứa trẻ sơ sinh, Reg, đến nỗi mà cô ta trông chừng Sylvia một cách đầy sở hữu. Kiểm tra xem liệu con bé có uống bất kỳ chất có cồn nào và có uống hết vitamin không?”
Sylvia có vẻ không hài lòng, gần như nổi đóa.
“Cô xem đấy, tôi không thể ngừng tưởng tượng bản thân mình đang mang đứa bé”, Naomi nói. “Ý tôi là, tôi biết không phải thế nhưng cứ giả vờ như thế. Sylvia cảm thấy nó đạp - chà, con bé hoặc thằng bé - cô sẽ không biết trước giới tính của nó, tôi không biết tại sao - và tôi tưởng tượng là mình cảm nhận được nó. Chà, còn hơn cả tưởng tượng, mà thực sự là thế. Sáng nay, tôi thực sự cảm thấy đôi chân của đứa bé đang đạp nhẹ nhàng.”
Sylvia nói bằng giọng không hài lòng chút nào, “Tưởng tượng cũng được. Nhưng cô không thể cảm thấy nó. Cô không biết nó như thế nào đâu”.
“Tôi biết quá rõ điều đó, Sylvia, và đấy là bi kịch của tôi. Nhưng tôi chuẩn bị chào đón nó bằng cách cố gắng cảm nhận những gì cô cảm nhận. Khi cô đi đẻ, tôi thề rằng mình sẽ rất đau đớn.”
“Những người chồng ở vùng biển phía Nam cũng vậy”, Wexford nói. “Họ vào một túp lều và mô phỏng các cơn đau của vợ. Người ta gọi đó là ốm nghén thay vợ.”
“Đáng yêu làm sao”, Naomi thổ lộ. “Tôi sẽ ốm nghén thay cô khi đến lúc.”
“Tại sao tất cả chúng ta không uống chút gì đó nhỉ?”, Wexford vội vàng nói, mong Sylvia sẽ từ chối.
Con bé làm anh ngạc nhiên với một lời chống đối, “Con sẽ uống một ly vang trắng, thưa bố. Naomi sẽ kiêng cho con, vì vậy cô ấy có thể lái xe đưa con về nhà”.
Sau khi họ rời đi, anh đặt lưng xuống ghế bành bên cạnh những cửa sổ phòng khách mở toang. Một làn gió nhỏ ùa đến, lần đầu tiên trong nhiều tuần qua. “Có lẽ thời tiết đang thay đổi”, anh nói. Cốc bia lạnh trên tay làm anh hồi tưởng, một cách kỳ cục, về niềm vui được nắm chặt một cái máy tản nhiệt trong một ngày tuyết rơi tháng Một. “Nếu mình là Sylvia, cô gái đó sẽ làm mình điên mất.”
“Cô ta sẽ bù lu bù loa lên việc giờ cô ta đang ốm nghén hộ và chính anh đã gợi ý điều đó cho cô ta”, Dora nói.
“Neil đâu rồi?”
“Cố gắng hết sức để không xen vào chuyện này nếu cậu ta có chút nhận thức nào.”
Sau đó anh nằm trên giường bên cạnh Dora, đắp một phần chăn, nghĩ về cô gái đã chết và một cô gái khác có thể cũng đã chết cùng số tiền mà vì nó, họ đã phải trả một cái giá quá đắt.
Sáng sớm là thời khắc tuyệt vời khi thời tiết rất dễ chịu và sức nóng đã tan đi từ nhiều giờ trước. Hannah từng được dạy ở trường là tại sao sương đọng trên cỏ vào những buổi sáng thế này nhưng cô đã quên mất những gì mình học được. Trong một đợt hạn hán kéo dài như vậy, cô thấy lạ là ở đây lại có nhiều nước tưới cho đám cỏ vệ đường đến thế, những giọt lấp lánh kết thành chuỗi ngọc trai dọc theo thanh rầm ở cổng nhà Brooks.
Xe của Brooks đậu sát lề đường và có một màn sương mờ trên kính chắn gió. Vẫn chưa đến bảy giờ sáng.
Cô đi một mình, với ý định cứng rắn - một ý định rất không thích hợp cho một trung sĩ thám tử đầy tham vọng - rằng cô không thể lôi Bal dậy vào giờ này khi anh đã mua cho cô hai ly Camparis và soda vào buổi tối hôm trước, nhịn uống rượu để tỉnh táo đưa cô về nhà rồi chia tay cô bằng một nụ hôn nhẹ nhàng lên má. Cô có thể gọi cho Brooks nhưng sau khi đã gọi vài lần vào nhiều ngày trước đó, cô chắc rằng một cái máy trả lời tự động sẽ nói chuyện với cô chứ chẳng có ai hồi âm cả. Cô bấm chuông cửa nhưng không thấy ai ra. Cô liên tục gõ cửa, bấm chuông lần nữa và lần này một thanh niên với mái tóc xoăn ướt tối màu cùng khuôn mặt trẻ con hiện ra ở cửa.
Anh ta cầm một chiếc khăn tay và đang lau đầu, nói, “Cô là ai? Sao lại đến giờ này?”.
“Trung sĩ thám tử Goldsmith, thưa anh Brooks.”
Hannah chìa thẻ công vụ ra và đặt một chân vào ngưỡng cửa. “Tôi muốn nói chuyện với anh và anh đúng là một người khó gặp.”
“Cô muốn nói chuyện với tôi bây giờ ư? Tôi đang chuẩn bị đi làm.”
“Tôi cần nói chuyện với anh về một vấn đề cấp bách.” Cô có thể thấy giọng mình lạnh lẽo và sắc bén dần. “Bây giờ thì tốt nhưng nếu không thể, tôi đề xuất một cuộc hẹn để nói chuyện này càng sớm càng tốt. Tôi sẽ để anh chọn địa điểm vào lần gặp tới. Theo thông tin chúng tôi nhận được, anh có sở thích lái xe ra ngoài vào ban đêm - cụ thể là vào nửa đêm hoặc trước bình minh.”
“Bịa đặt.”
“Tốt thôi, nhưng chúng ta cần nói chuyện về vấn đề này. Tôi nghĩ là vào lúc bảy rưỡi tối nay.”
Anh ta không nói gì, gật đầu, sau đó nhún vai. “Anh Brooks?
“Ồ, được thôi. Mặc dù lúc đó không tiện lắm.”
“Tiện cho tôi”, Hannah nói và quay trở lại xe. Cô lái xe tới ngã tư và đợi, giả bộ như đang đọc sổ tay. Năm phút sau, xe của Brooks chạy vụt qua, hướng về phía Kingsmarkham.
Lara Bartlow rất coi trọng khóa học về kỹ năng kinh doanh của mình ở trường Bách khoa Stowerton. Trong phòng khách của căn hộ thuê chung cùng với Sandra cho đến khi Lee Warner chuyển đến, cô đang cho những tập tài liệu và sách vào trong cặp thì Wexford và Trung sĩ Goldsmith đến. Không thấy Warner đâu, chắc ông ta đang ngủ. Mùi nồng của thịt lợn xông khói chiên lan ra khắp căn hộ. Lara ăn vận theo phong cách công sở, một bộ com lê đen với áo sơ mi trắng và giày đế bằng “tinh tế”. Cô ta dùng giọng điệu của sinh viên năm thứ sáu đang đợi chứng chỉ A Level. Nếu cô ta đã đi cùng Amber trong kỳ nghỉ mát, anh sẽ ít ngạc nhiên hơn nhưng đi cùng Amber lại là người chị, bạn gái của Keith Prinsip.
Thực sự thì, kỳ nghỉ đã kết thúc rồi, đúng không? Đi công tác thì hợp lý hơn.
“Tôi không muốn đến trễ”, cô ta nói ngay từ đầu. “Chúng tôi sẽ đưa cô đến trường, cô Bartlow”, Hannah nhấn mạnh để trấn an cô ta. “Đây không phải là xe cảnh sát.”
Không lạ gì với cảnh sát, anh chắc chắn, gia đình Bartlow-Lapper-Warner trước giờ đều có những cô gái có một khoảng thời gian sống ngoài vòng pháp luật như: trộm ít đồ, thỏa thuận gian lận lừa đảo, lái xe không có bảo hiểm, đại loại vài thứ như vậy. Đối với Lara, cảm giác được tôn trọng có lẽ bao gồm cả việc không phải nhìn thấy những phương tiện kẻ caro xanh lam và đỏ hạc của Sở mật vụ Mid-Sussex ở bất cứ đâu trong vùng lân cận. Tuy nhiên, có lẽ anh là người không công bằng. Cô gái này giản dị, theo cách nói cổ điển là đi lên bằng nỗ lực của bản thân. Anh hỏi bằng cách nào cô ta biết Amber Marshalson.
“Chúng tôi học cùng nhau.” “Ben Miller cũng thế à?”
“Đúng vậy, có cả tá những kẻ đua đòi xung quanh đây nhưng Amber không về phe nào cả. Nếu không có vẻ ngớ ngẩn trong thời đại ngày nay, cô ấy sẽ được vú em của tôi gọi là một quý cô thực thụ. Trái tim tôi đau nhói khi biết chuyện đã xảy đến với cô ấy.”
“Tôi nghĩ thông qua cô”, Wexford nói, “cô ta đã gặp chị cô là Megan?”.
“Vâng, đúng thế. Một đêm, chị ấy đến câu lạc bộ Bling- Bling cùng tôi và Amber cũng ở đó. Chỉ có chị ấy thôi, không có Keith.” Cô ta ngập ngừng rồi nói tiếp, “Xem này, Megan sẽ ổn nếu chị ta bỏ gã kia”.
Cô ta sẽ tránh xa anh ta bắt đầu từ bây giờ, Wexford nghĩ thầm. “Cô không quan tâm đến anh ta à?”
“Một kẻ hèn hạ vô công rồi nghề”, Lara nói một cách thù địch. “Hắn ta dụ dỗ chị ấy. Hắn ta khiến chị ấy làm những thứ mà trong mơ chị ấy cũng không dám làm lúc còn ở cùng mẹ con tôi.”
“Những thứ kiểu gì?”
“Nếu ông muốn biết, đi mà hỏi chị ấy. Tôi sẽ không kể gì về chị mình. Và tôi phải đến trường - bây giờ.”
Khi họ đi ra xe, sức nóng đã bắt đầu lan tỏa, nhiệt độ chắc chắn sẽ tăng lên, không khí vẫn yên bình, những chiếc lá cây trên vỉa hè rung rinh. Thời gian ban đêm không đủ dài hoặc không khí ban đêm không đủ ẩm để chúng hồi sinh được.
Hannah hỏi tiếp, “Tại sao chị cô và Amber đến Frankfurt?”. “Đừng hỏi tôi. Có thể đó là một chuyến bay giá rẻ hoặc cái gì đó.”
“Cô nghĩ chị cô hiện đang ở đâu, Lara?”
“Bỏ đi cùng ai đó chị ấy đã gặp và rời xa Keith, tôi hy vọng thế.”
“Suy nghĩ một cách nghiêm túc”, Wexford nói, “cô có nghĩ cô ta sẽ làm thế và không liên lạc gì với cô hay mẹ cô không?”.
“Chúng ta đến nơi rồi. Đây là trường tôi.” Lara ra khỏi xe, Wexford lưu ý, theo cái cách mà phụ nữ hiếm khi thể hiện vào thời đại này nhưng lại rất quý phái. Hai đầu gối cô ta ép sát vào nhau, hai chân đưa ra khỏi chỗ ngồi, đặt xuống đất và đứng dậy, tất cả mọi chuyển động đều duyên dáng. “Nghe này, có thể chị ấy sẽ làm vậy. Ý tôi là, chị ấy không hề nói với tôi về một gã khác nhưng đó là cách chị ấy quen Keith. Chị ấy đang gặp gỡ một gã tử tế và điển trai nữa, wow, giống như Jude Law vậy và rồi đến một ngày, chị ấy... chà, biến mất. Hóa ra, ồ, bốn hoặc năm ngày sau đó đều có Keith theo sau. Chị ấy nghỉ làm một tuần và tự đến Brighton để tìm kiếm anh ta và đem anh ta về. Đó là chuyện từ ba năm về trước.”
Họ nhìn cô gái bước vào tòa nhà qua các bậc tam cấp, một tuýp con gái thừa tự tin để biết mình đang đi đâu và làm cách nào để đến đó.
“Giờ thì chúng ta bắt đầu tìm kiếm chị cô ta thôi”, Wexford nói.