“Làng sinh tôi trong khói lửa chiến tranh
Tôi nặng nợ với Làng, trăm năm không trả hết”
HÀ LÂM KỲ
Xình xịch… xình xịch… xình xịch. Con tàu hỏa có bốn toa thành sắt được đầu máy hơi nước nặng nề kéo, chậm dần, chậm dần, rồi dừng hẳn trên sân Trạm, ga Ấm Thượng. Gọi là Trạm ga nhưng chỉ có túp nhà gỗ lợp cọ trên nền đất bằng phẳng cách vệt đường ray chừng mươi mét. Ở đó chỉ có hai ba nhân viên hỏa xa làm nhiệm vụ đón tàu đến dừng, rồi lại tiễn chúng ngược xuôi theo lịch hẹn giờ, cứ thế vài ba lần trong ngày. Bây giờ thì chuyến tàu ngược Hà Nội - Yên Bái đã nằm gọn trong lòng trạm ga ba mươi lăm phút. Đầu tàu được tiếp nước hay có sự cố, không rõ. Thông thường chúng chỉ dừng mười lăm phút là đủ. Cái ga phụ này có mấy khách đâu, chỉ dăm ba lái buôn đường bộ. Họ buôn lẻ mới ngang tắt qua đây còn nếu đi chuyến thì thường lên xuống ở ga Yên Bái.
Từ phía sau túp nhà lợp lá gọi là ga có mấy phu dân đang hò nhau: “Hai ba này, hai ba…” - Tiếng người đan xen, tiếng chân thậm thịch, rồi tiếng oành oành nơi toa cuối của tàu hỏa. Thì ra chủ tàu chờ phu phen khuân gỗ từ bãi cát sông Hồng lên sân ga, rồi lại từ mặt sân ga, lao lên toa chở hàng. Những nông phu gầy guộc vừa rời sân sau tiếng quát tháo của ông chủ, đầu tàu hú còi xin đường. Từ trong nhánh đường mòn trái nhà ga, hai người đàn ông chạy vội tưởng như không còn kịp chuyến.
- Hàng gì?
- Khoai lang, khoai sọ.
- Nhanh lên, đồ con vịt!
Im lặng. Người đàn ông đứng tuổi tháo vội chiếc áo tơi, người còn lại tháo từng chiếc sọt ra khỏi đòn gánh. Cả hai lên tàu. Trời vẫn lấp tấp mưa. Người đi buôn có hàng chỉ được ngồi ở toa ghế dọc hoặc toa sàn. Biết thế, hai người đàn ông nhấc nặng đôi quang sọt đầy ắp khoai đồng về phía mình rồi ngồi bệt xuống sàn toa chở hàng, nhân viên hỏa xa lấy gậy chọc chọc vào củ khoai to nhất:
- Thuế!
Một đồng bạc trắng được người đàn ông chìa ra, tay nhân viên nhà tàu có bộ râu quai nón lai Tây cười ruồi rồi ghi vào tờ giấy dó trong cuốn sổ bằng bàn tay: “Vé hàng, kèm theo hai dân nông”. Tờ giấy được xé xoạt khỏi quyển sổ, đưa cho người đàn ông buôn khoai, hắn nói cộc lốc:
- Đi!
Toa hàng ngổn ngang gỗ khúc, những bì lúa, những sọt măng khô, những bao tải mộc nhĩ, nấm hương, cả những bu gà, vịt to nhỏ lộn xộn, mà chủ hàng chẳng thấy đâu, chắc họ ngồi trên toa ghế dài liền kề. Người đàn ông chủ gánh khoai sọ thầm nghĩ cứ ngồi ôm giữ sọt khoai an toàn hơn. Còn người kia, người đàn ông đứng tuổi thấp lùn, chiếc mũ lưỡi trai kéo trùm kín nửa mặt như đang thèm ngủ trưa. Con tàu hơi nước vẫn ậm ạch ngược ven sông Hồng, qua các bãi soi um tùm chuối, lác đác vườn ngô tháng mười, lướt qua Đoan Thượng hiện dần ra ngọn đồi Bách Lẫm. Vẫn cứ lưỡi trai mũ vải trùm kín vầng trán, người đàn ông đứng tuổi lim dim mắt khẽ nghiêng người theo nhịp con tàu vào cua. Người đàn ông gánh khoai ngồi bên nói nhỏ:
- Sắp đến đề-pô anh ạ!
- Xuống ga, anh cứ khoác áo tơi vào nhé. May quá, trời còn mưa.
- Được rồi.
Cả toa hàng bắt đầu nhớn nhác, bây giờ thì các chủ ngồi đâu đó đều về đây chuẩn bị cho việc xuống ga. Hàng hóa đẩy đi kéo lại buộc buộc chằng chằng. Hai người đàn ông lặng yên.
Ga Yên Bái xem ra khác hơn các ga xép: Hai đường ray song song, những thanh tà vẹt còn mới, mặt sân đã được láng xi măng, nhà ga có ba gian lợp ngói nâu nhìn ra sông Hồng. Chỉ có thế, không hàng rào, không trạm thu vé, riêng bãi đổ hàng thì rộng mà cũng chỉ là nơi rải cấp phối không lấy đâu ra bê tông. Hai người đàn ông, người khoác áo tơi đi trước, kẻ gánh sọt khoai theo sau, lẫn vào đám khách xuống tàu ra ga đi về phía bến đò Chanh. Trời sâm sẩm tối. Người đàn ông ít tuổi hơn trao vội gánh khoai cho một quán lá bên đường nhận lại mấy hào Đông Dương rồi xuống bến. Chuyến đò vừa cập bãi bồi. Trời mưa lâm thâm, đò vắng, mấy cô thôn nữ đi chợ phố về ngồi túm vào một góc thuyền. Con đò từ từ quay đầu sào vượt ngược dòng sông trước khi nó được chủ lái thả xuôi sang bến Chanh. Người đàn ông ít tuổi thủ thỉ:
- Anh ạ, theo kế hoạch, anh lên bờ, đầu đội mũ cọ, vai đeo túi vải, một mình đi theo đường mòn phía tay trái, khoảng một trăm mét sẽ gặp một phụ nữ áo nâu cầm nón, anh theo cô ấy đến một nhà dân, cơ sở sẽ đón và báo cáo tình hình với Xứ ủy.
Người đàn ông trung niên thấp lùn gật đầu rời con đò, rẽ về lối trái, còn người đàn ông trẻ hơn bước lên lều cọ nơi dành cho khách đợi đi đò, anh đứng đó như để chờ chuyến sang sông. Hai mươi phút sau, bóng anh khuất dần vào rặng tre ven đồi.
- Thưa anh, anh là…
- Cứ gọi mình là Quốc cho thân mật. Mình nói luôn nhé. Xứ ủy đặt tất cả hy vọng vào các anh, thời gian ít lắm, chỉ hai đến ba tháng, các anh phải có được kết quả tốt nhất.
- Nghĩa là…
- Nghĩa là phải xây dựng được cơ sở Việt Minh, cơ sở cách mạng ở vùng này.
Bất chợt Quốc ngẩng nhìn thẳng vào người thanh niên đang ngồi đối diện, dưới ánh lửa bập bùng, khuôn mặt chàng thanh niên gầy hơn nhiều so với mấy tháng trước khi mà anh em chia tay nhau ở Tiền Hải, Thái Bình.
- Hiền Lương, Vân Hội, Vần, theo chú nên chọn đâu?
- Tổng Đại Lịch kéo dài đến tận Bảo Hưng, từ ngày chánh xứ cho lập Lương Ca, dân vùng này chăm chỉ làm ăn hơn.
- Nghĩa là diện tích khoai lang của các chú đã được mở rộng? - Quốc cười hài lòng.
- Vâng, đúng thế. Anh em chúng tôi đã “nắm” được dân, “nắm” được cả hào lý nữa.
- Thế thì tốt. Nhưng Quý này…
Người thanh niên khuôn mặt gầy gò, thân hình cao dỏng, có tên là Quý, sáu tháng trước đã cùng anh Quốc, và anh Trần Đăng Ninh ngồi bàn luận ở vườn hoa Thái Bình, rồi Quý nhận nhiệm vụ dẫn đầu tốp nam thanh niên lên khai hoang miền núi, buổi chia tay các anh ngay mấy ngày sau đó tại bãi biển Tiền Hải thật cảm động. Lên Phú Thọ, Yên Bái, nhóm thanh niên chia nhỏ, người ở lại Hạ Hòa, người vào Vân Hội để đến bây giờ ngồi trước mặt anh là “đồng chí Quốc” (Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Quốc Việt), Quý có vốn liếng để báo cáo.
Quý (tức Trần Quý Kiên) ngẩng nhìn anh Quốc:
- Thưa anh, tôi nghĩ rằng cách mạng có thể phát triển ngay từ đất Hạ Hòa, rồi cuốn chiếu vào phía tây, nếu điều kiện thuận lợi, ta chọn chánh hội Nang Sa Đặng Bá Lâu hoặc chánh tổng Lương Ca Trần Đình Khánh làm cơ sở để tập hợp các hào lý địa phương hướng họ ủng hộ rồi đi theo Việt Minh.
Quốc trầm ngâm:
- Thế còn Mẫn, ý kiến anh thế nào?
Mẫn (tên thường gọi Hoàng Mẫn Tuệ), tức Ký Thọ - con trai cụ thổ hào Đề Kiều, một sĩ phu Phú Thọ theo cụ Nguyễn Quang Bích kiên quyết chống Pháp ở Phú Thọ, Yên Bái và Tây Bắc. Mẫn còn là một chủ đất Hạ Hòa, khá am hiểu vùng này, đã từng bị Pháp bắt nhốt căng Nghĩa Lộ vì lý do chống lại nhà chức trách, Quý đã lôi kéo được Mẫn, giờ đây ông được tổ chức tin tưởng giao cho trọng trách lớn là chọn căn cứ cho cách mạng, lại được đích thân một “cán bộ Việt Minh cấp trên” hỏi ý kiến. Mẫn quả quyết:
- Nếu cấp trên lựa chọn dải đất này làm căn cứ thì đó cũng là ý nguyện của cha tôi và cụ hiệp thống Nguyễn Quang Bích.
Quốc vỗ vai Mẫn cười cười đứng dậy:
- Xong rồi đấy. Mai anh Mẫn cho tôi vào Vân Hội. Còn Quý, anh chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới.
Mâm cơm trên tấm phản chủ nhà đã nguội lạnh, ba anh em, ba người đồng chí, mỗi người làm tạm một bát rồi chủ nhà đưa “đồng chí Quốc” ra lối vườn phía sau. Đêm không vào tuần trăng sương xuống sớm, tối mù mịt.
Quý và Mẫn trằn trọc không sao ngủ được. Trong mấy anh em Thái Bình lên đây “khai hoang”, giờ chỉ còn Quý. Người ngã nước phải trở lại quê, người được tổ chức tăng cường đi nơi khác, nhưng chú ý nhất là Trạch (Nguyễn Quang Trạch), anh hơn tuổi được cử làm nhóm trưởng, đến Yên Bái, Trạch phân công Quý vào Vân Hội, Trạch đi Hiền Lương. Hiền Lương giáp ranh thị trấn Hạ Hòa, bọn mật thám, tề, ngụy luôn để mắt và truy nã, Trạch đã nhận trọng trách đó. Quý láng máng hiểu Trạch là người có chân trong tổ chức nên vừa quý trọng, vừa thừa hành. Bây giờ thì Trạch không còn ở bên, một mình Quý phải lo việc lớn, dựa vào Mẫn, Mẫn đến sau nhưng hiểu biết vùng đất và hăng hái. Chỉ ngày một ngày hai thôi, Quý nhận nhiệm vụ mới, liệu Mẫn có đảm đương được tất cả? Càng nghĩ, Quý càng tỉnh táo. Mẫn đã khe khẽ ngáy.
Anh Quốc phân công thì phải chấp hành. Quý ở lại Hợp Minh mấy tiếng đồng hồ, nghe ngóng không thấy động tĩnh gì, anh mới trở về Nang Sa. Chánh hội Đặng Bá Lâu không biết chuyện Quý đi gặp Quốc nên nói ngay:
- Ở Minh Quân, người ta đang kháo nhau có ông lớn nào từ dưới xuôi lên.
- Rồi sao nữa?
- Chánh sứ cho lính kiểm tra nhà ga Yên Bái, đóng cửa đề-pô.
Quý thủng thẳng:
- Tôi cũng nghe thế, chắc là đồn đại đấy thôi.
Bất ngờ Quý hỏi lại chánh hội:
- Thế nếu lính sứ kiểm tra Nang Sa thì sao?
- Tôi đã có cách - Bá Lâu quả quyết.
Quý mỉm cười, anh thấy mình như được sống giữa lòng dân Nang Sa, nơi anh từng cuốc đồi lật cỏ với họ, từng trồng sắn tra ngô với họ. Và anh thấy gần gũi thân thiết với cả những kỳ hào như phó lý Đương, chánh hội Đặng Bá Lâu, kỳ mục Thiện, họ khoác áo chức sắc của chế độ phong kiến, nhưng cái tâm cái trí đang dần ngả theo cách mạng.
Ngay chiều hôm đó Quý nhận được giấy báo: “Điều ông Trần Quý về làm trưởng đoàn khai hoang tại châu Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Ký tên: Quốc”.
Biết là chủ trương của đoàn thể, không thể trù trừ, Quý chỉ kịp soạn mấy đồ tư trang, ghé chào phó lý Đương, chánh hội Đặng Bá Lâu, rồi xuống đò Văn Phú, xuôi Hậu Bổng về Hạ Hòa. Tổ chức Việt Minh ở Hiền Lương, ở Minh Quân đang được nhen nhóm.
Mẫn và Hoàng trong vai người làng Vân Hội đi đón bác họ về thăm quê. “Đồng chí Quốc” đeo một bị cói bánh kẹo bước nhanh theo hai anh em, lúc không có ai ngược chiều, ông lại hỏi Mẫn, rồi hỏi Hoàng. Hoàng là người Tày, mới mười bảy tuổi nhưng theo bố đi cúng khắp các xã trong tổng nên rất thông thạo đường ngang ngõ tắt. Mẫn và Hoàng đưa ông Quốc ngược Ngòi Chanh, ngược đèo Giang đến một thung lũng, nơi đó chỉ có vài chục nóc nhà sàn nằm rải rác theo hai sườn đồi. Trời bất chợt buông trận mưa rào, lũ ống ào ào đổ về. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo trở thành suối nước giữa lưng núi cây cối um tùm rủ xuống mặt đất, cả vùng đồng trắng nước trong không có bóng người qua lại. Từ lời giới thiệu của Mẫn và Hoàng, Quốc hình dung ngay miền đất xa lạ mà lần đầu tiên ông đặt chân đến trong chiều mưa tầm tã. “Đồng chí Quốc” vỗ nhẹ vào vai Mẫn:
- Đây có thể là chiến khu.
Mẫn khẽ gật đầu. Ba anh em ra đến Nang Sa, trời đêm không thể đi được nữa, đành phải vào một nhà dân xin ngủ nhờ. Tang tảng sáng Mẫn và ông Quốc sang đò sông Hồng, rồi lại trở lại và đi về phía Xuân Áng. Rồi lại từ Xuân Áng, xuống bến đò Cát, vượt sông Thao sang Hạ Hòa. Giờ thì Quốc không cần phải “hóa trang” nữa, Quốc hay “đồng chí Quốc” đều là Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Quốc Việt. Với tư cách Thường vụ Xứ ủy, ông triệu tập và đang chủ trì cuộc họp bí mật ở một xóm nhỏ bên bờ sông Thao.
- Anh Quốc, lại được gặp anh ở đây! - Quý reo lên.
- Từ từ thôi, vùng tự do thật nhưng vẫn chưa được hò reo thoải mái đâu nhá!
Quý khẽ lặng yên, Mẫn đứng bên cười ý nhị.
- Ta vào việc luôn nhé - “Đồng chí Quốc” dang tay mời mọi người ngồi xuống những chiếc ghế không tên, ấy là các viên đá có mặt phẳng, những mẩu gỗ lũa trôi sông, bẻ nắm lá đao lót xuống ụ đất rồi ngồi tỳ lên, ông thèm một cái ngả lưng nơi đồng lúa thì con gái bên dòng phù sa yên ả. Cái đẹp của trời thu, mùa thu năm 1942, với ông, hào hứng và lãng mạn - Được Tổng Bộ ủy thác, tôi đã đi sâu vào đường đất phía tây, lại nghe anh Quý, anh Mẫn cân nhắc và góp ý, tôi quyết định chọn dải đất Hiền Lương, Vân Hội, Đại Lịch nghĩa là một phần dân của hai tổng Lương Ca và Đại Lịch làm cơ sở hình thành Khu Bộ Việt Minh, từ đó phát triển mặt trận ra toàn phía Tây Bắc. Thời gian thì gấp, mà ta phải làm nhanh, làm chắc tạo bằng được cánh cung đỏ ở vùng này.
Đào Duy Kỳ, Nguyễn Quang Trạch, Trần Quý Kiên và Hoàng Mẫn Tuệ, tất cả đổ dồn con mắt vào “đồng chí Quốc” như một sự quả quyết và hy vọng.
- Các đồng chí không còn ý kiến gì nữa, tôi xin giao trọng trách lớn này cho anh Mẫn. Anh Hoàng Mẫn Tuệ, anh thấy thế nào?
Mẫn đứng dậy:
- Anh Quốc, tôi sẽ hết sức cố gắng hoàn thành nhiệm vụ mà Tổng Bộ giao cho.
- Anh có yêu cầu gì không? - Quốc hỏi.
- Nếu được, xin Tổng Bộ tăng cường một đồng chí ở tầm Trung ương Bộ - Mẫn đáp.
- Thì đây, anh Trạch đây, con rể đồng chí đấy - Quốc cười. Tất cả cùng cười. Nguyễn Quang Trạch - Xứ ủy viên, là con rể của Hoàng Mẫn Tuệ, vừa thấy vui vui, vừa cảm giác được sự lo lắng cho cha. Tuổi ông đã cao, lại là nhân sĩ, chưa phải đảng viên cộng sản, liệu ông có đủ sức?
Như thoảng thấy điều gì, “đồng chí Quốc” dịu giọng:
- Nói vui vậy thôi, Tổng Bộ sẽ tăng cường cho căn cứ một đồng chí, nhưng đường đi nước bước ban đầu vẫn phải là ở anh, anh Mẫn ạ. Thôi ta giải tán nhé.
Năm cái bóng tròn đi dưới nắng trời mùa thu, tản dần vào bãi ngô, vào ven đê đầy ắp chuối và mía. Nào cào cỏ, nào nón lá, quang gánh. Họ là những cán bộ Việt Minh chân đất ngay sau lưng Chánh sứ Yên Bái. Ngày ấy, nhằm tháng 11 năm 1943.
Hoàng Mẫn Tuệ cứ thấy day dứt, đêm đã xuống sâu, miền núi một ngày bốn mùa. Kéo chiếc chăn chiên mỏng phủ ngang ngực, Mẫn hồi tưởng đến cuộc chiến mới. Thời cha của ông, cụ Đề Kiều, Hoàng Văn Thúy, theo Tướng quân Nguyễn Quang Bích sau thất thủ Hưng Hóa, kéo nhau lên Tây Bắc lập căn cứ Cần vương chống Pháp ở Nghĩa Lộ, nghĩa binh Hiệp thống rầm rập rầm rập. Những cái tên: Thu Cúc, Đại Lịch, Thượng Bằng La, Văn Bàn còn tươi rói chiến công, vậy mà chỉ sau bảy tám năm, Pháp đã san phẳng, Chủ tướng Nguyễn Quang Bích qua đời, Bố Giáp hy sinh, các Đốc binh, Lãnh binh, lần lượt sa vào tay giặc, kẻ đầu hàng, người về quê, im hơi lặng tiếng. Cha ông, cụ Đề Kiều cánh tay phải của Ngư Phong tướng quân cũng chung số phận, ông chọn con đường giải ngũ rồi mang theo mối uất hận thủy chung với chủ tướng mà xuống tuyền đài. Cuộc chiến hôm nay không ồn ào như cha ông mấy chục năm trước, cũng không gươm đao, không voi ngựa. Lạ lắm, “đồng chí Quốc” chỉ nói làm cho dân tin, dân theo, xóa bỏ Chánh sứ, xóa bỏ làm thuê nghèo đói, dốt nát.
Gà gáy canh một! Thì ra mình còn thức? Mẫn cố gắng nhắm mắt. Đêm lành lạnh.
Cuộc họp đồi ngô đã qua đi mấy ngày mà không thấy động tĩnh gì. Mẫn vẫn canh cánh lời anh Quốc, sẽ có “đồng chí” về giúp. À, thì ra mình phải lo trước, đường đi nước bước mình phải lo trước, anh Quốc dặn rõ ràng thế.
Ngẫu nhiên hay có chủ ý, tri phủ Hạ Hòa ra lệnh cho các lý trưởng đưa lính đi lùng sục mấy làng suốt từ Đoan Thượng lên Hậu Bổng, nơi thì dõng binh, chỗ là lính lệ, làng xã vừa xong vụ gặt tháng mười lúa khô lúa ướt còn đang đổ đầy nhà, phơi đầy sân. Không tìm thấy những người lạ mặt, bọn lính quát nạt hạch sách đủ điều. Bên kia sông Thao như vẫn im ắng. Mẫn một mình xuống Động Lâm, rồi lại ngược Hiền Lương nghe ngóng. Đúng là có sự yên ắng.
- Anh Mẫn!
- Trần Quang Bình, khỏe không? - Mẫn ngoắt mình lại.
- Em vẫn thế.
- Sao bảo đi làm thuê ở đâu cơ mà.
- Vâng, em mới về - Trần Quang Bình nhìn quanh rồi nói nhỏ dường như chỉ đủ cho Mẫn nghe - Tổ chức cử em về tìm gặp anh!
- Gặp tớ?
- Vâng - Trần Quang Bình đáp.
- Tớ có biết tổ chức nào đâu?
Trần Quang Bình cười:
- Anh là người của tổ chức rồi đấy. Tổ chức anh Quý ấy mà.
- Thế chú là…
- Vâng, tổ chức đã đặt cho em tên mới rồi: Trần Tùng. Ở làng Nang Sa, em vẫn là Trần Tùng. Em được anh Quý cử về tìm gặp anh, anh em mình cùng lo đón một cán bộ Việt Minh do tổ chức điều về đây - Trần Quang Bình nói.
- Vậy là… Bây giờ phải như thế nào? Phải làm gì trước? - Mẫn dồn dập hỏi.
- Anh lo giúp em việc này, việc này… - Trần Tùng kéo Mẫn ngồi xuống bờ đê. Ven đê, mấy con trâu nhà ai đang đủng đỉnh gặm cỏ.
Người cán bộ Việt Minh ấy có tên là Ngô Minh Loan, trong các buổi gặp gỡ, diễn thuyết, hay đi cơ sở thì lại có tên Quang Minh. Ông là phái viên của Xứ ủy, từng nằm nhà tù Sơn La, cai ngục đánh đập mà không khai thác được gì đành phải thả. Ra tù tổ chức giới thiệu Quang Minh với Xứ ủy, liền ngay sau đấy anh gặp Xứ ủy viên Trần Quốc Hoàn, và Tổng Bộ điều ông lên Yên Bái với mục đích xây dựng căn cứ Việt Minh miền Tây chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa sau này.
Lời của Trần Tùng, Mẫn hình dung Quang Minh là một người cao to, kiên định và nhiệt huyết với công việc cách mạng. Ông sốt ruột chờ đợi. Rồi Mẫn lại lơ mơ hình dung Trần Tùng là một Trần Quang Bình nào đấy làm lớn ở tổ chức. Dẫu sao thì Trần Tùng hay Trần Quang Bình vẫn là người quê. Kia rồi, con đò đang chèo ngang sang bến Đan Hà. Trần Tùng ngóng nhìn nhưng cố giữ vẻ ngẫu nhiên. Mẫn theo dõi cử chỉ của chú em người làng, phiêu bạt kỳ hồ ở đâu tới mấy năm giời, giờ mới đột ngột xuất hiện, mà lại xuất hiện trong lúc ông đang được những người đáng trọng như ông Quốc, như Quý giao nhiệm vụ.
Người đàn ông cao to, có khuôn mặt vuông vức, trong bộ đồ giáo làng, đang trả tiền đò. Trần Tùng tưởng tượng phút giây đầu tiên giữa Quang Minh và Mẫn mà anh là người có trách nhiệm khâu nối.
- Anh Mẫn ạ, người ấy kia rồi. Em sẽ giới thiệu với anh rồi ta vào làng luôn.
Trần Tùng và Mẫn bước chậm. Dưới bến, Minh cũng vậy, cốt là đợi khách đi đò tản ra các ngả.
- Chào ông giáo học - Trần Tùng lên tiếng.
- Vâng. Chào anh.
- Chủ nhà đây, đã đến sớm đợi đón thầy.
- Vâng, vâng, cảm ơn, cảm ơn gia chủ.
Trần Tùng đưa tay đỡ túi vải lỉnh kỉnh đồ dạy học, còn Mẫn, sau lời chào hỏi theo ám hiệu của Trần Tùng, ông đón nhanh Quang Minh rời bờ đê, rẽ vào làng Đan Hà.
- Ta đi một đoạn nữa đến làng Nang Sa, ở đó có anh Trọng, có giáo Quỳ, làm việc luôn - Trần Tùng nói.
- Cũng được - Quang Minh đáp.
Làng Nang Sa nằm sát chân núi nhìn ra con sông Thao, còn gọi là sông Hồng, đất đai màu mỡ lúa ngô trù phú. Chánh hội Nang Sa Đặng Bá Lâu là người hiền lành, thương kẻ nghèo khó, nên khi được vận động giúp đỡ cách mạng, ông nhận lời ngay và hăng hái làm người dẫn lối.
Mọi người đã tề tựu. Giáo Quỳ tức Nguyễn Đức Quỳ, gia sư bên Hưng Khánh, một lần chánh tổng Lương Ca Trần Đình Khánh sang chơi nghe nói có giáo Quỳ, liền mời về làng Vần làm gia sư cho con cháu trong nhà. Tại làng Vần, Nguyễn Đức Quỳ làm thân với Trần Đình Trọng, em trai ông chánh Khánh, Trọng kéo thêm Đinh Hàm, Hàm cũng đã học đến Ê-lê-măng-te ở trường Động Lâm, được mời làm gia sư nên mọi người quý mến mà gọi là giáo Hàm. Cùng dạy học kiếm cơm, Nguyễn Đức Quỳ có ý đưa Hàm vào tổ chức, rồi cùng Trọng vận động chánh tổng Khánh ủng hộ việc làm của mình, của Trọng, của Hàm, câu chuyện thuyết phục vị chánh tổng người Tày đang được hướng tới thì có chỉ thị lo đón cựu tù chính trị Quang Minh về nằm vùng với mục đích khảo sát để nhanh chóng xây dựng cơ sở cách mạng nơi đây. Thật là thiên thời, địa lợi, nhân hòa đang đến gần.
Quang Minh bước nhanh lên một bước ngang đường với Mẫn, nói nhỏ:
- Tổ chức và anh Quốc gửi lời thăm anh đấy.
- Thế ạ. Tôi thấy quý anh Quốc, anh ấy hiền lành gần gũi, nhưng khi vào công việc thì quyết đoán quyết đáp - Nghĩ đoạn, Mẫn nói tiếp, câu nói như hỏi dò - Tôi hình dung anh Quốc là người giữ chức lớn ở Trung ương?
Quang Minh:
- Có thể như vậy, anh và tôi, cũng như những người sắp gặp nhau đây, đều phải bằng mọi cách làm thật tốt công việc mà “đồng chí Quốc” giao cho. Anh Mẫn cũng nghĩ như vậy chứ?
Là con trai sĩ phu yêu nước từng là đệ tử của Quân vụ đại thần Hiệp thống Bắc Kỳ, ở tuổi trung niên, Mẫn được nghe những lời thân thiện từ một người tù chính trị, người ấy có thể sẽ là vị chỉ huy của mình, ông có cảm giác khoảng cách giữa nhân sĩ với cách mạng đã gần lại, ngày một gần lại.
Chánh hội Nang Sa trong bộ quần áo dài thâm chạy ra tận cổng. Trần Tùng giơ tay ra hiệu không thủ tục lễ nghi, nên giới thiệu ngay:
- Anh Quang Minh, cán bộ Việt Minh, trên cử về giúp ta. Mọi việc đường đi lối lại nhờ ông chánh hội lo liệu.
Bá Lâu khẽ gật đầu, cả nhóm khách đi nhanh vào nhà chính.
Nhà ông chánh hội làm bằng gỗ xoan, bốn phía cũng lịa ván xoan, lợp cọ. Đất trung du có ngôi nhà năm gian vững chãi thế, ở mấy đời người. Ông chánh Lâu là con trưởng giữ chân thờ phụng tổ đường, nên mặt tiền dưới chân hương án đặt tấm sập lớn bằng gỗ dẻ, hàng đồ nho, hào lý, bậc huynh lão đệ lão, mới được xếp bằng tròn trên bộ sập dẻ lúc nhâm nhi trà tửu, lúc cà kê tông đường. Còn bây giờ người nhà chánh hội Nang Sa đang đặt ngay ngắn trên bộ sập một mâm cơm. Nói là mâm cơm tiếp khách quý nhưng chỉ có chai rượu, hai đĩa lạc rang, gắp thịt lợn nướng theo kiểu nhà quê, cỗ bánh gai đã qua ngày rằm, nắm rau sống.
- Các đồng chí! - Quang Minh chậm rãi - Cho tôi được gọi tất cả chúng ta đây là “đồng chí”, đồng chí của tổ chức Việt Minh, là người của “đồng chí Quốc”.
Mâm cơm như lặng im, những đôi đũa tre ngâm bùn đen nhánh đặt ngay dọc bên những chiếc bát sành hoa văn vẽ nét nửa kim nửa cổ.
- Hôm nay - Quang Minh vẫn nhẹ nhàng, nhưng sắc thái có gì hăm hở nhiệt huyết, ông nhìn Mẫn, nhìn Trọng rồi quay sang giáo Quỳ - Hôm nay tôi và anh Nguyễn Đức Quỳ đây, thay mặt tổ chức tuyên bố thành lập Chiến khu cách mạng Hiền Lương, mà các đồng chí là những cán bộ Việt Minh đầu tiên gây dựng sự nghiệp ở nơi đây. Anh Quốc, “đồng chí Quốc” đã đi lại nhiều lần, tìm hiểu kỹ, “đồng chí Quốc” mong đợi chúng ta làm nên một “cánh cung đỏ” - cánh cung cách mạng ở miền Tây Bắc, bắt đầu từ đất mẹ Âu Cơ này.
Lời Quang Minh sâu sắc, hừng hực, ấm áp. Giáo Quỳ, giáo Hàm, rồi Mẫn, Trọng, cả chánh Lâu, những người hiểu chữ Nho, có chữ Nôm, rõ chữ Pháp, lại rành rẽ Quốc ngữ, mà vẫn thấy hấp dẫn, cả nể. Trọng nghĩ trong bụng, may quá dân mình có cán bộ rồi, anh nghĩ ngay đến người anh cùng cha khác mẹ, anh Trần Đình Khánh. Ngày tách khỏi tổng Đại Lịch, lập tổng Lương Ca, chánh sứ Yên Bái đích thân trao cho anh tờ dụ, bổ chức chánh tổng, từ đấy anh có tên tuổi riêng: Chánh tổng Lương Ca Trần Đình Khánh.
Quang Minh đột ngột đổi giọng:
- Anh Trọng đang nghĩ về quê hương làng Vân Hội mình phải không? - Rồi ông cười, vỗ nhẹ vào vai anh bạn trẻ.
Trọng giật thót: “Người này đọc được cả ý nghĩ của đối phương. Cao nhân đây!”.
Giáo Quỳ từ đầu đến giờ ngồi lặng lẽ, thật ra, ông không phải là giáo học vì không được học trong các trường dòng của Tây, nghĩa là chuyên nghiệp về dạy học. Từ ngày con trai Nguyễn Phi theo cách mạng rồi bị Pháp bắt, đày lên ngục Sơn La, Nguyễn Đức Quỳ như muốn làm điều gì đấy để cứu con, nhưng bất lực. Có ông bạn người làng làm giáo học rủ: “Thôi, đi với tớ, dạy dỗ trẻ con cho khuây khỏa!”. Thế là ông đi, làm gia sư, làm tuyên truyền, rồi đi theo cách mạng lúc nào không biết. Bây giờ ngồi đây, trong bữa cơm trá hình giữa nhà chánh hội Nang Sa, tự nhiên ông trở thành nhân vật thứ hai sau Quang Minh - những người khởi đầu xây dựng chiến khu cách mạng miền Tây Bắc này.
Giáo học Nguyễn Đức Quỳ cầm trên tay cuốn sổ khâu chỉ, nhỏ bằng nửa tờ vở học trò, cuốn sổ chép diễn ca “Lịch sử nước ta” của cụ Già Thu, chữ ông đều đặn, khoáng đạt, đủ thấy sự cẩn thận, kỹ lưỡng mà cũng rất tiên quyết của ông.
- Anh Quang Minh yên tâm, tôi và anh Trọng làm được việc đó - Giáo Quỳ nhẹ nhàng trả lời.
Quang Minh nhìn mọi người, mỉm miệng cười rồi nhẹ tay cầm chén rượu mà chánh hội rót từ bao giờ.
- Thế là kết quả rồi đấy. Nào, ta nâng chén chúc nhau sức khỏe rồi chia tay tại đây, mỗi anh em mình mỗi việc, thận trọng và tích cực, tổ chức và “đồng chí Quốc” đang chờ đợi thắng lợi của chúng ta.
Bữa “cơm khách” lặng ngắt mà ai ai cũng cảm thấy ấm trong lòng. Lời cán bộ Quang Minh - một cựu tù chính trị, đầy sức thuyết phục, giọng diễn ca “Lịch sử nước ta” của giáo học Quỳ như lời hịch, lời thề rót vào lòng người giữa ngày thu mênh mang trời đất.