Chiếc xe rẽ vào đường Mill. Dọc theo vệ cỏ, những cảnh sát mặc cảnh phục - không có áo khoác và mũ - đang sục sạo ở con mương và bãi cỏ phía bên kia hàng rào để tìm hung khí. Các dải băng cảnh báo trải dài dọc theo mép vỉa hè đã cô lập khu vực này. Phía bên kia đường, một ông già đang đứng giữa khóm hoa hướng dương, chống gậy, nhìn chằm chằm vào đoàn người đang tìm kiếm.
“Trời đã khô ráo quá lâu rồi”, Wexford nói. “Hung thủ có thể đã đậu xe ở bất cứ đâu dọc theo mép vỉa hè này mà không để lại chút dấu vết nào.”
Ngôi nhà được gọi là Clifton dường như nằm giữa đám cây và bụi cây im lìm, thụ động một cách lạ kỳ. Trông nó giống như đang nghỉ ngơi, cửa chính đóng chặt, hẳn các tòa nhà đang phải gánh chịu sức nóng dữ dội. Sự tỉnh táo sẽ được khôi phục lại cùng với cái lạnh tê tái của mùa đông rét buốt. Những cánh cửa sổ được mở tung nhưng không nhìn thấy một ai cả. Họ rời khỏi không khí mát mẻ trong xe để rồi được chào đón bởi cái nóng hầm hập, mặc dù lúc này đang là chiều muộn.
“Có cảm giác giống như vừa bước xuống máy bay khi đi du lịch đến Hy Lạp vậy”, Wexford nói. “Anh không tin được đâu, cảm giác thật tuyệt. Cứ như thể là vào giữa đêm ấy. Nhưng chúng ta đâu có được những đêm ấm áp ở đây đâu. Tại sao lại thế nhỉ?”
“Ai mà biết được. Tôi mong dòng Vịnh có thể làm được điều gì đó. Hầu hết các loại gió đều thế.”
“Dòng Vịnh làm gió ấm lên chứ không phải lạnh đi.” Lúc này, họ không bắt gặp một ai cả. Wexford bấm chuông cửa và Diana Marshalson ra mở cửa. Thằng bé lại xuất hiện cùng bà ta, nó có thể đứng được nếu cố bám vào một bên quần thõng xuống của bà ta.
“Tôi cứ tưởng thằng bé là con bà”, Wexford nói. “Nhưng Amber mới đúng là mẹ đứa trẻ, phải không?” “Tôi tưởng là mình đã nói với các anh rồi.”
Cả Wexford và Burden đều không đáp lại câu nói đó. “Brand là tên gọi tắt hay chính là tên của thằng bé?”
Bà ta nhăn mặt, chun mũi và trề môi. “Tôi e rằng đó là tên nó. Nhưng mà, xem trong số những cái tên hiện giờ, như vậy là không tồi, đúng không? Chồng tôi tỉnh rồi. Anh ấy sẽ nói chuyện với các vị - nhưng hãy nhẹ nhàng với anh ấy, được không? Anh ấy đã có một cú sốc tồi tệ rồi.”
Bà ta đưa mọi người đến phòng khách lớn, nơi ông chồng đang nằm trên chiếc ghế sofa xám, tựa lưng vào mấy chiếc gối màu xám trắng. Wexford nhận ra ông ta chưa đến sáu chục tuổi. Với mái tóc bạc lưa thưa bao xung quanh phần đỉnh đầu hói, cùng với khuôn mặt hóp lại và bụng chảy xệ, ông ta trông già hơn nhiều. Dĩ nhiên còn phải xem xét nhiều thứ. Ông ta vừa mới hứng chịu một sự mất mát đau thương. Khi những viên cảnh sát đi vào, ông ta xoay đầu, ánh mắt hướng về thằng bé.
“Lạy Chúa tôi, thằng nhóc giống y hệt con bé”, ông ta nói. “Bằng tuổi này, con bé cũng giống thế.”
Ông ta đang cầm trong tay một bức ảnh được đóng khung. Ông ta đẩy nó sang phía Wexford. “Thằng bé không phải là bức tranh sống của mẹ nó sao?”
Wexford nhìn vào khuôn mặt giống như của một vị thánh trẻ trong bức hình. “Đúng. Đúng như vậy. Thằng bé thực dễ thương.” Anh nói thêm, “Cô ấy thật đẹp”. Biểu cảm trên khuôn mặt của Diana Marshalson làm anh giật mình. Nếu để anh mô tả nó thì anh sẽ gọi là sự ghen tức. Dĩ nhiên gần đây bà ta đã nghe khá nhiều lời nhận xét về sắc đẹp của Amber và vẻ ngoài ưa nhìn của thằng bé Brand.
Anh tự giới thiệu bản thân, với ngữ khí cảm thông. “Ông đã cảm thấy sẵn sàng để trả lời vài câu hỏi chưa, thưa ông Marshalson?”
“Ồ, vâng. Tôi phải làm thế, tôi biết mà.”
“Đây là Thám tử điều tra Burden, nhân viên cấp cao trong đội của tôi. Thưa bà Marshalson, bà không phiền để chúng tôi nói chuyện riêng tầm khoảng mười lăm phút chứ và sau đó tôi sẽ tới nói chuyện với bà, nếu còn có thể.”
Bà ta nhấc Brand lên và một lần nữa đặt thằng bé trên hông bên phải của mình. Wexford thấy cách bế trẻ con này thật quá thuận tiện đối với phụ nữ nhưng lại rất khó khăn cho một người đàn ông, không giống ôm hay cõng, tư thế này không đòi hỏi biểu lộ quá nhiều cảm xúc. Thằng bé ngồi ở đó, không thể áp má nó vào má bà ta hay bà ta cũng không ôm nó quá gần ngực mình. Thằng bé có nhớ mẹ nó không? Chắc có. Trong khả năng của mình, nó đã phải hỏi mẹ mình đang ở đâu. Sau đó, Wexford nhớ rằng buổi sáng nay, thằng bé đã nói, “Mẹ, mẹ”.
“Sao anh không ngồi xuống đây?”, Marshalson nói bằng giọng không cảm xúc.
“Cảm ơn ông. Tôi xin lỗi vì phải hỏi ông vài điều vào lúc này nhưng đây là bất khả kháng. Ông nghĩ con gái mình về nhà lúc mấy giờ tối qua, thưa ông Marshalson?”
“Tôi để nó tự do, không quản thúc giờ giấc cụ thể nào cả. Tôi biết nó đã đi nhờ xe về nhà. Để tôi nghĩ, có lẽ con bé về nhà lúc hai giờ.”
Wexford cố gắng kiềm chế không để sự bực bội toát ra bên ngoài. Burden thì ngược lại và tỏ rõ thái độ. “Điều này có xảy ra thường xuyên không?”
“Amber đã tốt nghiệp hệ cao đẳng. Con bé đã thôi học ngay sau khi kết thúc chương trình học A level. Nó quay trở lại trường học sau khi sinh thằng nhóc Brand.” Giọng nói của ông dao động và đứt quãng, và ông phải hắng giọng. “Đã có kết quả của chương trình học A level của nó. Họ đã gửi thư đến vào sáng nay, ba điểm A và một điểm B. Con bé đã có thể vào Oxford.” Nước mắt tràn ra và đọng lại trên khóe mắt ông. “Tôi nghĩ... tôi nghĩ con bé đã rất khó chịu khi không được ra ngoài để chơi bời sau những gì nó đã phải trải qua.”
“Đã trải qua?” Wexford ném cho bạn mình một cái nhìn cảnh báo nhưng Burden không để ý.
“Ý tôi là việc có thai, sinh con. Chia tay với bạn trai. Tôi phải gọi hắn là thằng sở khanh. Kẻ phá hoại.”
“Đó có phải là cha của đứa bé không, ông Marshalson?” “Vâng, đúng vậy, ngoài hắn thì còn ai vào đây nữa”, Marshalson lên tiếng bảo vệ đứa con gái quá cố. “Tôi tin là hắn đã cưỡng hiếp con bé. Vâng, đó là… là lần đầu tiên - nhưng tôi nghi ngờ còn nhiều lần khác nữa.”
Giá mà các vị phụ huynh biết điều này…
“Chúng tôi có thể biết tên hắn ta không?” Burden đang gằn giọng để che lấp sự gắt gao trong giọng nói, Wexford có thể nhận thấy rõ điều đó. “Hắn ta là người ở đây à?”
“Hắn tên là Daniel Hilland và là sinh viên trường Đại học Edinburgh nhưng dĩ nhiên là hắn ta sẽ không còn ở đó nữa, đó là một hành trình dài. Cha mẹ hắn sống ở đây, ở Little Sewingbury, tôi có lưu số của họ ở đâu đó.”
“Đừng lo, thưa ông. Chúng tôi sẽ tìm hắn. Giờ thì tôi có thể hỏi một chút về những người bạn Amber gặp tối qua không? Và người đã đưa cô ấy về. Nếu chúng tôi có thể có được tên tuổi của họ, chúng tôi sẽ để ông được yên.”
“Được yên ư?” Marshalson thốt lên và tuôn một tràng dài. Nước mắt trào ra và giọng ông ta run run. “Được yên ư? Tôi không thể nhớ nổi đó là cái gì nữa. Một thời gian rất rất lâu về trước. Có lẽ không nhớ nổi từ lúc tôi cưới Diana. Con bé chẳng có lỗi gì cả, hoàn toàn không, tôi sẽ không bao giờ nói như vậy. Amber, con bé có thai và đó là một cú sốc quá mức nặng nề. Nó sinh con và đem đứa bé cho chúng tôi chăm sóc. Để Diana nuôi dưỡng. Chung quy mọi chuyện là như vậy.” Đôi môi ông run rẩy. “Diana đã phải bỏ công việc ở studio. Nhưng tất cả đều không có một chút nghĩa lý gì so với chuyện này. Anh nói tôi phải làm sao để đối diện với ánh mắt của thằng bé bây giờ? Nó quá giống mẹ nó. Nó giống mẹ nó khi còn nhỏ.”
Wexford nghĩ Marshalson sắp bắt đầu nức nở nhưng ông ta đã cố gắng hết sức để kiềm chế cảm xúc, thở sâu và tựa đầu lên chiếc gối màu xám trắng. Mắt nhắm lại, rồi ông ta nói, “Tôi xin lỗi. Tôi sẽ tự mình bình tĩnh lại. Về những người bạn của con bé - hãy hỏi Diana. Cô ấy sẽ biết”.
“Ông ra ngoài để tìm Amber à, thưa ông”, Burden nói, “Sao lại như vậy?”.
Marshalson lắc đầu, không phủ nhận nhưng dĩ nhiên rất đau đớn. “Tôi chưa bao giờ đi ngủ khi con bé ra ngoài. Chưa bao giờ. Và tôi đã đúng khi không đi ngủ, phải không?
Không cần thiết phải lo lắng, Diana đã nói vậy, phải không?
Tất cả đều chính đáng cả.”
“Có lẽ là vậy, thưa ông, nhưng ông mong đợi tìm thấy gì khi ra ngoài phố vào lúc năm giờ - năm giờ sáng?”
“Tôi không biết. Những việc anh làm vào lúc đó đều không hợp lý. Tôi đã nghĩ mình có thể nhìn thấy con bé bước ra từ xe của thằng bạn nó. Ở tuổi này, thời gian chả có ý nghĩa gì với chúng. Chúng không biết mệt. Tôi đã nghĩ tôi có thể cùng con bé đi bộ về nhà, khoác tay nó, công chúa của tôi, thiên thần bé bỏng đáng thương của tôi...”
Burden nói lên những gì Wexford cảm thấy nhưng anh không dám nói; hay ít nhất ở giai đoạn này, không có cái suy nghĩ tàn độc đến như thế. “Ông có ra ngoài đường sớm hơn không? Lúc hai hay ba giờ sáng gì đấy?”
Giá mà George Marshalson hiểu được ngụ ý câu hỏi của Burden, điều mà anh ta đã không thể hiện ra. “Duy nhất một lần. Tôi chỉ ra ngoài vào lúc năm giờ. Tôi đã đi lại trong nhà trước đó, thấy giường con bé trống trơn nhưng tôi chỉ đi ra ngoài vào lúc năm giờ...” Một tiếng nấc cắt ngang những từ cuối cùng của ông ta.
Ở ngoài hành lang, Wexford nhìn quanh xem xét dấu hiệu của sự sống. Một trong những cửa ra vào - làm bằng gỗ nhạt màu, bằng phẳng và có tay cầm bằng thép không gỉ - đang khép hờ. Wexford nghe tiếng trẻ con đang nói đằng sau cánh cửa, “Mẹ, mẹ”.
Những lời “họ đâm vào tim tôi” đi vào đầu anh và anh tự nhủ mình không phải một tên ngốc ủy mị. Anh đẩy cửa bước vào, Burden nối gót. Brand, như những đứa trẻ khác cùng tầm tuổi, dường như càng lúc càng hoàn thiện kỹ năng đi của mình, quay vòng từ cửa sổ chỗ mình đang đứng, và rồi thất vọng, lặp đi lặp lại câu thần chú buồn “Mẹ, mẹ”.
Diana Marshalson đang ngồi trên sàn nhà giữa đống đồ chơi bằng gỗ, một con chó lông xù chạy bánh xe, một mớ hỗn độn của gạch nhiều màu. “Tôi hy vọng việc này sẽ không tiếp diễn. Ý tôi là, tôi mong anh ấy quên con bé đi, vì chính bản thân mình.”
Wexford mong chờ được nghe một vài lời cảm thông cho thằng bé và tiếc thương cho mẹ nó nhưng vô ích. Brand bò về phía bà ta, vẻ mặt bối rối. Nhìn nó như kiểu muốn bà ta bế mình lên và nựng nó mấy câu nhưng bà ta không làm vậy. Bà ta đứng dậy.
“Ngồi xuống đi. Tôi có thể giúp gì cho các vị?”
Họ kiểu như đang nghiên cứu cái bàn, tủ hồ sơ và máy tính ở phòng làm việc, cả đồ nội thất mềm, bọc trong vải tuýt nhạt màu xám và cam. Cửa kính duy nhất mà Brand đang nhìn chăm chú qua đó, hy vọng nhìn thấy mẹ mình, trông ra một khu vườn lớn, chủ yếu là cỏ và cây bụi. Cái nóng quá mức của bao tuần qua đã khiến cỏ chuyển sang màu vàng như những ngọn đồi California. Burden hỏi Diana Marshalson mà không thèm quan tâm là có lặp lại nỗi đau khổ của ông chồng bà ta hay không.
“Tôi chỉ biết tên mấy đứa bạn của con bé. Nhưng ngoại trừ đứa đã đưa nó về tới cuối đường. Nó tên là Ben Miller, tôi nghĩ là nó sống ở Myfleet. Mà đúng vậy đấy. Điều này có giúp được gì không?”
“Rất nhiều”, Wexford đáp. “Có lẽ bà cũng nên nói tên của những đứa bạn mà bà biết.”
“Như tôi đã nói ấy, tôi còn không biết họ của chúng là gì. Có một đứa là Chris, một đứa là Megan và một đứa là Veryan. Con bé đó đã đến đây một hai lần. Ờ, và Sam - tôi không rõ là Samuel hay Samantha - và Lara. Tôi nghĩ Lara và Megan là hai chị em. Dĩ nhiên, tôi không chắc con bé có gặp ai trong số chúng tối qua hay không. Không, Brand, không phải bây giờ, Di đang bận.” Bà ta không đẩy hẳn thằng bé ra. Tay vẫn đặt lên vai nó, bà ta khẽ đẩy thằng bé ra và lắc đầu mấy lần. “Không, Brand, cháu có nghe bà không? Ra chơi với con chó đi. Dắt nó đi dạo quanh phòng đi.” Ngữ điệu của bà ta nhẹ nhàng, giống như giáo viên tiểu học mà hồi bé Wexford từng học hơn là một bảo mẫu. “Tôi không biết mình sẽ xử lý chuyện này ra sao nữa”, bà ta nói với đám cảnh sát. “Tôi đã gặp đủ khó khăn về chuyện của Amber những ngày qua rồi. Cứ như thể nó không phải con gái tôi vậy. Thật không công bằng với tôi chút nào, phải không?”
Wexford hiếm khi không biết phải nói gì nhưng lúc này thì anh chịu. Anh đứng dậy. Burden cũng đứng dậy. Brand thì đang đi loanh quanh trong phòng, kéo theo con chó chạy bánh xe đằng sau. Thay vì nói “Mẹ” thì thằng bé lại nói “Di” và rồi “Di, Di, Di”.
Có lẽ đây không phải là lần đầu tiên nhưng Wexford vẫn mong chờ vẻ thỏa mãn trên khuôn mặt của Diana Marshalson. Không cười, bà ta nghe thằng bé lặp đi lặp lại tên tắt của mình, nhìn nó thoáng chốc rồi quay đi.
“Tôi đã phải chăm sóc thằng bé hết mình từ khi nó ra đời”, bà ta nói. “Thật sự là không công bằng, phải không? Amber đã ghét tôi từ cái nhìn đầu tiên. Con bé ghét tất cả những ai kết hôn với cha nó. Ồ, ý tôi không phải là tôi với con bé có mối thù truyền kiếp, con bé cũng đã dần chấp nhận tôi, dù ít dù nhiều, nhưng chung quy vẫn không ưa tôi. Rồi đến khi thằng bé ra đời, tôi là người duy nhất chăm sóc nó khi con bé ở trường. Được một thời gian thì tôi nghỉ việc. Tôi đã từng là cộng sự với George nhưng tôi phải nghỉ. Con bé chưa bao giờ hỏi thăm tôi, nó nghĩ đó là việc đương nhiên. Bởi vì tôi không có con riêng, nên tôi hẳn phải muốn chăm sóc con của nó. Khi con bé ra ngoài vào buổi tối và đến nửa đêm tôi là người phải dậy đến chăm thằng bé khi nó khóc. Ấy thế mà, điều này chẳng ích gì cả, đúng chứ? Hoàn toàn vô dụng. Các vị còn muốn biết thêm điều gì nữa không?”
Sau khi liếc qua Wexford, Burden nói, “Giờ thì chưa, cảm ơn bà, bà Marshalson. Dẫu vậy, chúng ta sẽ còn gặp lại nhau”.
Lặng lẽ, họ rời khỏi cái nơi chật chội, ấm áp để bước ra nơi nóng bức khủng khiếp, trời tháng Tám nhanh chóng nóng đến mức kỷ lục. Có đôi khi, trước khi trời trở nên ngột ngạt, Wexford cảm thấy cái nóng này lại có chút thoải mái. Anh ngẩng mặt lên trời khi Burden phát hỏa.
“Lạy Chúa, tôi sẽ có những đêm thức trắng vì đứa trẻ đó mất. Tội nghiệp thằng bé! Ông của nó không dám nhìn thẳng vào nó vì nó làm ông ta nhớ đến đứa con gái xấu số. Bà nội kế thì không ngừng xem nó là cục nợ. Mẹ nó đã chết và bởi vì thế nên sẽ không có bất kỳ trợ giúp nào để nuôi nó. Nhà họ không nghèo, họ có thể thuê một vú em tử tế, người có thể yêu thương thằng bé. Điều này làm tôi lộn hết cả mề.”
“Bình tĩnh đi, Mike. Tôi mới là người dễ xúc động, nhớ chưa? Xem ra chúng ta đã bị đảo ngược vai trò ở đây.”
Họ vào xe. Đỗ ngoài trời quá lâu, bên trong xe cũng đã ấm dần lên. Donaldson khởi động và bật máy lạnh. Những nhân viên tìm kiếm vẫn sục sạo trên bãi cỏ.
“Tôi muốn qua xem họ có tìm thấy bất cứ thứ gì không”, Wexford nói, “có điều tôi có một cuộc họp báo lúc sáu rưỡi, Và dù thế nào đi nữa, tôi hoàn toàn đồng ý với các vị về nhà Marshalson và thằng bé”.
“Tại sao cô gái đó giữ lại đứa trẻ? Nếu không quan tâm đến thằng bé, cô ta có thể cho người khác nhận nuôi nó mà. Hàng tá người sẽ yêu thương thằng bé. Toàn bộ chuyện này thật sai lầm. Cô ta chỉ mới rời ghế nhà trường và cô ta đến hộp đêm mọi lúc. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với thế giới này, và quá nhanh nữa chứ. Hai mươi năm và toàn bộ quan điểm sống đã thay đổi.”
“Có lẽ chúng ta cần hiểu chúng nhiều hơn một chút trước khi định phán xét điều gì.” Wexford cảm thấy mồ hôi chảy xuống ngực và anh ước gì mình có một chiếc áo sạch để thay trước khi cánh nhà báo đến. “Họ đã phải trải qua cú sốc tồi tệ nhất trong đời. Các vị có biết điều gì làm tôi bị ảnh hưởng nhất không? Brand cứ gọi mẹ nó.”
“Dường như điều đó thậm chí còn chẳng khiến Diana cảm động. Như vậy đã đủ làm trái tim anh tan vỡ rồi, nhưng nó thậm chí còn chẳng khiến bà ta cảm động.” Anh nhìn Wexford với vẻ đầy ngờ vực. “Anh đang nghĩ gì thế?”
Không quen miệng nói dối, Wexford thấy không cần thiết phải thành thật về những suy nghĩ của mình. “Chỉ là tôi thà xử lý đống giấy tờ từ Luân Đôn bất cứ lúc nào còn hơn là phải đối mặt với thằng cha mới đến ở tạp chí Người đưa tin.”
Anh quay trở về với những gì thật sự chiếm đóng tâm trí mình, con gái của chính anh.