Đ
ã bảy năm trôi qua kể từ ngày già Egle, người đi khắp thế gian để sưu tầm truyện cổ và các khúc dân ca, kể cho cô bé câu chuyện thần tiên về con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Vào cái hôm trước ngày tròn bảy năm ấy, Assol từ trên thị trấn về làng sau khi giao đồ chơi - mỗi tuần một lần, như thường lệ. Lòng cô lo lắng, mặt cô buồn rầu. Cô phải mang toàn bộ số đồ chơi trở về. Ban đầu, cô buồn bực, không nói năng gì. Nhưng khi thấy gương mặt của Longren hiện lên vẻ âu lo vì nghĩ đã có điều gì xấu, xấu hơn chuyện thực sự xảy ra, cô mới bắt đầu thuật lại đầu đuôi, vừa kể vừa di ngón tay nguệch ngoạc lên ô cửa kính nơi cô đứng và lơ đãng nhìn ra biển.
Lần này, người chủ cửa hàng đồ chơi bắt đầu bằng việc giở sổ nợ ra và cho cô xem hai cha con cô đã nợ ông ta bao nhiêu tiền. Thấy con số lớn đến hàng trăm, cô suýt ngất.
“Đây là số tiền nhà cô vay từ hồi tháng Mười Hai đến nay.” Ông chủ hiệu nói. “Còn giờ, ta xem thử hàng hóa bán được bao nhiêu nhé!” Ông ta trỏ sang một cột khác, con số ở cột này chỉ đến hàng chục.
“Nhìn thấy thế, con buồn và tự ái lắm, bố ạ. Nhìn mặt ông ta, con thấy ông ta thô lỗ và cáu kỉnh làm sao! Con chỉ muốn bỏ chạy ngay khỏi đó, nhưng thú thật, con xấu hổ quá, chẳng có sức mà chạy. Rồi ông ta nói tiếp: “Mấy thứ này chẳng có lời lãi gì nữa đâu, cô bé ạ. Giờ người ta thích hàng ngoại cơ. Chỗ nào cũng bày bán hàng nhập ngoại thôi, nào ai thèm mua mấy thứ này!” Ông ta nói thế đấy, bố ạ. Ông ta còn nói nhiều, nhiều lắm, nhưng đầu óc con cứ rối hết cả lên và chẳng nhớ được gì. Hình như ông ta thấy con tội nghiệp nên mách con sang tiệm đồ từ thiện cho trẻ em và hiệu Cây Đèn của Alladin.”
Trút xong cái gánh nặng nhất, cô gái quay người lại, rụt rè nhìn bố. Longren ngồi lom khom, tay chống cằm, khuỷu tay tì lên đầu gối. Cảm thấy con gái đang nhìn mình, ông ngẩng đầu lên và thở dài. Nỗi phiền muộn đã vơi đi, cô chạy lại chỗ bố, sà xuống bên cạnh ông, đặt bàn tay nhỏ nhắn của mình xuống dưới ống tay áo da của bố. Cô cất tiếng cười, ngước lên nhìn mặt bố, và giả như vui vẻ, kể tiếp cho bố nghe:
“Không sao đâu, bố ạ. Để con kể tiếp nhé. Con đi khỏi đó, sang một cửa hàng rất to, to đến phát sợ! Ở đó, khách khứa tấp nập, người ta chen lấn ghê lắm. Họ xô cả vào con, nhưng con cũng lách được tới chỗ một người đàn ông tóc đen đeo kính. Con không nhớ mình đã nói những gì với ông ta, nhưng cuối cùng, ông ta cười khẩy, lật xem mấy món đồ chơi trong giỏ của con, rồi gói lại vào khăn và trả lại.”
Longren nghe con kể, trong lòng giận lắm. Hình ảnh con gái mình bối rối đứng giữa cửa hàng bày bán những đồ đắt tiền, đầy những khách mua ăn mặc sang trọng đang hiển hiện ngay trước mắt ông. Người chủ hiệu đeo kính ăn mặc lịch lãm, trịch thượng giải thích với cô bé rằng ông ta sẽ phá sản nếu đưa mấy món đồ chơi thô sơ của Longren lên kệ hàng. Ông ta nhanh nhẹn nhấc những ngôi nhà lắp ghép, cầu tàu hỏa, những chiếc ô tô bé xíu, máy bay, động cơ, các món đồ chơi bằng điện được làm rất tinh xảo lên mặt quầy, ngay trước mặt Assol. Tất cả những món đồ chơi ấy đều được sơn đủ màu sắc sặc sỡ, hình dáng đẹp đẽ. Theo lời ông ta, trẻ con bây giờ chỉ thích chơi những trò bắt chước theo nghề nghiệp của người lớn.
Rồi Assol sang cửa hàng Cây Đèn của Alladin và hai cửa hàng nữa, nhưng cũng đều phải ra về.
Kể xong chuyện, Assol bày bàn ăn tối. Ăn xong, Longren uống một cốc cà phê thật đậm, rồi nói: “Giờ chúng ta không còn gặp may nữa, phải tìm kế khác mà làm thôi con ạ. Có khi bố lại xin đi tàu - tàu Fitzroy hoặc tàu Palermo. Bọn họ nói đúng đấy, con ạ.” Ông trầm ngâm nghĩ đến những món đồ chơi. “Trẻ con bây giờ không chơi nữa, mà phải học. Chúng cứ học, học mãi, và sẽ chẳng bao giờ được sống cho ra sống. Chuyện là thế, thật đáng tiếc, con ạ. Con có ở nhà một mình khi bố đi biển dài ngày được không? Để con một mình, bố không yên tâm lắm.”
“Thì con cũng đi tàu với bố. Con xin phục vụ ở nhà ăn cũng được.”
“Không!” Để xác quyết thêm tuyên bố của mình, Longren đập mạnh tay xuống bàn. “Chừng nào bố còn sống thì con sẽ không phải đi tàu. Nhưng ta vẫn còn thời gian để tính toán, Assol ạ.”
Longren lại buồn rầu im lặng. Assol ngồi lên mép ghế của bố. Longren không ngoái sang nhìn, nhưng vẫn liếc thấy con gái đang tìm cách an ủi mình. Ông suýt bật cười. Nhưng nếu ông cười, cô gái sẽ sợ và lúng túng. Cô vừa thì thầm gì đó trong miệng, vừa đưa tay chải mái tóc đã điểm bạc của bố, hôn lên bộ ria của ông và đưa đôi tay búp măng nhỏ nhắn của mình bịt lấy tai bố. Cô nói: “Thế là bây giờ bố không nghe con nói “con yêu bố” được đâu.”
Longren nãy giờ vẫn ngồi yên trong lúc Assol tìm cách làm ông vui, nín thở như người sợ hít phải khói, thế nhưng, nghe con nói những lời đó, ông phá lên cười thật to.
“Con gái yêu của bố!” Ông âu yếm vỗ má con, rồi ra bãi biển kiểm tra xuồng của mình.
Assol đứng trầm ngâm giữa nhà một lúc, ngần ngừ không biết nên mặc cho tâm trí trôi theo những nghĩ suy sầu muộn, hay bắt tay vào làm việc nhà. Rửa xong bát đĩa, cô kiểm tra lại chỗ thực phẩm trong nhà. Cô không cân đong đo đếm gì, chỉ ước lượng bằng mắt thôi cũng thấy chỗ bột mì chẳng đủ ăn đến cuối tuần, lọ đường thì đã trơ đáy, mấy túi trà và cà phê cũng sắp rỗng không và nhà chẳng còn chút bơ nào, chỉ mỗi túi khoai tây là còn đầy. Sau đó, cô đi cọ sàn. Xong xuôi, cô đem váy ra khâu lại viền. Sực nhớ ra túi vải giắt ở đằng sau gương, cô bước tới đó, lấy ra một ít vải. Và cô nhìn mình trong gương.
Trong chiếc gương đóng khung gỗ óc chó, giữa căn phòng phản chiếu trên mặt gương là một cô gái nhỏ nhắn, mảnh dẻ, mặc bộ váy bằng vải muslin trắng rẻ tiền, điểm mấy bông hoa màu hồng. Chiếc khăn lụa màu xám choàng qua vai. Gương mặt hơi rám nắng vẫn còn nét trẻ thơ rất lanh lợi và đầy biểu cảm. Đôi mắt tuyệt đẹp, có phần nghiêm nghị quá so với tuổi, phản ánh một tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc bên trong. Những đường nét trên gương mặt cô đều rất thanh tú, toát lên vẻ trong sáng vô ngần. Các đường nét ấy đều có thể thấy trên gương mặt của nhiều phụ nữ khác, nhưng khi kết hợp với nhau, chúng tạo nên một nhan sắc đặc biệt độc đáo - rất ngọt ngào, rất duyên. Chúng ta nên dừng ở đây. Những điều còn lại không diễn tả được bằng lời, chỉ có thể tóm gọn bằng một từ này thôi: mê hoặc.
Cô gái trong gương bất giác mỉm cười với Assol. Một nụ cười đượm buồn. Nhận thấy điều đó, Assol bỗng thấy ái ngại như đang nhìn một người lạ. Cô áp má vào gương, nhắm mắt lại, khẽ khàng chạm tay lên hình ảnh phản chiếu của mình. Những ý nghĩ mơ hồ dịu dàng vụt qua tâm trí cô. Cô đứng thẳng người lên, bật cười và ngồi xuống khâu vá.
Khi cô ngồi khâu, ta hãy thử ngắm kĩ cô hơn một chút - nhìn vào nội tâm cô. Dường như trong cô có tới hai cô gái, và hai cô Assol ấy cùng hòa hợp thành một bản thể tươi vui, tuyệt diệu. Một Assol là con gái của người thủy thủ, người thợ làm đồ chơi; còn Assol kia là một bài thơ sống, với tất cả những phép màu của nhạc điệu và hình ảnh, với cách dùng từ, cách ráp vần bí ẩn, cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều tác động qua lại, nâng đỡ nhau. Cô chỉ biết cuộc đời trong phạm vi những gì mình nếm trải, nhưng ngoài những hiện tượng chung, cô gái lại có khả năng nhìn thấy ý nghĩa của một trật tự khác. Chẳng hạn như khi nhìn vào sự vật, cô không thấy chúng qua đường nét mà là qua ấn tượng - một điều rất người - và đã là người thì cách cảm nhận bao giờ cũng khác nhau. Tương tự như vậy, ta có thể nói Assol thấy được cả những điều sâu xa hơn những gì hiển hiện trước mắt. Nếu thiếu đi chiến thắng khiêm nhường ấy, tất cả mọi thứ sẽ trở nên xa lạ với tâm hồn cô, dù là điều dễ hiểu nhất đi chăng nữa. Cô biết đọc và rất thích đọc sách, nhưng quyển nào cũng vậy, cô chủ yếu đọc những ẩn ý giấu sau câu chữ, hệt như khi đánh giá những điều trong cuộc sống bên ngoài. Qua tiềm thức, qua linh cảm, cô phát hiện được không biết bao nhiêu điều vô cùng tinh tế, rất khó diễn tả, nhưng hệ trọng như hơi ấm và sự thanh khiết. Thi thoảng - và điều này thường kéo dài suốt mấy ngày liền - cô như biến thành một người khác; sự đối lập về vật chất trong cuộc sống vỡ vụn, như sự yên lặng bị phá vỡ khi ta kéo cây vĩ trượt qua những sợi dây đàn; và tất cả những gì cô đã thấy, tất cả những điều quan trọng với cô, tồn tại xung quanh cô trở thành tấm đăng ten bí ẩn trong cõi tục. Đã nhiều lần, trong lòng quặn lên lo lắng và e sợ, cô một mình ra biển trong đêm, chờ bình minh đến, dõi mắt nhìn ra khơi xa, thực lòng tìm kiếm con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Những giây phút đó, cô thật sự hạnh phúc. Nếu chúng ta hiếm khi đắm mình vào những câu chuyện thần tiên, thì cô lại khó thoát khỏi sức mạnh và sự lôi cuốn của chúng.
Vào những dịp khác, khi nghĩ lại chuyện đã qua, cô thành thực ngạc nhiên với chính mình. Không tin những điều mình vừa tin nữa, cô mỉm cười giã biệt biển xanh và buồn bã quay về với thực tại. Lúc này, khi đang ngồi khâu, cô lại nghĩ về quãng đời khi trước của mình. Có quá nhiều điều đơn sơ và tẻ nhạt. Việc hai bố con cô độc sống với nhau đôi khi khiến cô thấy nặng trĩu trong lòng. Điều đó cũng đã hình thành trong cô một nỗi e dè, nhút nhát, một nếp hằn đau khổ, ngăn chặn cô bày tỏ hay đón nhận niềm vui. Những người trong làng chế giễu cô, họ nói: “Con nhỏ ấy bị điên”, “Cô ta bị tâm thần.” Cô cũng đã quen với những lời hằn học đó. Nhiều lần cô bị sỉ nhục, bị xúc phạm nặng nề, ngực cô nhức nhối như lãnh trọn nhát dao xuyên vào tim. Cô không phải là cô gái được yêu thích ở làng Kaperna, tuy vậy, nhiều người cảm thấy rằng, dù mơ hồ và thật lạ lùng, cô được ban tặng nhiều hơn những người còn lại - có điều, theo một cách khác mà thôi. Cánh đàn ông ở làng Kaperna khoái típ phụ nữ tròn lẳn, chắc nịch, da bóng nhẫy, bắp chân rắn chắc và đôi cánh tay to khỏe. Họ trêu ghẹo, ve vãn các cô này bằng cách phát vào lưng và xô đẩy họ như khi chen lấn ở chốn chợ búa. Lối tỏ bày tình cảm này thật chẳng khác nào một tiếng rống thô lỗ. Trong môi trường cứng nhắc ấy, Assol - người có đời sống tinh thần tinh tế - buộc phải thích nghi với một xã hội bị trù ếm, nơi yêu thương là điều không tưởng. Vậy là, trong tiếng tù và hiệu lệnh đều đều, âm thanh ngọt ngào của cây vĩ cầm không thể nào kéo được đạo quân nghiêm nghị ra khỏi những ràng buộc của hàng ngũ. Cô gái quay lưng lại với tất cả những gì hiện hữu trong môi trường đó.
Miệng ngân nga một khúc ca, đôi tay nhỏ nhắn của Assol nhanh nhẹn và khéo léo đưa kim lên xuống. Khi cắn chỉ, cô dõi mắt về phía trước, nhìn xa xăm, nhưng vẫn khâu được những đường chính xác và đều tăm tắp, hệt như khâu bằng máy. Dù Longren vẫn chưa về, cô không lo lắng mấy. Gần đây, ông hay đi câu cá đêm hoặc ra biển hóng gió. Nỗi sợ không giày vò cô, vì cô biết nguy hiểm không thể nào ập đến với Longren. Bởi lẽ, Assol vẫn là cô bé ngoan đạo bé bỏng, ngày nào cũng cầu nguyện theo cách riêng của mình, sáng nào cũng thiết tha thỏ thẻ: “Chào Đức Chúa Trời!”, và tối đến thì:
“Tạm biệt Đức Chúa Trời!”.
Cô tin rằng những lời chào hỏi lễ phép cũng đủ để Đức Chúa ban cho mọi sự tốt lành, ngăn chặn mọi nguy hiểm, mọi bất hạnh giáng xuống đầu cô. Cô đặt mình vào vị trí của Người: Chúa lúc nào cũng bận rộn với mối lo toan của hàng triệu triệu người, và vì thế, khi cầu xin giúp đỡ trước những mối bận tâm thường ngày, cô cho rằng phải biết ý như một người khách lịch sự đến chơi gặp lúc chủ nhà đông khách, phải nhẫn nại chờ đợi chủ nhân và ăn ở tùy theo hoàn cảnh.
Khâu vá đã xong xuôi, Assol gấp gọn đồ đạc, cất chúng lên chiếc bàn nhỏ ở góc nhà. Cô thay quần áo và lên giường đi ngủ. Đèn đóm đã tắt hết. Cô nhanh chóng nhận ra mình không hề buồn ngủ. Đầu óc cô vẫn tỉnh táo như giữa ban ngày, và thậm chí, màn đêm lúc này cũng có vẻ như không thật. Thân thể cô, cũng như tâm trí cô, cứ thấy lâng lâng và bị thôi thúc. Tim cô đập nhanh như kim đồng hồ bỏ túi, hồ như nó đang đập ngay bên gối. Assol thấy bực bội trong lòng, cô trở mình liên tục, lúc thì tung chăn ra, lúc lại kéo chăn trùm kín đầu. Cuối cùng, cô nghĩ ra cách để giúp mình dễ ngủ. Cô tưởng tượng ra một cảnh quen thuộc: cô liệng những hòn đá cuội láng bóng xuống mặt nước trong vắt và ngắm những gợn sóng tròn lan dần ra tứ phía. Dường như chỉ chờ có thế, giấc ngủ kéo tới, thì thầm với Đức Mẹ Đồng Trinh đứng ở đầu giường cô, và tuân theo lời Đức Mẹ, cơn mộng mị đưa tay lên môi, khẽ “suỵt” một tiếng ra hiệu im lặng với tất cả mọi thứ xung quanh. Assol nhanh chóng thiếp đi. Cô lại mơ giấc mơ yêu thích: những cái cây nở hoa rực rỡ, nỗi khát khao, những say mê, những khúc ca và những điều bí ẩn lạ thường mà khi tỉnh dậy, tất cả những gì cô nhớ được chỉ còn là làn nước xanh lóng lánh dâng từ chân lên tim cô, mát lạnh và khoan khoái. Sau khi mơ thấy những điều lạ kỳ như vậy, cô thường nán lại trong xứ ảo mộng kia một lúc rồi mới tỉnh hẳn và ngồi dậy.
Cô không mơ màng, cứ như cô chưa từng chìm vào giấc ngủ. Một cảm giác khác thường, một niềm vui sướng, một khao khát muốn làm việc gì đó trào dâng trong lòng cô. Cô nhìn xung quanh, bằng đôi mắt của một người lần đầu tiên bước vào ngôi nhà mới. Ánh bình minh lẻn vào phòng, dù vầng dương còn chưa xuất hiện, nhưng luồng sáng mong manh chảy xuống đất kia vẫn đủ giúp người ta lờ mờ nhận thấy đường nét của vạn vật xung quanh. Phía dưới khung cửa sổ vẫn còn tối, nhưng phía trên thì đã rạng. Bên rìa khung cửa, trên nền trời xa xa, lấp lánh ánh sao Mai buổi sớm. Biết rằng mình sẽ không ngủ lại được nữa, Assol đứng dậy mặc thêm áo rồi tới bên cửa sổ, mở cánh cửa ra. Bên ngoài vắng lặng, cứ như vẻ thanh tịnh này chỉ vừa mới buông xuống. Giữa ánh sáng xanh lơ khi trời vừa tang tảng, những lùm cây bụi chập chờn, những cây cao say ngủ; không khí nặng nề, nồng mùi đất.
Vịn tay vào khung cửa, Assol nhìn ra ngoài và mỉm cười. Đột nhiên, một thứ gì tựa như tiếng gọi xa xăm làm cô xao động, cô có cảm tưởng như mình vừa thức dậy một lần nữa, tỉnh khỏi hiện thực rõ ràng để sang một trạng thái hiển nhiên và chắc chắn hơn gấp bội. Từ giây phút đó, tinh thần cô tràn ngập hân hoan. Cũng giống như khi nghe người khác nói, ta hiểu, nhưng khi chính ta lặp lại những lời đó, ta lại hiểu thêm được một ý mới và khác hơn. Assol lúc đó cũng trải nghiệm một điều y như vậy.
Với tay lấy chiếc khăn lụa cũ cô vẫn hay trùm lên tóc, một tay thắt khăn, một tay khóa cửa, Assol chạy chân trần ra con đường đất trước nhà. Dẫu xung quanh vắng vẻ và yên lặng, cô vẫn tưởng như mình chính là một dàn nhạc và tất cả mọi người đều có thể nghe được âm thanh tuyệt vời của dàn nhạc ấy. Vạn vật đều thân thiện, ngọt ngào với cô, và cô vui sướng trước tất cả mọi điều. Lớp bụi đất ấm áp mơn man bàn chân trần của cô. Không khí trong lành và khoan khoái vây quanh cô. Những mái nhà, những áng mây được bóng tối phủ màu đen sẫm, tương phản với nền trời tờ mờ sáng. Những hàng rào, những đóa tầm xuân, những khu vườn, cây cối và con đường lờ mờ ẩn hiện đều đang mơ màng ngủ. Vẫn là những cảnh vật ấy, nhưng giờ đây, trông chúng thật khác với lúc trời sáng rõ. Tất cả đều ngủ, nhưng cũng đang he hé mắt ngắm trộm cô gái vừa chạy ngang qua.
Càng đi xa, cô càng chạy nhanh hơn. Cô nóng lòng rời khỏi làng. Ngoài làng Kaperna có một đồng cỏ rộng, đi hết đồng cỏ là tới một sườn đồi thoai thoải dọc bờ biển, trên đó lốm đốm những bụi phỉ, những cây dẻ và bạch dương. Đi hết đường cái và rẽ sang con đường mòn nhỏ, Assol chợt thấy một chú chó nhỏ lông đen mượt như tơ, ở cổ có yếm lông màu trắng, đôi mắt như biết nói, quanh quẩn bên chân cô. Chú chó nhận ra Assol, khẽ sủa và bước đi bên cạnh cô, chốc chốc lại uốn éo thân mình, như thầm đồng thuận với cô một điều gì đó. Assol nhìn vào đôi mắt hồ hởi của chú chó, tin chắc rằng chú ta nói được tiếng người, nếu không vì một lý do bí mật nào đó bắt chú phải im lặng. Thấy người bạn đồng hành cười, chú chó chun mũi tỏ vẻ thích thú, vẫy đuôi khoái chí và chạy lên trước một đoạn. Đột nhiên, chú ngồi xuống, thờ ơ đưa chân lên gãi tai vì bị rận cắn, rồi chú chạy mất.
Assol sà vào đồng cỏ đẫm sương, dang tay ra và lướt nhẹ bàn tay phía trên những bông hoa nhỏ. Cô vừa đi vừa mỉm cười khi lá cỏ cọ vào tay theo từng bước chân. Ngắm nghía gương mặt độc đáo của những bông hoa, những thân cành mảnh khảnh đan vào nhau, cô nhận ra dáng vẻ, điệu bộ, cử chỉ, những đường nét và biểu cảm giống như ở con người. Cô sẽ không ngạc nhiên nếu bắt gặp đám rước của bầy chuột đồng, buổi vũ hội của đám chuột túi má, hay trò trêu chọc thô lỗ của chú nhím suốt ngày nạt nộ vị thần lùn giữ của ngủ quên. Và quả nhiên, có một chú nhím lông xám băng ngang đường cô đi. Chú ta cáu kỉnh khịt mũi “khụt… khụt…”, hệt như bác đánh xe nạt khách qua đường. Assol nói chuyện với tất cả những gì cô gặp và hiểu được. “Ôi, tội nghiệp bạn quá đi thôi!” Cô nói với đóa diên vĩ màu tím bị sâu ăn. “Cậu nên nghỉ ở nhà mấy hôm thì hơn!” Cô nói với bụi cây nhỏ trụi lá vì bị người qua đường quệt phải. Một con bọ cánh cứng khá to đậu vào một đóa hoa chuông xanh, nó ghì bông hoa trĩu xuống và trượt chân liên tục, nhưng vẫn cố trèo lên cho bằng được. “Hất ông khách béo ị này xuống đất đi, anh bạn!” Assol khuyên. Thế mà con bọ rơi khỏi bông hoa thật. Nó xòe cánh, bay vù đi. Tim rộn ràng, lòng xao xuyến, chứa chan tình cảm, Assol trèo lên sườn đồi và ẩn mình vào những rặng cây, nơi những người bạn thực thụ vây quanh cô, trò chuyện với cô bằng giọng trầm ấm.
Những người bạn ấy là các cây cổ thụ to lớn mọc vượt lên giữa những bụi phỉ và kim ngân, cành lá la đà, xòa bóng lên tán của những lùm cây thấp. Những cụm hoa hình nón trắng tinh ẩn hiện giữa tán lá sum sê, trầm mặc trên các cành dẻ lớn, hương hoa ngào ngạt quyện với mùi nhựa thông và mùi sương mai. Con đường mòn nhỏ vương đầy rễ cây, lúc thì võng xuống, lúc thì bò lên trên đồi. Assol thấy ở đây y hệt ở nhà. Cô nắm lấy những cành lá thấp, tươi cười chào từng gốc cây cứ như chúng là người thật. Vừa đi, cô vừa nói: “A, cậu đây rồi. Lại thêm một cậu khác. Các cậu đông thật đấy! Mình đang vội lắm, các cậu tránh đường cho mình nhé! Mình nhận ra các cậu hết đấy. Mình nhớ và quý các cậu lắm.” Những người “bạn” của cô trang trọng vỗ vai cô bằng những chiếc lá và thân ái kẽo kẹt đáp lời cô. Chân lấm đất, cô đi ra vách đá giáp biển, đứng ngay sát mép vách, thở gấp vì bước quá nhanh. Một niềm tin sâu thẳm, mãnh liệt trào dâng, sôi sục trong lòng cô, khiến cô hân hoan vui sướng. Cô dõi mắt ra đường chân trời, nơi những con sóng kiêu hãnh rì rào nhẹ vỗ bờ. Trong khi ấy, biển cả, viền bằng một sợi chỉ vàng óng ánh dọc đường chân trời vẫn còn đang say ngủ, chỉ có con nước ở chân vách đá là dâng lên và hạ xuống không thôi. Màu xám bạc của đại dương đã ngả sang xanh thẫm và đen ở gần bờ. Phía sau sợi chỉ vàng óng ánh, nền trời đã sáng bừng, tỏa hào quang như một chiếc quạt khổng lồ. Áng mây trắng ửng lên sắc hồng rực rỡ. Những dải màu mỏng tang, đẹp tuyệt trần lấp lánh trong mây. Trên nền trời tối sẫm phía xa, có một dải trắng tinh như tuyết quệt ngang qua. Bọt biển lóng lánh ánh sáng. Phía bên trên sợi chỉ vàng, bừng lên một vết nứt đỏ rực, hắt xuống đại dương những gợn sóng lăn tăn đỏ thắm, lan tới chân Assol.
Cô ngồi xuống, co chân lại, ôm lấy gối. Cô nhoài người về phía biển, chăm chú nhìn đường chân trời bằng đôi mắt của trẻ thơ - đôi mắt mở thật to và không còn vương lại chút âu lo của người lớn. Những gì cô thiết tha chờ đợi suốt bao lâu nay dường như đang diễn ra ở tít ngoài kia, nơi tận cùng thế giới. Ngắm nhìn đại dương, cô tưởng như có một ngọn đồi ngầm sâu dưới mặt nước. Trên sườn đồi ấy, những loài rong tảo uốn lượn theo dòng nước, vươn lên trên mặt biển, bung nở những bông hoa óng ánh trên những cuống hoa dài và mảnh, nằm giữa đám lá tròn xoe. Những chiếc lá phía trên cùng long lanh trên mặt biển. Nếu không phải Assol mà người khác, hẳn họ sẽ chỉ thấy những đốm sáng lấp lóa chói mắt mà thôi.
Một con tàu nổi lên trên mặt biển giữa những loài rong kỳ lạ ấy, rồi dừng lại ngay chính giữa vầng dương. Nhìn từ xa, con tàu trông giống hệt một đám mây lan tỏa niềm vui, hắt lên ánh đỏ như rượu vang, như hoa hồng, như máu nóng, như làn môi ấm, như nhung thắm và như ngọn lửa đỏ tươi. Con tàu rẽ sóng, đi thẳng về phía Assol. Những ngọn sóng bị sống tàu tách làm đôi, bắn lên cao, tung bọt trắng xóa. Cô đứng dậy, áp đôi bàn tay lên ngực, hồi hộp ngắm nhìn, nhưng trò đùa của ánh sáng đã tan biến. Vầng dương nhô lên, nắng mai rực rỡ xé toạc tấm màn che phủ vạn vật vẫn còn uể oải nằm dài trên mặt đất đang ngái ngủ.
Cô gái thở dài và quay nhìn xung quanh. Nhạc vàng đã tắt, nhưng Assol vẫn còn mê đắm trong dư âm ngân dài của dàn đồng ca. Cảm giác ấy dần dần phai nhạt, rồi trở thành ký ức, và cuối cùng chỉ còn là cảm xúc rã rời, mệt mỏi đơn thuần. Cô nằm dài xuống bãi cỏ, ngáp dài và khép đôi mi, hạnh phúc chìm vào giấc ngủ - một giấc ngủ thật sâu, không lắng lo, không mộng mị.
Assol thức giấc vì một con ruồi bò lên bàn chân. Cô co chân và bừng tỉnh. Cô ngồi dậy, cặp lại mái tóc rối, và vì thế mới thấy ngón tay mình có gì vương vướng. Ngỡ có cọng cỏ nào mắc vào kẽ ngón tay, cô duỗi thẳng bàn tay để cọng cỏ rơi ra. Thế nhưng, khi vẫn thấy vướng, cô mới đưa tay lên nhìn và giật mình bật dậy, mạnh như tia nước vọt ra từ đài phun.
Chiếc nhẫn quý của Gray sáng lấp lánh trên ngón tay cô mà cô cứ ngỡ như tay người khác, bởi khi ấy, cô không thể nói chiếc nhẫn là của mình, cô thậm chí còn chẳng thấy ngón tay ấy thuộc về mình nữa.
“Ai đùa thế này? Ai đùa vậy?” Cô kêu lên. “Mình vẫn còn ngủ mơ hay sao? Hay mình nhặt được cái nhẫn và quên béng đi mất?”
Tay trái cô đỡ lấy bàn tay phải đang đeo nhẫn. Cô ngạc nhiên, ngơ ngác nhìn xung quanh như muốn hỏi dò biển biếc, rừng xanh. Nhưng chẳng có gì động đậy, chẳng có ai nấp trong lùm cây, và biển cả mênh mông xanh biếc cũng chẳng có câu trả lời nào. Assol đỏ bừng mặt. Lời mách bảo từ trong trái tim thì thầm với cô rằng: “Đúng thế!”. Chẳng có lời giải thích nào cho việc đã xảy ra, nhưng cô đã tìm được câu trả lời bằng cảm giác lạ lùng, không cần một lý lẽ nào hết. Chiếc nhẫn trở nên thân thuộc với cô. Cô run rẩy tháo chiếc nhẫn ra và khum khum giữ nó trong bàn tay như đang hứng nước và ngắm nghía mãi không thôi - bằng cả tâm hồn, trái tim, cùng niềm sướng vui vô ngần và niềm tin mê muội của tuổi trẻ. Rồi Assol cất chiếc nhẫn vào lớp áo trong, úp mặt vào lòng bàn tay, trên môi nở một nụ cười không sao ngăn lại được. Cô cúi đầu, chầm chậm men theo con đường trở về làng.
Vậy là, thật tình cờ, như những người biết đọc và biết viết thường nói, Gray và Assol đã tìm thấy nhau vào một sớm mùa hè đầy những điều không sao tránh khỏi.