Người phụ nữ bước ra từ căn nhà khi họ lái xe đến đang bế một đứa trẻ tầm một tuổi trên tay. Chánh thanh tra Reginald Wexford và Trung sĩ thám tử Hannah Goldsmith tự giới thiệu bản thân rồi người phụ nữ nói, “Ông ấy đang ngủ. Bác sĩ đã tiêm cho ông ấy một liều thuốc an thần”.
“Tôi muốn nói chuyện với bà”, Wexford nói. “Bà là bà Marshalson?”
Bà ta gật đầu. Wexford chưa từng biết đến trường hợp một người cha tìm thấy thi thể bị sát hại của con gái mình, cũng không bao giờ nghĩ đến việc thấy một người cha mất con nằm sõng soài qua xác của cô ấy. Anh cũng có con gái nhưng anh không thể tưởng tượng được bản thân mình sẽ thế nào khi ở trong tình huống của George Marshalson.
Khi người đàn ông này được thuyết phục, và được đưa về nhà, các chuyên viên pháp y đã đến. Các phóng viên cũng đến, cả những nhân viên đội điều tra hiện trường và toàn bộ những ai có liên quan đến hiện trường án mạng. Về phần mình, Wexford cần phải ghi nhận điều duy nhất rằng cô ta còn rất trẻ, vẫn còn ở tuổi thiếu niên, rất xinh xắn, và nguyên nhân dẫn đến cái chết là bởi một cú đánh bạo lực vào đầu bằng một viên gạch hoặc mảnh nề.
Anh thẩm vấn người đưa báo đã tìm thấy ông ta và cô bé, sau đó anh cùng Hannah đi xuống phố về phía Clifton, ngôi nhà của gia đình Marshalson. Cái nóng mà họ đã quen thuộc đến nỗi dần thấy nó bình thường bị giam lại bên trong. Mọi người có thể cảm thấy nhiệt độ đang tăng lên. Bầu không khí trở nên ngột ngạt và nặng nề vào buổi trưa. Một vài tia sáng le lói qua những tán cây chi chít lá xanh vắt xuyên qua đường Mill.
Vườn trước của Clifton không có hoa lá gì, chỉ có ít cây bụi và cỏ úa vàng. Cánh cửa trước của ngôi nhà bật mở và người phụ nữ bước ra trước khi họ nói chuyện. Chính xác một cách thận trọng đến mức Wexford cảm thấy buồn cười, Hannah nói với anh bằng giọng điệu tử tế và nhẫn nại cô thường sử dụng khi nói chuyện với anh, “Đó chắc là bạn đời của ông ta”.
“Rất có thể là vợ của ông ta.”
Hannah tặng anh một cái nhìn mà cô dành cho một gã đàn ông trung niên vẫn gọi người phụ nữ hắn cưới là vợ. Sau đó, bà Marshalson dẫn họ vào trong nhà và thả thằng bé trên tay xuống. Chưa biết đi, nó chỉ bò trên sàn gỗ bóng loáng, bập bẹ, “Mẹ, mẹ”.
Diana Marshalson không buồn chú ý đến đứa trẻ. “Mời ngồi. Tôi không biết mình có thể kể được gì với hai người.
Khi quay trở lại, ông ấy chẳng nói năng gì cả. Ông ấy thực sự bị sốc.” Biểu hiện của họ hẳn phải nói cho bà ta về điều cả hai đang hiểu lầm. “Ồ, tôi không phải mẹ con bé. Tôi là vợ hai của George.”
Wexford đã nghiên cứu để phát hiện dấu hiệu của vẻ hài lòng trên khuôn mặt Trung sĩ thám tử Goldsmith và trong những gì cô chắc hẳn sẽ gọi là ngôn ngữ cơ thể của bà ta. Anh nhìn họ lúc này, biểu hiện ở khẩu hình miệng, sự thả lỏng ở đôi vai thường xuyên căng cứng của bà ta. Những điều được Diana Marshalson thể hiện đã tiết lộ rằng bà ta là mẹ kế của cô gái đã chết. Hannah thích thú với mối quan hệ phức tạp của gia đình này. Trong suy nghĩ của cô, họ đại diện cho sự tự do và quyền tự quyết. Một đám trẻ con, Wexford nghĩ, mỗi đứa lại có một người cha khác nhau và một số không cùng mẹ, tất cả đều sống dưới một mái nhà với bốn hoặc năm người lớn không liên quan sẽ là lý tưởng đối với cô.
Họ đi vào một phòng khách rộng rãi, cửa sổ kiểu Pháp rộng mở. Anh đã biết rằng gia đình Marshalson là những nhà thiết kế nội thất, dựa vào studio của Marshalson, Thiết kế và Phục hồi, ở Trung tâm Kingsbrook của Kingsmarkham nhưng anh cũng có thể biết mà không cần ai phải nói. Nhà của những người như vậy luôn luôn không thể nhầm lẫn, xinh đẹp, thể hiện gu thẩm mỹ hoàn hảo, các đồ trang trí vừa phải và không quá nhiều, màu sắc đích thị là những gì người ta sẽ chọn nếu tặng chúng như những món quà, và đồng thời mất đi vẻ ấm cúng, không phải là nơi mà ở đó, người ta thích cuộn mình lại với một cuốn sách cùng một ly rượu vang. Wexford ngồi xuống chiếc ghế sofa màu xám sẫm, Hannah ngồi trên một chiếc ghế bành màu xám nhạt, Diana Marshalson ngồi trên một chiếc khác, trông như thể có xuất xứ từ một cung điện ở Mandalay. Khuôn mặt điêu khắc của các vị thần tức giận trừng mắt từ lưng dựa cao có hình vòm.
“Điều gì đã khiến chồng bà ra ngoài vào sáng nay vậy, thưa bà Marshalson? Thời gian chính xác là vào lúc nào?”
“Tôi không biết”, bà ta đáp. “Tôi đang ngủ. Ông ấy đã vô cùng lo lắng khi con bé ra ngoài cả đêm. Tôi nghĩ ông ấy nhận ra con bé chưa về nhà.”
“Ông ấy ra ngoài để tìm cô bé à?”, Hannah tỏ vẻ hoài nghi. “Tôi nghĩ vậy. Ông ấy có thể đã nghĩ rằng - ồ, hoặc là con bé không có ở đó hoặc là điều gì đấy khủng khiếp đã xảy ra. Nhưng tôi không biết. Ông ấy đã ra ngoài. Tôi tỉnh dậy khi thằng bé khóc. Đó là vào lúc sáu rưỡi.” Bà ta như thể chỉ để ý đến tiếng khóc. “Tôi phải đi xem George thế nào. Hai người vui lòng đợi tôi một phút nhé? Tôi sẽ quay lại sớm nhất có thể.”
Khi bà ta ra ngoài thì thằng bé bò vào phòng, xoay xở đứng lên bằng cách bám vào cạnh của một chiếc bàn được dát trông như thể làm bằng gỗ mun và một số gỗ vàng nhạt. Thằng bé rất kháu khỉnh, làn da màu ô liu nhưng đôi má hồng hào, tóc đen xoăn và mọc thành từng vòng mà chỉ có thể nhìn thấy ở những đứa trẻ còn rất nhỏ.
“Xin chào”, Wexford nói. “Tên cháu là gì? Để chú đoán nhé. James phải không? Jack à? Cái tên phổ biến nhất hiện tại là Archie, người ta bảo chú thế.”
“Nó còn quá nhỏ để hiểu những gì anh nói đấy.” Cưỡng lại thôi thúc muốn nói với cô là anh biết điều đó, anh đã có hai đứa con và bốn đứa cháu, anh nhẹ nhàng nói rằng những đứa trẻ thích mọi người nói chuyện với chúng, chúng thích âm thanh và cả sự chú ý. Không quan trọng dù bạn nói gì đi chăng nữa. Hannah khẽ nhún vai, cử chỉ yêu thích của cô. Diana Marshalson, anh nghĩ, nhìn đủ trẻ để làm mẹ của đứa trẻ này nhưng chỉ vừa đủ mà thôi. Có lẽ bốn mươi lăm hay bốn mươi sáu tuổi, người vợ thứ hai có lẽ chưa từng kết hôn trước đó và muốn sinh một đứa con trước khi quá muộn. Anh thực sự khâm phục vẻ ngoài của bà ta. Cao, ưa nhìn, tóc đen với vóc dáng đầy đặn là gu của anh. Vợ anh cũng là một người như vậy.
Bà ta quay lại. “Ông ấy ngủ rồi. Đây có lẽ là điều tốt nhất cho ông ấy, mặc dù tôi sợ khi ông ấy tỉnh lại. Ông ấy sẽ phải tỉnh dậy vào lúc nào đó. Ông ấy rất yêu thương Amber. Con bé chỉ mới mười tám tuổi. Chuyện gì đã xảy ra?”
“Còn quá sớm để kết luận”, Hannah trả lời. “Cô ấy đã chết. Cô ấy bị tấn công. Thực sự đó là tất cả những gì chúng tôi biết.”
Thằng bé cố gắng trèo vào lòng của Diana Marshalson. Trong mắt Wexford, bà ta dường như kéo nó lên một cách mệt mỏi và không mấy nhiệt tình. “Amber ra ngoài vào tối hôm trước à? Lúc đó là mấy giờ và cô ta đã đi đâu?”
Mẹ kế của Amber cẩn thận lựa chọn từ ngữ. “Con bé đến câu lạc bộ. Tới một địa điểm gọi là Bling-Bling ở Kingsmarkham. Khoảng tám rưỡi đến chín giờ, tôi nghĩ vậy. Nghe thật kinh khủng, tôi biết, nhưng bọn trẻ luôn như thế. Đứa bạn đưa nó về nhà đã thả nó xuống ở cuối đường Mill. Trước đây đều như vậy, con bé đến câu lạc bộ thường xuyên và luôn chẳng có vấn đề gì.” Thằng bé đã túm được chuỗi ngọc trai bà ta đang đeo và bắt đầu giật mạnh. “Không, Brand, không được làm thế.” Bà ta cạy ngón tay thằng bé ra. “Amber đang đợi để lấy kết quả A level. Con bé vừa mới tốt nghiệp. Nghe này, chồng tôi đã ngủ rồi nhưng tôi nghĩ tôi phải ở đó với ông ấy. Chăm sóc cho ông ấy, hai người biết mà. Phòng khi ông ấy tỉnh lại. Tôi không thể rời xa ông ấy lâu hơn nữa.”
“Chúng tôi chỉ muốn…”, Hannah bắt đầu nhưng Wexford đã ngăn lại. “Chúng tôi sẽ quay lại vào hôm khác, thưa bà Marshalson.
Khi đó, có lẽ bà hoặc chồng bà có thể cho chúng tôi biết tên của bạn bè hay một số thông tin về bản thân Amber. Chúng tôi sẽ không làm phiền bà nữa.”
Diana Marshalson bế cắp nách thằng bé và ở lại đủ lâu để mở cửa cho họ.
“Chúng ta có thể có được tên của bạn cô bé, anh biết mà, thưa ngài”, Hannah nói. “Trông bà ta không giống như mẹ của một người phụ nữ.
Mặc dù anh biết điều này thực tế đã trở thành thông lệ được chấp nhận trong lực lượng cảnh sát trên khắp cả nước, Wexford rất không thích bị gọi là “ngài1”. Lúc này, anh không mong được gọi là “sếp2” và hầu như vẫn muốn cô gọi anh bằng tên thánh của mình hơn là cách gọi tắt khó chịu kia. Khi lần đầu cô gia nhập đội của anh, anh đã nhẹ nhàng yêu cầu cô đừng gọi thế, nhưng rốt cuộc mọi chuyện vẫn tiếp diễn như thể anh chưa nói gì cả. Nếu cô có bất cứ biểu hiện nào thiếu tôn trọng anh, anh đã có lý do để quở trách cô, nhưng cô lại không như vậy và sẽ không bao giờ. Anh chắc chắn rằng cô thích, thậm chí ngưỡng mộ anh - ngoại trừ cung cách và từ ngữ nói chuyện theo kiểu cổ lỗ sĩ của anh.
1 Nguyên văn: Guv (ngài, ông chủ).
2 Nguyên văn: Sir (sếp).
Hiện giờ cô đang lặp lại những gì mình đã nói vì anh không trả lời. “Bà ta có thể đã rất gắn bó với cô bé”, anh nói. “Chúng ta không biết cô bé đã ở cùng mẹ kế bao lâu rồi. Có thể từ khi Amber còn là một đứa trẻ.”
Quay trở lại hiện trường, Hannah không nói thêm câu nào nữa. Cô cảm thấy khó chịu khi Wexford sử dụng từ “cô bé”. Amber là một phụ nữ, cô ấy đã mười tám tuổi. Anh ta sẽ phải học thêm về cách dùng từ ngữ chuẩn xác, cô nghĩ, hoặc thế giới đang thay đổi từng ngày này sẽ bỏ lại anh ta phía sau mất. Vào một ngày khác, cô đã nghe anh nói về “người ta” khi anh định nói là “cộng đồng”.
Thi thể đã được chuyển đi. Vẫn còn một vài nhân viên mặc cảnh phục đứng trên bãi cỏ, nửa tá xe cộ chen chúc ở lối vào của con đường và nhân viên khám nghiệm hiện trường căng những dải băng màu xanh và trắng xung quanh vị trí xác của Amber. Sĩ quan Karen Malahyde đang đứng cạnh một phụ nữ tầm bốn mươi tuổi mặc quần jean và áo phông trắng.
“Đây là cô Burton, thưa sếp. Cô ấy sống ở một trong những căn hộ đối diện. Cô ấy đã ra ngoài tối qua và trở về nhà lúc nửa đêm.”
“Lydia Burton”, người phụ nữ tự giới thiệu. “Tôi sống ở số ba dãy nhà Jewel. Tôi ra ngoài với một người bạn. Anh ấy lái xe đưa tôi về và sau khi anh ấy về, tôi dắt chó đi dạo. Không lâu lắm, anh biết đó. Nhưng anh vẫn phải dắt chúng đi dạo, nếu không chúng sẽ làm bậy.”
Cô ta nhìn có vẻ dễ thương hơn là xinh đẹp, với làn da hồng hào và mái tóc xoăn, khuôn mặt không trang điểm trừ một ít mascara chuốt trên hàng mi dài. Đôi bông tai bạc hình mặt một chú chó đung đưa, cho người khác cảm giác cô ta là một người sống tiết kiệm.
“Ồ, vâng, dĩ nhiên rồi”, cô ta trả lời khi được anh hỏi xem cô ta có biết Amber Marshalson không. “Tôi là giáo viên chủ nhiệm ở trường Tiểu học Brimhurst. Amber đã học ở đó hai hay ba năm khi cha cô bé chuyển đến Brimhurst.”
“Cô đã nhìn thấy cô ta tối qua phải không?” “Ước gì tôi đã nhìn thấy.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Tôi e là mình không phải một người giỏi quan sát.”
Hannah Goldsmith không thích nghe người khác kể chuyện, đặc biệt là phụ nữ, việc này hạ thấp giá trị bản thân của chính họ. Có lẽ đó là dấu hiệu của sự thiếu tự trọng. Hiển nhiên mọi người đều công nhận một sự thật rằng ai cũng đáng giá như ai. Tất cả đều có những kỹ năng và sở trường của riêng mình, và mỗi thứ chỉ duy nhất thuộc về con người của chính cô (hoặc chỉ có thể là chính anh). “Cô dắt chó đi dạo lúc mấy giờ? Mười hai giờ ba mươi à?”
“Tôi nghĩ vậy. Tầm đó. Lúc đó đường rất tối vì bóng cây che mất và tôi không mang theo đèn pin. Có chút ánh trăng và tôi đi theo hướng ngược lại, lên đường Myfleet, có lẽ đi được hai trăm thước.” Mét, Hannah nghĩ, mét thì đúng hơn. Tại sao mọi người tốn nhiều thời gian để học thế nhỉ? “Khi tôi quay lại - ý tôi là ở ngã tư đường Mill - tôi đã nhìn thấy một người đàn ông. Anh ta đứng giữa những cái cây, chỗ đó.” Lydia Burton chỉ vào đám cây nơi thi thể của Amber Marshalson được tìm thấy. “Cảnh đó thật sự làm tôi sốc. Anh ta quay lưng lại phía tôi. Tôi không nghĩ là anh ta nhìn thấy mình. Tôi băng qua đường. Tôi chỉ mong về tới nhà - ý tôi là, nhìn thấy người đàn ông đó làm tôi muốn trở về nhà.”
“Cô có thể mô tả lại anh ta không, cô Burton?”
Hannah lắc đầu sốt ruột. Tại sao Wexford không thể nhớ phải nói là “bà”? “Tôi không nhìn thấy mặt anh ta. Anh ta đội mũ trùm đầu. Ý tôi là, anh ta mặc một chiếc áo lông cừu có mũ trùm đầu. Ừm, hầu hết những người trẻ tuổi đều mặc chúng. Tôi không nghĩ anh ta còn trẻ. Anh ta không phải là một cậu bé.”
“Cao hay thấp? Gầy hay mập? Và bao nhiêu tuổi?” “Hơi cao”, cô ta nói. “Khá gầy. Tôi ước gì mình có thể nhớ được nhiều hơn. Nhưng mọi người luôn nói vậy, đúng không? Tôi không nghĩ anh ta còn trẻ, mặc dù tôi không biết diễn tả như thế nào. Bốn mươi tuổi, tôi nghĩ vậy. Ít nhất là bốn mươi.”
“Thật tiếc vì cô không thể nhớ được gì hơn”, Hannah nói. “Cô không nhìn thấy Amber ư? Không, tôi nghĩ là không. Cô có biết cô ta hay đến câu lạc bộ không?”
Wexford ước gì Hannah có thể đưa ra giọng điệu ít chỉ trích hơn. Cô là một phụ nữ xinh đẹp trong mắt nhiều gã đàn ông, cao, thon thả, với khuôn mặt của thánh nữ El Greco và mái tóc bồng bềnh đen nhánh, nhưng anh tự hỏi liệu cô có đi đến các câu lạc bộ hay từng ra ngoài vào lúc mười một giờ đêm hay không, dĩ nhiên là trừ những ngày trực.
“Tôi thực sự không biết”, Lydia Burton nói. “Tôi chưa từng gần gũi với Amber. Chúng tôi chỉ chào hỏi khi nhìn thấy nhau.” Wexford hỏi cô ta về những người sống ở các căn hộ khác tại dãy nhà Jewel. “Ông già sống ở nhà số một là ông Nash, sau đó là vợ chồng Brooks tại nhà số hai, mà mọi người vẫn gọi là John và Gwenda.”
Họ nhìn cô ta quay trở vào căn nhà đầu tiên trong dãy, một căn hộ gọn gàng như các căn hộ khác, lát gạch đỏ với mái đá. Khu vườn phía trước của cô ta là một bãi cỏ nhỏ hình vuông được bao quanh bởi những bụi cây oải hương; một trang trại trồng hoa hướng dương rất lớn của ông Nash, cao ba mét với những đóa hoa mặt trời hướng lên trên; nhà Brooks thì nằm trọn trong khuôn viên hình chữ nhật của hàng rào được tỉa tót kỹ càng. Buổi sáng đã trở nên rất nóng với nhiệt độ khác thường tại Anh, không khí nặng nề và ánh nắng mặt trời đốt nóng hơi ẩm ở bất cứ nơi nào nó xuyên tới. Hannah Goldsmith nhìn Wexford đang bình tĩnh hơn bao giờ hết, làn da mịn màng tái nhợt của cô trắng như tuyết mùa đông, không một sợi tóc xổ ra khỏi nếp.
“Cô có thể bắt đầu từ dãy nhà Jewel, Hannah”, anh nói. “Trước khi những người ở đây đi làm. Hãy đưa Baljinder đi cùng.”
Họ tạo thành một cặp đôi tuyệt đẹp, anh nghĩ vậy, khi Hannah và DC3 Bhattacharya băng qua con đường, người phụ nữ nhìn thật thon thả, mái tóc bồng bềnh buông xuống như một thác nước, và người đàn ông cao ráo, không thể nói là gầy, mái tóc cắt ngắn đen tựa màn đêm của anh khiến tóc cô trông như có màu nâu. Lý lịch của họ phần nào cũng giống nhau, chuẩn mực, cổ điển, thuần là người da trắng. Họ có thể là anh trai và em gái, có lẽ là con của một người cha từ Iran và một người mẹ từ Iberia.
3 Detective Constable: Thám tử cảnh sát.
Suy nghĩ xem khu vực này đã thay đổi ra sao trong khoảng thời gian ngắn kể từ vụ án của Simisola, khi chỉ có không quá mười hai người dân tộc thiểu số, anh cùng Karen Malahyde bước trở lại chiếc xe của mình, nơi Donaldson đang ngồi chờ sau vô lăng.
“Một ngày nóng bức đây, Jim.”
Donaldson nói, “Vâng, thưa sếp”, theo một cách lạnh lùng, đáp lại lời bình luận vô cùng nhạt nhẽo này với sự dửng dưng mà nó xứng đáng.
“Anh biết đấy, tôi không nghĩ là mình đã từng đến đây. Ý tôi là, tới Brimhurst.”
“Đây không phải nơi mà anh có thể đến nếu như anh không quen biết một ai đó. Tất cả những gì có ở đây chỉ là hàng loạt các ngôi làng và nhà thờ, và tất cả đều bị khóa chặt kể từ khi vị cha xứ bỏ đi. Cửa hàng đã đóng cửa từ mười năm trước.”
“Làm sao anh biết tất cả những điều này?”
“Mẹ tôi sống ở đây”, Donaldson nói. “Người ta thích nó bởi vì nó yên tĩnh. Không có chuyện gì xảy ra cả - ồ, cho đến lúc này.”
“Không. Anh có thể bật điều hòa lên được không?”
Công cuộc khám nghiệm tử thi đối với anh không mấy hứng thú nhưng anh vẫn tham dự để mong tìm ra bất kỳ manh mối nào có thể. Thám tử điều tra Burden dễ tính hơn anh và bị lôi cuốn bởi công việc pháp y. Họ ngồi nhìn và xem xét hoặc, trong trường hợp của Wexford, giả bộ xem xét, trong khi các chuyên gia pháp y giải phẫu cơ thể của Amber Marshalson và kiểm tra vết thương khủng khiếp ở đầu cô, chỗ bị tấn công bởi một số vật nặng. Anh hỏi thời gian tử vong và câu trả lời là trong khoảng từ nửa đêm cho đến ba giờ sáng. Và chính xác hơn nữa thì cô ta không tự sát.
“Hung khí là một viên gạch, tôi nghĩ vậy”, Carina Laxton nói, “nhưng dĩ nhiên anh sẽ chẳng để tâm đến những gì tôi nói”.
“Dĩ nhiên rồi”, Burden nói vì anh không ưa cô ta. Ngoài việc thiếu một đốt sụn ở tuyến giáp và cái tên của cô ta, như anh đã từng nói với Wexford, thì cô ta chắc hẳn cũng là một người đàn ông, hoặc có lẽ cô ta đã từng là đàn ông. Thời đại này, bạn chẳng thể nào biết được điều đó. Cô ta không có ngực, không có mông, tóc húi cua và không trang điểm tí xíu nào trên khuôn mặt mộc. Tuy nhiên, anh phải thừa nhận rằng cô ta đã làm rất tốt trong công việc, ít sắc sảo và thô lỗ phổi bò hơn Mavrikian, và thái độ của cô ta thì khác xa với kiểu tự cao tự đại của ngài Hilary Tremlett.
“Cô ta chết bởi một đòn giáng vào đầu, mà không nói anh cũng biết”, cô ta nói. “Dĩ nhiên xác định loại hung khí”, cô ta nói với vẻ cứng nhắc lỗi thời không che giấu sự kiêu ngạo, “không phải là công việc của tôi. Chắc chắn anh cần đến sự hỗ trợ của một chuyên gia về gạch”.
“Một gì cơ?”
“Một chuyên gia về gạch.” Carina nói một cách chậm rãi trong trường hợp anh thấy khó hiểu những từ ngữ đơn giản.
“Dĩ nhiên rồi”, Burden nói.
“Bởi vì gạch không đơn thuần là gạch, anh biết đấy.” Ngay khi đã bỏ lại những lời đó để Burden tự hiểu, Carina nói, “Không có dấu hiệu xâm hại tình dục. Tất cả sẽ nằm trong bản báo cáo. Cô ta đã từng sinh con, và tôi mong là anh biết điều đó”.
“Tôi không biết điều này”, Wexford nói với vẻ ngạc nhiên. “Cô ta chỉ mới mười tám tuổi.”
“Anh có tưởng tượng ra điều này có nghĩa là gì không, Reg?” Carina Laxton lắc đầu với anh và mím môi. “Nếu cô ta mười hai tuổi thì điều này rất đáng để xem xét. Còn đây là ‘Chỉ mới’ mười tám tuổi.” Brand, anh nghĩ. Mình đã nghi ngờ. Nó là con của Amber chứ không phải của Diana? Và đó là Brand trong Ibsen hay Brand trong Brandon? Anh nói với Burden, “Đến văn phòng của tôi, Mike, sau đó chúng ta có thể quay trở lại đường Mill và cùng tới gặp gia đình Marshalson.”
Họ đã làm việc như một nhóm bất cứ khi nào có thể và đặc biệt khi Wexford cảm thấy rằng ở công ty của Hannah Goldsmith thêm một hoặc hai tiếng đồng hồ nữa sẽ khiến anh nói ra những điều mà anh phải hối tiếc. Họ lên xe, cả anh và Mike. Nếu họ không thể hoàn toàn nói ra tất cả những điều xuất hiện trong đầu mình cho nhau, họ sẽ chia sẻ nhiều nhất có thể. Anh thích Mike hơn bất kỳ ai anh biết ngoài vợ, con cái và cháu chắt của mình - và có lẽ không hoàn toàn ngoài họ. Đối với bảy người anh yêu thương và không ai biết rõ hơn anh rằng thích và yêu là hai chuyện khác nhau.
Lên tới văn phòng mình, nơi có tấm thảm màu xám mới tinh - một món quà tạ ơn từ những người trả thuế hội đồng ở Kingsmarkham - và hai chiếc ghế bành màu vàng vốn là tài sản riêng của anh, Burden chọn chỗ ngả lưng quen thuộc của mình trên một góc chiếc bàn bằng gỗ hồng mộc. Cái món đồ gỗ nội thất to lớn này cũng thuộc về Wexford, người đã để nó ở đó cùng với những chiếc ghế bành nhằm đối phó với giới truyền thông địa phương khi họ sục sạo xung quanh để tìm kiếm những bằng chứng về sự hoang phí và tham nhũng của cảnh sát. Burden luôn ăn vận một cách tinh tế dạo gần đây đã chọn những trang phục theo xu hướng “thoải mái nhưng lịch thiệp”. Những bộ cánh đẹp đã được chuyển về phía sau tủ quần áo, hoặc trong trường hợp đã cũ, thì về cửa hàng từ thiện, và vị thám tử điều tra thường xuất hiện với một chiếc quần jean cùng áo da lộn khoác bên ngoài một chiếc áo phông trắng mở cổ. Một trong những điều sâu kín trong tâm trí Wexford mà anh không thể nói ra ngoài đó là chỉ một số ít bạn bè cho rằng Burden đã luống tuổi để mặc thứ quần jean này. Nhưng chỉ có một số ít nói vậy và sự thật là Burden đủ gầy để mặc chúng mà vẫn làm toát lên vẻ trang nhã.
Anh trải những thứ tìm thấy trong túi áo khoác của Amber Marshalson lên trên bàn. Miếng vải cotton trắng thấm đẫm máu này đã được đem tới phòng thí nghiệm, cùng với chiếc váy ngắn màu hồng, bộ áo lót màu đen và thắt lưng da màu hồng pha đen của cô. Những thứ trong túi của cô được trải lên mặt bàn làm việc bằng da màu đỏ sậm.
“Họ không có túi xách nữa”, Wexford nói.
Burden đang nhìn chằm chằm vào một chiếc chìa khóa cửa trước móc vào chiếc nhẫn khảm mặt khớp với đồng hồ của cô ta, một ống nhựa trong suốt chứa một chất màu hồng tươi, có lẽ là một loại son môi, một bao có hai điếu thuốc lá, một thanh socola đã chảy mất một nửa vẫn còn gói trong giấy bạc, và một bao cao su. Vẫn còn chút giả bộ, anh hướng ánh mắt về thứ cuối cùng và mím chặt môi.
“Méo mó có hơn không”, Wexford nói.
“Điều này còn tùy thuộc xem cô ta định làm gì vào tối hôm đó. Cô ta không mang theo đồng nào à?”
Wexford mở ngăn kéo và lấy ra một túi nhựa trong suốt có ghi chú bên trong. Khá nhiều ghi chú và tổng cộng lên tới năm chục cái.
“Vẫn còn phải kiểm tra dấu vân tay nữa”, anh nói. “Phải có đến một ngàn pound ở đây. Trong túi áo khoác bên phải của cô ta có một chiếc chìa khóa và cái ống nhựa kia, tôi tin rằng nó là một loại son bóng. Dụng cụ tránh thai, thuốc lá và kẹo nằm ở túi áo bên kia.”
“Cô ta lấy từ đâu ra một ngàn pound này vậy?” “Đó là điều chúng ta phải tìm ra”, Wexford nói.