Đằng sau bụi cây có ánh mắt sắc như dao hiện ra trong kẽ lá nhìn hai người đàn ông mặc quân phục Lào vẻ hồ nghi. Ông già Vân Kiều tuổi ngoài 60 thì thào:
- Biệt kích, gián điệp hay bọn buôn lậu ma túy mới tới đây. Có thể chúng giấu điện đài hay ma túy trong hang. Con chạy nhanh về báo cho Ksor Bloai chỉ huy dân quân xã, bảo già Rơ Chăm Him bảo mang nhiều quân đến bắt.
Già Rơ Chăm Him khẽ gạt cành lá nhìn người đàn ông lớn tuổi đang nói gì đó với cậu thanh niên. Ông già cảnh giác lấy cây ná trên vai xuống dùng chân đạp cánh từ từ giương cung, đặt mũi tên tẩm độc vào rãnh...
Trên tảng đá Chan Hua đang tiếp tục câu chuyện với con trai:
- Năm ngày sau ba đủ sức lên bàn phẫu thì bà Nga đã ra đi nhận nhiệm vụ mới. Đứng truyền máu cho ba là một y tá khác già hơn. Ba đưa mắt nhìn quanh tìm khắp phòng phẫu. Ông bác sĩ hiểu ý, bảo: “Tìm y tá Nga hả? Sớm cổ nhận lệnh vô tuyến trước rồi”. Vậy đấy, bà ra đi nhận nhiệm vụ mới, chắc hẳn cũng chưa kịp rõ tên người mình hồi sinh.
- Thời của ba hay thật đó. Giờ chắc ít người làm được vậy.
- Đừng vội kết luận. Đất nước lâm nguy con người chỉ một mục tiêu cứu nước, cứu đồng đội để chiến thắng kẻ thù, chẳng bao giờ băn khoăn cho mình. Ba nghĩ nếu thế hệ con rơi vô tình huống đó thì cũng ứng xử vậy thôi.
Hai cha con đứng dậy cầm dao đi vào trong hang. Ông già Rơ Chăm Him thấy hai người lạ vào hang thì tin chắc mình đã phán đoán đúng. Ông sốt ruột ngóng về phía suối.
- Sao mãi không thấy Ksor Bloai đem quân đến?
Nghĩ vậy ông Rơ Chăm Him nhẹ nhàng tiến lên phục sau tảng đá lớn trước cửa hang. Chan Hua bấm đèn pin dẫn con vào hang, chỉ cho con bàn phẫu nơi ông đã nằm, giường bệnh nơi cứu chữa. Hai cha con bùi ngùi đứng lặng nhìn phế tích. Đại tá soi đèn xung quanh tìm kiếm. Hình ảnh y tá Nga đứng cuối giường bám tay lên nhũ đá hát. Chan Hua quyết định chặt lấy mảnh nhũ đá nơi bà Nga từng bám tay đứng hát cho ông nghe, coi đó như một kỷ niệm thiêng liêng. Chan Hua bấm đèn cho Chan Da dùng dao chặt đá. Bỗng một tiếng hô dõng dạc vang lên:
- Đứng im! Giơ tay lên đầu.
Lập tức mấy chiếc đèn pin bật sáng chiếu thẳng vào mặt hai cha con và xung quanh sáu, bảy mũi súng chĩa vào. Hai cha con làm theo mệnh lệnh. Mấy cây đuốc được thắp lên chiếu sáng khoảng hang rộng. Chan Hua nhìn thấy khoảng chục người vũ trang súng và dao đi rừng vây quanh, nhận ra họ là dân quân địa phương chứ không phải bọn cướp. Đại tá tự tin lên tiếng:
- Tôi là bộ đội Quân giải phóng Lào đây mà các đồng chí.
- Quần áo không nói lên cái bụng con người.
- Bộ đội Lào vào đây làm gì? Có vũ khí không nộp ra?
- Tôi không mang vũ khí. Chỉ có hộ chiếu và chứng minh thư quân đội.
Chan Hua và con trai hạ tay xuống. Ông già Rơ Chăm Him soi đèn vào vết nhũ đá chặt dở, kêu lên:
- Ksor Bloai coi nè, họ định lấy miếng đá này?
- Ông lấy làm gì?
- Làm kỷ niệm.
- Siu Pơi giúp ông ấy lấy mảnh đá. Mang cả về ủy ban rồi tính sau.
Đoàn người nối nhau đi ra khỏi hang xuôi theo dòng suối nhỏ. Họ dẫn nhau về bản.
Đại tá cùng già bản Rơ Chăm Him, chỉ huy dân quân Ksor Bloai và mấy già bản khác ngồi bên hũ rượu cần xem bọn trẻ múa hát, chuyện trò. Ksor Bloai:
- Trong chiến tranh hàng ngàn người đã qua đây, nhưng đại tá là người đầu tiên trở lại.
Mấy già bản gật gù đồng tình.
Chan Hua nhìn ánh lửa bập bùng tư lự. Già Rơ Chăm Him vít cần rượu đưa vào tay Chan Hua, vít một cần khác cho mình, giơ tay mời mọi người. Ksor Bloai cùng mọi người vít cần hút rượu. Già Rơ Chăm Him tư lự:
- Ngày chiến tranh người đưa tới hang đều trong tay thần chết cả. Ông muốn tìm người bác sĩ cứu ông hả?
- Không phải bác sĩ, chỉ là cô y tá. Y tá tên Nga, tóc dài, mắt to tròn đưa tôi từ hang chết trở lại cấp cứu, cho tôi sống tới ngày nay.
- Mà ông nói người cứu ông là y tá Nga có mái tóc dài?
- Đúng vậy! Già biết y tá Nga?
- Các già, Siu Phung nè, ông đây tìm y tá Nga, người đã cứu cả buôn mình khỏi thần rừng ác năm 1972 đó.
Già Rơ Chăm Him nhớ lại:
Bãi đất bằng đầu con thác nước đổ ầm ầm. Rah Lan Rin cho dựng đàn cúng ma bằng những thân tre, lồ ô ghép lại. Con dê sống buộc một chân đàn, con lợn sống buộc chân bên kia. Trên đàn là gà luộc, gà nướng, vò rượu cần và hoa trái. Tiếng chiêng trống âm vang hòa cùng thác nước ào ào. Cả trăm dân làng từ cụ già đến trẻ nhỏ phủ phục trên đất. Thầy cúng Rah Lan Rin mặc khố thêu đứng trước đàn cúng, hai tay vái lên trời nhảy lò cò một chân, quay bốn phương tám hướng hú lên những tiếng hú dài. Thầy cúng hét lên một tiếng lớn, nhập thần. Chiêng trống ngưng cả lại. Rah Lan Rin đọc lời khấn:
“Hỡi Giàng mẹ, bố, bà, ông, chúng tôi muốn khấn cham đây, các người về ăn gan lợn gan dê. Chúng tôi dựng làng nơi đây, đất mới, tránh mọi tai họa...”.
Chu Thị Nga hăm hở chạy đến la gọi: “Ơi dân làng, dịch sốt rét hại dân làng chớ không phải Klin gây bệnh đâu”.
Dân làng không ai nghe Nga, cứ phủ phục dưới đất lấm lét nhìn vẻ sợ hãi. Thầy cúng Rah Lan Rin vẫn đọc tiếp lời khấn vái:
“Chúng tôi muốn cúng lợn dê, bay về nếm dê lợn gà, đừng gieo chết, ốm, đừng gieo sốt, nóng rét, hãy bảo cho khỏi, lành, lên mát... Tôi muốn cúng lợn gà cởi nợ cho cả làng. Giàng sơđre lấy lợn gà của làng rồi nhé! Xin bằng lòng cho, cho sinh ra lớn đến bạc đầu, dựng lửa dựng nồi nhà này đây, cho khỏe, tránh đậu mùa, dịch tả, làm của được nhiều, đẻ người được tốt, dựng cả lúa gạo, đói có ăn, được ăn lúa phu, lúa phong, hạt sây như mối, nuôi lợn đông như muối, nuôi gà nhiều như kiến”.
Chu Thị Nga bất lực trước sự mê tín của đồng bào, đứng lặng nhìn. Thầy cúng Rah Lan Rin dứt lời khấn liền chỉ Nga hét lên:
- Nó là con ma lai phá hoại lòng thành kính của ta với Giàng. Bắt lấy nó.
Vài ba tên tay chân của Rah Lan Rin hùng hổ đứng lên. Chu Thị Nga không sợ hãi tiến lại trước mặt Rah Lan Rin:
- Ông Rah Lan Rin, ông có đảm bảo ngày mai dân làng sẽ hết ốm không?
Trong khoảnh khắc, ánh mắt Rah Lan Rin sững sờ rồi rất nhanh trở nên kín như bưng. Bất chợt Nga cũng cảm thấy gai người, một linh cảm lạ lùng như cơn sóng thần bất ngờ dội tới chế ngự tâm thức cô. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau. Ông thầy xua tay cản tay chân đang định lao vào hành hung cô y tá. Rah Lan Rin nói tiếng Huế:
- Nếu Giàng không ưng là do sự bất kính của cô đó. Nhưng ta không so đo. Cô cứ việc cho dân làng uống thuốc. Ta cầu xin Yang đâu có ảnh hưởng chi tới thuốc của cô?
Nói dứt lời Rah Lan Rin lẩn vào đám đông rồi cùng tay chân biến mất. Rơ Chăm Him khi đó tầm 30 tuổi chỉ huy dân quân tới thì không thấy Rah Lan Rin đâu nữa. Cả Chu Thị Nga và Rơ Chăm Him tìm mãi mà không thấy. Rơ Chăm Him hỏi mấy cụ già. Một bà chỉ xuống khe sâu dưới thác nước”.
Đống lửa vẫn cháy bùng bùng, ngọn lửa bốc cao tung những tàn đỏ lên trời. Đám thanh niên say sưa nhảy múa hát ca hết bài Lào lại bài Việt.
“Trên sông Mê Kông mùa xuân đã tới bao niềm vui. Mê Kông âm vang gió reo cười sóng dâng hòa theo giống muôn tiếng đàn. Nặng nghĩa tình ta dòng sông thầm nhớ qua những gian truân ba nước chung dòng sắt son một lòng thủy chung. Trọn niềm tin ước mơ mùa xuân rạng rỡ đẹp những mùa hoa và ước mơ đã về cùng ta...”.
Bên tiệc rượu, Đại tá Chan Hua cùng các già làng và chỉ huy dân quân Ksor Bloai vẫn tiếp tục câu chuyện kể về y tá Nga cứu buôn làng khỏi dịch sốt rét.
Chan Hua hỏi:
- Các già có biết y tá Nga sau đó đi đâu không?
- Y tá Nga qua lại với buôn mấy tháng thì đi. Nghe nói đi chiến trường C. Từ đó dân buôn không gặp nữa.
- Y tá Nga là cánh chim trời, nhà nước, quân đội bảo đi là đi thôi. Nó đâu phải dân buôn làng mình mà trở lại.
- Các già có biết y tá Nga người ở đâu không?
- Cái đó thì ta biết. Y tá Nga có kể cho ta nghe, cô người gốc Huế, từng là nữ biệt động thành, sau trận đánh kho đạn bị thương, bị cảnh sát bắt, rồi đồng đội cứu khỏi trại giam đưa lên chiến khu, mới đi học y tá.
- Từ năm 1972 rời buôn Kun không có tin chi của cô ấy nữa à?
Các ông già nhìn nhau lắc đầu. Rơ Chăm Him gật gù:
- Tôi nghĩ chiến tranh kết thúc, y tá Nga còn sống chắc về thành phố. Giờ bà cũng già rồi, không còn sức lên thăm buôn Kun. Ksor Bloai chính là đứa bé được y tá Nga cho uống thuốc đầu tiên đấy.
Ksor Bloai mỉm cười ngượng ngập. Đại tá hỏi thăm:
- Mẹ anh thế nào?
- Bà hơn 70 tuổi rồi không lên nương đi rẫy được nữa. Tháng ning nung nghỉ ngơi vui chơi sau mùa thu hoạch bà nhắc y tá Nga. Nếu ông tìm được y tá Nga rước về buôn Kun thì vui quá. Hai người sẽ là khách quý của buôn cả năm đó.
- Tôi không dám hứa trước điều chi, nhưng nếu tìm được bà sẽ báo tin cho buôn Kun biết.
- Cám ơn đại tá. Lời hứa như đinh đóng cây đó nghe.
Đại tá cười bắt tay Ksor Bloai.
Ngồi trên xe Chan Hua nhớ lại, một đêm trăng dịp tết “Pun hốt nậm1”. Trăng trải trên đồng cỏ, phủ kim nhũ trên những tán thông hình tháp. Gió mơn trớn trên những chùm lá kim lóng lánh. Trên thảm cỏ phẳng dưới những tán thông các chiến sĩ Tiểu đoàn 14 bộ đội địa phương tỉnh Xiêng Khoảng tổ chức múa lăm vông với dân bản. Những gương mặt con trai trẻ trung, gọn gàng trong quân phục Pa thét Lào, mũ cát két lưỡi trai đen chụp hờ trên tóc, phóng túng ngang tàng. Những gương mặt con gái xinh tươi, hiền dịu như mặt trăng cao nguyên, hớn hở trong váy áo ngày hội rực rỡ muôn sắc màu. Trống lăm vông nhịp ba. Ắc-coóc hòa với khèn bè, ghi ta, trống Tân Cương... Những cây đuốc thông bùng cháy. Cô gái Khăm Bang vừa múa vừa hát. Khăm Bang còn trẻ lắm, mới mười bảy tuổi. Tiếng hát Khăm Bang ngọt và say như hơi rượu cần, mảnh và rung như ánh trăng ngần rọi vào cánh hoa chăm pa. Cô kêu gọi tình yêu say đắm. Cô khiêm nhường mà khêu gợi những nhịp rung sâu thẳm của trái tim con trai: “Ối chàng mem nó nang, noọng bố khắp lẩy lăm tơi...”. Đôi cánh tay trần trắng như ngà voi. Đôi bàn tay chúm chúm như đóa hoa chăm pa hé nở. Chàng trai Bua Sỉ trẻ trung hớn hở nhảy ra rung trống Tân Cương múa sau Khăm Bang. Bua Sỉ năm đó chừng hai mươi tuổi, đẹp trai với đôi mắt xếch, mái tóc xoăn, mũ đội lệch ngang tàng vẻ bất cần đời. Khăm Bang uốn người ngửa mặt nhìn Bua Sỉ. Bua Sỉ cười với Khăm Bang càng rung trống mạnh hơn, nụ cười duyên dáng phong tình. Khăm Bang cười với Bua Sỉ, nụ cười ngời lên cả ánh mắt. Cô nhìn anh. Anh nhìn cô. Chan chứa tình đời, tình người... Trai gái quyện vào nhau múa hát. Những bàn tay con gái như rừng hoa chăm pa đua nở. Những cánh tay dang rộng của con trai bồng bềnh như cánh chim thảo nguyên lướt gió. Chan Hua khi đó cũng tròn hai mươi tuổi, ngoại hình, vóc dáng và tính cách khiêm tốn hơn Bua Sỉ. Chan Hua đang múa đôi với cô bí thư chi đoàn thanh niên. Khăm Bang và Bua Sỉ là đôi múa đẹp nhất, khéo nhất. Bua Sỉ khéo léo dẫn Khăm Bang ra ngoài vòng múa rồi cầm tay cô kéo chạy ra xa. Cô cười vang nửa muốn cưỡng lại nửa muốn lao theo. Dùng dắng. Cười cợt. Trẻ trung. Chiếc mũ của Bua Sỉ rơi ra. Tóc hai người xòa bay trong gió. Bua Sỉ kéo Khăm Bang chạy vào bóng thông gần đó. Đột nhiên Bua Sỉ kéo mạnh. Khăm Bang ngã nhào vào ngực anh. Bua Sỉ ôm siết lấy Khăm Bang, gục mặt vào ngực cô thở dốc. Khăm Bang sợ hãi đẩy Bua Sỉ ra. Bua Sỉ siết chặt Khăm Bang, nhìn vào mắt cô đau đáu:
1. Tết té nước của Lào.
- Khăm Bang. Em hãy làm vợ anh. Anh không thể sống không có em.
- Đừng thế. Bua Sỉ biết Khăm Bang sắp làm vợ anh Chan Hua mà.
Bua Sỉ cố ghì Khăm Bang lại. Khăm Bang cố đẩy Bua Sỉ ra. Bua Sỉ rên lên đau đớn:
- Chan Hua còm nhom như con mèo hen.
Khăm Bang tựa vào gốc thông vươn người đẩy Bua Sỉ ra, hét lên:
- Không! Không! Anh Chan Hua…
Chan Hua từ đâu đó nhảy ra trước mặt Bua Sỉ, giận dữ siết chặt hai nắm tay thành nắm đấm:
- Làm con trai sao không thuận lòng con gái?
Bua Sỉ buông Khăm Bang ra, vẻ mặt đau khổ, lúng túng và xấu hổ. Chan Hua nghiến chặt răng bước lại trước mặt Bua Sỉ. Hai chàng trai trong tư thế sẵn sàng đánh nhau. Khăm Bang lao vào ôm lấy Chan Hua vừa mừng rỡ vừa sợ hãi:
- Đừng, đừng... Bua Sỉ là bạn anh mà.
- Cưỡng đoạt vợ chưa cưới của bạn, có còn là bạn không?
- Mày không xứng. Ông trời mù mới xe dây vô tình!
- Phóng đãng vô kỷ luật như mày mới xứng sao? Phí công tao bảo vệ mày trước chính trị viên đại đội. Cho mày chịu kỷ luật cấm trại mới đáng.
- Đi mà hót với bố mày đi. Tao cóc cần!
Chan Hua sấn lại. Khăm Bang cố cản Chan Hua, ôm ghì lấy anh. Hai người con trai gườm gườm nhìn nhau, ánh mắt tóe lửa. Khăm Bang kéo Chan Hua đi. Bua Sỉ nhìn theo nhếch cười chua chát, cừu hận...
Ký ức về tình bạn về người vợ đầu trở lại làm đại tá cảm thấy buồn rầu.