G
hi Lee Atwater đề nghị tôi chuyển tới Washington để giúp chiến dịch tranh cử của cha, tôi đã rất phấn chấn. Thời điểm này rất thuận lợi. Tôi vừa mới sáp nhập công ty dầu của mình vào một công ty lớn hơn. Tôi đang quan tâm tìm kiếm những cơ hội khác. Và không có nguyên nhân nào tốt hơn: George Bush sẽ là tổng thống vĩ đại.
Tôi cũng biết cha sẽ cần tất cả sự giúp đỡ mà ông có thể có được. Cha tôi và tôi đều thích lịch sử, và nhìn vào lịch sử của các đời phó tổng thống tranh cử chức vụ tổng thống, chúng tôi không có nhiều hy vọng. Cha phải tuyên chiến với cái dớp do Van Buren để lại: Từ khi Martin Van Buren đánh bại William Henry Harrison năm 1836, chưa có bất kỳ phó tổng thống nào được bầu vào vị trí của người đã chọn ông ta.
Khi tôi tham gia chiến dịch mùa thu năm 1986, Lee Atwater hỏi tôi muốn có chức danh gì. Tôi tham khảo ý kiến cha, người đã nói với tôi rằng tôi không cần một danh hiệu nào hết. Suy cho cùng, tôi là con trai của cha. Quan điểm của cha là bản thân sự gần gũi với người có quyền lực đã là một quyền lực. Ông đã đúng. Tất cả mọi người tham gia vào chiến dịch biết rằng tôi có thể nói chuyện với ứng viên tổng thống bất cứ lúc nào, và điều đó có giá trị hơn bất cứ chức danh nào. Gần gũi với quyền lực cũng là đặc điểm mà mẹ và Laura thấy hiệu quả trong suốt sự nghiệp của chúng tôi. Mọi người đều biết rằng cha tôi và tôi thường xuyên nói chuyện với họ và tin tưởng vào những quyết định của họ. Vì vậy, khi mẹ hoặc Laura có yêu cầu hoặc đưa ra lời khuyên, các trợ lý của chúng tôi thường đủ khôn ngoan để thực hiện theo nguyện vọng của họ.
Tôi không có danh mục đầu việc cụ thể tại các chiến dịch. Nhiệm vụ của tôi bao gồm kêu gọi quyên góp tiền, phát biểu trong lúc chờ diễn văn chính, đôn đốc các tình nguyện viên, (thỉnh thoảng) đối phó với các phóng viên, đưa ra các đề xuất và xử lý những lời phàn nàn, thảo luận về chiến lược với các trợ lý cấp cao của cha. Tôi tự coi bản thân là một chấp hành viên trung thành, đảm bảo rằng nhân viên của chiến dịch luôn sẵn sàng có mặt để phục vụ George Bush chứ không tư lợi. Có một ví dụ đáng nhớ liên quan đến Lee Atwater. Đầu chiến dịch, tạp chí Esquire xuất bản một bài phóng sự về Lee trong đó có một đoạn phỏng vấn khi ông ta đang trong nhà vệ sinh. Thông điệp đưa ra của các tờ báo biến hình ảnh của Lee thành một cậu bé xấu trong Đảng Cộng hòa - Lee quá quan trọng với George Bush nên chúng tôi nhận ngay ra đây là đòn công kích vào ai. Tôi đã rất tức giận. Tôi đã nói với Lee rằng công việc của ông ta là làm cho George Bush có hình ảnh tốt, thế nhưng ông ta lại không giữ cho bản thân có hình ảnh tốt.
“Nếu ông nghĩ tôi điên”, tôi nói, “ông phải nghe những gì mẹ tôi nói”.
Lee ngay lập tức xin lỗi mẹ và tiết chế hành vi trong giao tiếp với công chúng.
Mùa thu năm 1986, chúng tôi nhận ra chức vị phó tổng thống cho Ronald Reagan sẽ là một tài sản vô hình có giá trị mạnh mẽ trong cuộc ganh đua năm 1988. Tổng thống đã thắng lớn trong cuộc tái bầu cử toàn quốc. Nhưng có một thực tế cứ sau hai năm của mỗi nhiệm kỳ tổng thống: Càng về cuối nhiệm kỳ, dân Mỹ càng có nhiều yêu sách gây mệt mỏi cho tổng thống (Khỏi cần kể với tôi về điều đó!). Những dấu hiệu đầu tiên của sự tuột dốc trong uy danh của Tổng thống Reagan đến ngay trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 1986. Đảng Cộng hòa mất năm ghế tại Hạ viện và tám ghế trong Thượng viện. Lần đầu tiên trong nhiệm kỳ Tổng thống Reagan, Đảng Dân chủ đã kiểm soát cả hai viện của Quốc hội.
Tháng 11 năm 1986, một số tờ báo lên tiếng rằng chính quyền Reagan đã bí mật bán vũ khí cho Iran để đổi lấy sự hợp tác trong giải thoát những con tin người Mỹ bị lực lượng Hezbollah bắt tại Liban. Mặc dù mong muốn giải thoát các con tin là điều dễ hiểu nhưng phát hiện này thật đáng ngạc nhiên. Chính quyền trước đó đã công khai tuyên bố sẽ không bao giờ trả tiền để chuộc con tin. Cộng với việc Quốc hội cấm bán vũ khí cho những quốc gia dung túng cho chủ nghĩa khủng bố, một trong số đó là Iran.
Câu chuyện xấu này gây chú ý, nó nhanh chóng trở nên tồi tệ. Cuối tháng 10, Tổng Chưởng lý Ed Meese tiết lộ rằng hơn một nửa số tiền mà Iran trả cho các loại vũ khí đã được chuyển hướng đến hỗ trợ lực lượng Contras, một phong trào nổi dậy chống cộng ở Nicaragua. Đó là một vấn đề, vì hai năm trước đó, Tổng thống Reagan đã ký một dự luật cấm viện trợ chính phủ cho Contras.
Báo chí mong đợi một scandal tương tự như vụ Watergate, yêu cầu được biết những gì tổng thống biết và thời điểm ông biết điều đó. Chính quyền ban đầu phủ nhận rằng Tổng thống Reagan đã phê chuẩn một thỏa thuận đổi vũ khí lấy con tin nhưng sau đó rút lui và thừa nhận ông đã thực hiện nó. Tổng thống nhấn mạnh rằng ông không biết các thành viên của đội ngũ nhân viên Hội đồng An ninh Quốc gia đã chuyển tiền vào Contras. Cuối cùng, Tổng thống Reagan đã nhận trách nhiệm về hành động của chính quyền và bổ nhiệm một luật sư độc lập để buộc tội những ai đã vi phạm pháp luật. Cố vấn An ninh Quốc gia John Poindexter và Trung tá Oliver North đã bị điều tra và kết luận có tội (nhưng họ đã đảo ngược những lời buộc tội sau khi kháng cáo).
Vụ bê bối này được gọi là tai tiếng Iran - Contra, đưa cha vào một tình thế khó khăn. Trong khi đã biết về việc bán vũ khí cho Iran, ông không hay tin gì về sự chuyển hướng của các quỹ cho Contras. Ông biết báo chí và các đối thủ chính trị sẽ cố gắng đẩy ông vào vụ bê bối. Mặc dù không ai trong số các nhân viên điều tra kết luận rằng ông đã làm điều gì sai trái, bóng ma của Iran - Contra đã ám ảnh ông. Tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Reagan đã giảm mạnh xuống dưới 50% trong những tuần sau khi vụ này bị tiết lộ. Thậm chí tệ hơn, một cuộc thăm dò cho thấy 39% cử tri ủng hộ Đảng Dân chủ năm 1988, trong khi chỉ có 27% ủng hộ Đảng Cộng hòa.
Câu hỏi lớn đối với George Bush lúc này là liệu có nên giữ khoảng cách với tổng thống. Một số cố vấn và bạn bè nói với ông nên làm như vậy vì đó là hy vọng duy nhất để giành chiến thắng trong đề cử. Báo chí gây áp lực buộc ông phải giải thích những điểm ông không đồng ý với tổng thống. Nhà báo George Will của Washington Post nhạo báng ông là con chó cảnh của Reagan. Cha tỉnh táo để không mắc bẫy. Ông là một con người trung thành trong cả thời điểm tốt và xấu. Ông hiểu những rủi ro chính trị, nhưng ông không phải là loại người quay lưng lại với bạn bè.
Khi cuộc bầu cử sơ bộ năm 1988 diễn ra, chiến lược cho các chiến dịch bắt đầu hình thành. Không giống như chiến dịch năm 1980 của cha, trong đó tập trung chủ yếu vào Iowa và New Hampshire, các chiến dịch lần này dàn đều cả quốc gia. Chiến dịch quan tâm đặc biệt đến mười bảy tiểu bang mà theo lịch trình sẽ có bầu cử sơ bộ trong cùng một ngày vào ngày Siêu thứ Ba đầu tháng 3. Những bầu cử sơ bộ đại diện cho một bức tường lửa - nếu George Bush bị nghiền nát và đốt cháy trong những bang bầu cử sớm, chiến thắng trong ngày Siêu thứ Ba sẽ ngăn không cho những thiệt hại đó lây lan.
Việc cha sớm ra tranh cử công khai mang lại nhiều triển vọng thành công nhưng cũng đầy những thách thức. Ông đã dành cả năm 1987 với một mục tiêu gắn trên lưng, và báo chí cùng các đối thủ chính trị của ông ở cả hai đảng đã bắn nhiều mũi tên vào mục tiêu đó. Một trong các vụ việc quá đáng nhất là ông bị đồn đại có mối quan hệ ngoài hôn nhân. Các chiến dịch tin đồn bắt đầu vào tháng 6 năm 1987. Đáng chú ý, những người ngồi lê đôi mách không thống nhất về việc ai là “người phụ nữ khác”. Khoảng thời gian này, Thượng nghị sĩ Gary Hart rút khỏi cuộc đua tổng thống của Đảng Dân chủ trong bối cảnh bị cáo buộc về tội ngoại tình.
Khi quan sát trò xiếc diễn ra ở Washington, tôi đã rất tức giận. Tin đồn không chỉ thất thiệt mà còn gây tổn thương cho mẹ và cha. Lee Atwater và tôi đồng ý rằng không nên để yên cho những tin đồn này. Ông đã bố trí cho tôi một cuộc phỏng vấn với phóng viên tờ Tuần tin Newsweek.
“Câu trả lời cho câu hỏi về vụ ngoại tình là KHÔNG”, tôi nói.
Khi nghe về cuộc phỏng vấn của tôi, mẹ đã rất tức giận. “Sao con dám làm nhục cha của mình bằng việc xới lên những điều này?”, bà hỏi.
Mặc dù mẹ bày tỏ sự không hài lòng, tôi chắc chắn rằng bà đã nói lên mối quan tâm của cha. Họ sợ rằng sự từ chối của tôi sẽ đổ thêm dầu vào lửa và làm lây lan những lời thêu dệt mới trên mặt báo. Lời nói nước đôi của tôi đã tạo tin tức trên các tờ báo toàn quốc. Rất may, những câu chuyện đã bị chìm đi ngay sau đó.
Nhìn lại, tôi không biết liệu câu trả lời của tôi giúp được gì. Những câu chuyện nực cười như vậy có thể tự nó trôi qua. Mẹ đã đúng, đôi khi cách giải quyết tốt nhất để xử lý một cáo buộc sai lầm đơn giản chỉ là mặc kệ nó. Nói chung, đó là cách giải quyết của tôi khi nhiều người đồn đại những chuyện không đúng về tôi trong thời gian tôi nắm quyền. Nhưng khi những lời nói dối nhằm hãm hại người đàn ông tôi yêu thương và tôn trọng, tôi không thể ngồi yên.
Hóa ra tôi không phải là người duy nhất trong gia đình cảm thấy như vậy. Khi tôi tái tranh cử tổng thống năm 2004, con gái tôi, Jenna, đã viết cho tôi một lá thư đề nghị tham gia vận động tranh cử cho tôi. “Con ghét nghe những lời bịa đặt về cha. Con ghét khi mọi người chỉ trích cha. Con ghét vì những người khác không thể nhìn thấy người con yêu thương và tôn trọng, người mà con hy vọng một ngày nào đó con sẽ trưởng thành giống người đó... Con còn chưa được rèn luyện nhiều nhưng nếu được đào tạo tốt, con có thể giúp mọi người nhìn nhận ra người cha con tôn kính.”
Vào ngày 12 tháng 10 năm 1987, Phó Tổng thống George Bush chính thức bước vào cuộc đua giành chức tổng thống. Ông đã tuyên bố tranh cử ở Houston. Ông hứa sẽ tiếp tục các chính sách của chính quyền Reagan, đồng thời đưa ra những ý tưởng mới của riêng mình. Một trong những ý tưởng đó là một lời cam kết ông sẽ lặp lại thường xuyên trong những tháng tranh cử sắp tới: “Tôi sẽ không tăng thuế”. Khẩu hiệu tranh cử của ông nhấn mạnh ông là người có nhiều kinh nghiệm: “Sẵn sàng từ ngày đầu tiên để trở thành tổng thống vĩ đại”. Tất cả mọi thứ diễn ra thuận lợi cho đến khi thả bóng. Một số những quả bóng đã bị nổ và xẹp hơi từ đêm qua, và như cha nói, “thật là một khoảnh khắc đáng sợ, trông giống như thả một bao cao su - cao su nguyên chất rơi từ trên trần nhà xuống”.
Tôi nghe cha phát biểu, nhưng tôi đã nổi giận. Theo đề nghị của tôi, các thành viên gia đình và các trợ lý chiến dịch của chúng tôi trả lời cuộc phỏng vấn với phóng viên tờ Tuần tin Newsweek, Margaret Warner sẽ viết một phóng sự về chân dung cha. Tôi muốn bài viết sẽ khách quan, do đó, tôi đã bị sốc khi nhìn thấy trang bìa của các tạp chí dự kiến sẽ ra sạp báo trong tuần tới chạy dòng tít rằng: “George Bush: Cuộc chiến với các nhược điểm”. Điểm mấu chốt của bài này cho rằng cha không đủ cứng rắn để làm tổng thống. Tôi ngạc nhiên vì rằng bất cứ ai biết câu chuyện cuộc đời của người đàn ông này - phi công Hải quân đã chiến đấu trong Thế chiến thứ hai, nghị sĩ đã từng bị đe dọa mạng sống khi chọn bỏ phiếu cho luật Nhà đất công bằng - đều không thể cho rằng ông là người yếu đuối (Hai mươi lăm năm sau, Newsweek lại chạy một dòng tít trên trang bìa “Romney: Các nhược điểm”. Rõ ràng chỉ có các ứng cử viên Đảng Cộng hòa là có điểm yếu trong mắt họ).
Việc cha bị chỉ trích là kẻ yếu đuối khiến bạn bè và những người ủng hộ lo lắng. Nhiều người trong số họ đưa ra những lời khuyên cho các ứng cử viên và tôi thường là người lắng nghe họ. Tôi biết không nên tạo cho cha gánh nặng phải nghe tất cả những lời khuyên của mọi người. Vai trò của tôi như một bộ lọc. Lúc đầu, bộ lọc của tôi chưa thật tốt. Tôi nhớ đã nói với cha rằng một trong những người bạn của cha đã gọi điện tới khuyên “Hãy là chính mình”. Cha trợn mắt và nói, “Không là chính mình thì là ai?”. Từ thời điểm đó, tôi đã thận trọng hơn khi đón nhận những lời khuyên.
Trong suốt chiến dịch năm 1988, tôi đã hiểu ra rằng hầu hết các chính trị gia đều có hàng loạt các chuyên gia tư vấn. Những gì ứng cử viên cần từ bạn bè và người thân là sự an bình và ủng hộ. Đó là lý do tại sao tôi rất biết ơn em trai tôi Marvin, em gái tôi Doro, và gia đình của họ đã chọn sống gần tôi khi tôi là tổng thống. Họ thường xuyên đến Nhà Trắng tham gia các bữa ăn gia đình, và Marv sẽ ghé qua để xem hoặc chơi thể thao cùng tôi. Họ không có chương trình nghị sự được sắp đặt trước. Họ chỉ muốn giúp tôi thư giãn. Tôi đã cố gắng để chuẩn bị hỗ trợ cha theo cách đó.
Trong tuần trước khi diễn ra cuộc bỏ phiếu kín ở Iowa, hãng tin CBS News đưa ra hồ sơ giới thiệu từng ứng cử viên chính. Có một số lo lắng rằng Dan Rather sẽ không hỏi về những chủ đề như đã hỏi các ứng cử viên khác trên đài CBS - nguồn gốc xuất thân, gia đình, và kinh nghiệm của họ - thay vào đó, người dẫn chương trình sẽ khai thác đề tài gây tranh cãi: Iran - Contra. Ban cố vấn chiến dịch đồng ý cho đài phỏng vấn, nhưng nhấn mạnh yêu cầu rằng cuộc phỏng vấn phải được phát sóng trực tiếp, vì như vậy các biên tập viên không thể cắt ghép câu nói của cha hoặc đưa câu chữ ra khỏi ngữ cảnh.
Trước giờ phỏng vấn, cố vấn truyền thông hàng đầu của cha, Roger Ailes, một người thông minh và sắc sảo, đã nhận được tín hiệu từ phía những bạn bè của mình trong giới truyền hình cho thấy biên tập viên Rather đã lên kế hoạch để tập trung hoàn toàn vào chủ đề Iran - Contra. Chắc chắn đúng như vậy, khi cha ngồi chờ câu hỏi phỏng vấn, ông xem Rather phát một đoạn băng hình dài sáu phút về các cáo buộc liên quan đến Iran - Contra. Câu hỏi đầu tiên của Rather là tại sao cha vẫn tiếp tục sử dụng người cố vấn đã bị kết tội tham gia vào các vụ bê bối. Cha giải thích rằng các phụ tá của mình đã được kết luận không có hành vi sai trái. Sau vài câu hỏi thêm về Iran - Contra, cha nói với Rather rằng chủ đề của cuộc phỏng vấn này nói về một chuyện đã cũ và bị trình bày sai lạc dựa trên suy đoán vô căn cứ của CBS.
Người dẫn chương trình vẫn tiếp tục các câu hỏi kiểm tra chéo về Iran - Contra. Cha vẫn bình tĩnh, nhưng tôi biết ông đang loay hoay. Thời gian cho cuộc phỏng vấn sắp hết, Cha nhắc nhở người dẫn chương trình rằng họ đã thỏa thuận nói về những chủ đề khác. Khi Rather quay lại một lần nữa một chuỗi các câu hỏi về Iran - Contra, cha đưa ra một lời tuyên bố hùng hồn do ông và Roger Ailes đã lên kế hoạch chuẩn bị từ trước.
“Tôi nghĩ rằng thật không công bằng khi đánh giá toàn bộ sự nghiệp của tôi chỉ qua một sự việc rất cũ xảy ra ở Iran”, ông nói. “Anh nghĩ sao nếu tôi cũng đánh giá sự nghiệp của anh chỉ qua bảy phút anh không làm chủ chương trình ở New York?”
Rather dường như choáng váng bởi câu hỏi đó, nó gợi cho ông ta nhớ lại khoảnh khắc đáng xấu hổ nhất của mình trong vai trò một nhà báo: Một vài tháng trước đó, ông ta đã rất tức giận vì chương trình do ông ta phụ trách bị nhường sóng cho một trận đấu quần vợt giải Mỹ mở rộng. Ông ta giận dữ rời khỏi trường quay để khiếu nại với Ban Điều hành đài CBS. Chương trình phát sóng về trận đấu kết thúc sớm hơn dự kiến, nhường sóng lại cho Rather, nhưng lúc này bàn dẫn chương trình trống rỗng, và khán giả cả nước phải chịu đựng bảy phút không có gì phát sóng trên truyền hình.
Cha gọi điện cho tôi từ hậu trường để hỏi tôi nghĩ thế nào về cuộc phỏng vấn vừa rồi. Không có cảm giác chiến thắng hoặc can đảm trong giọng nói của cha. Tính cha không muốn làm bẽ mặt người khác, và tôi có thể nói ông đang lo lắng về câu hỏi vặn lại Rather. Còn tôi, trái lại, rất vui mừng với màn trình diễn của cha.
“Cha đã đánh cho họ rơi khỏi võ đài”, tôi ủng hộ ông. Hầu hết khán giả đều đồng ý. Các đường dây điện thoại tại CBS sáng lên vì nhiều người gọi tới để phản đối sự thô lỗ của Dan Rather. Các chiến dịch vận động tranh cử cho Bush tràn ngập các cuộc gọi tới chúc mừng cha. Có một điều chắc chắn là: Sẽ không còn ai nói về các nhược điểm nữa.
Về phần Dan Rather, tin tức của ông ta về nhiệm kỳ tổng thống của cha rất tiêu cực. Khi tôi nhậm chức, ông ta dường như tiếp tục mối ác cảm với tôi. Đỉnh điểm là năm 2004 khi ông ta phát sóng những lời cáo buộc tôi liên quan đến dịch vụ Bảo vệ Quốc gia dựa trên các tài liệu giả mạo. Một lần nữa, sự phản đối của công chúng đạt tới đỉnh điểm. Vì vụ việc này, Dan Rather đã phải xin thôi việc và rời khỏi đài CBS.
Cuộc phỏng vấn của cha với Dan Rather đã mang đến mức tăng đột biến về số người ủng hộ, nhưng không đủ để giành chiến thắng trong trận chiến mở màn mùa bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa: bỏ phiếu ở Iowa. Sự thú vị ở Iowa là Thượng nghị sĩ Bob Dole của Kansas, đối thủ cũ của cha từ chiến dịch năm 1980 đã trở thành người lãnh đạo chiếm đa số trong Thượng viện. Dole khai thác lợi thế sân nhà của mình tại Iowa. Quảng cáo của ông nhấn mạnh nguồn gốc “con nhà nông” và thuyết phục cử tri Iowa rằng ông cũng là người có xuất thân như họ. Đúng như dự kiến, Dole thắng ở Iowa, thu 37% số phiếu.
Cú sốc là George Bush chỉ đứng thứ ba, sau người vận động tranh cử từ xa Pat Robertson. Robertson không có kinh nghiệm làm việc trong các vị trí dân cử mà chỉ làm hoạch định chính sách. Tuy nhiên, ông ta đã tổ chức một cách hiệu quả ở Iowa, và ông ta dự đoán một cách chính xác rằng một “đội quân vô hình” của những người ủng hộ sẽ bỏ phiếu cho mình - chính xác là 25% số cử tri Iowa đã bỏ phiếu cho ông ta. Nay nhìn lại, chiến dịch năm 1988 lần đầu tiên cho thấy sự hiện diện của một khối cử tri quan tâm nhiều tới giá trị. Khối cử tri này về sau đã trở thành một nhóm quan trọng trong khu vực bầu cử của tôi suốt hai nhiệm kỳ làm tổng thống.
Cha được 19% số phiếu. Sau cha, chỉ có Jack Kemp là ứng viên duy nhất giành số phiếu đáng kể, ông ta là một đại biểu Quốc hội năng động đến từ ngoại ô New York. Xếp sau ông ta là Buffalo Bills, và Pete du Pont, một cựu Nghị sĩ thông tuệ và cựu Thống đốc bang Delaware. Al Haig, cựu Ngoại trưởng và Chánh văn phòng Nhà Trắng, cũng nhận được vài trăm phiếu.
Mặc dù thất bại, cha vẫn lạc quan. Đêm sau khi diễn ra cuộc bỏ phiếu sớm, ông nói với những người ủng hộ, “Tôi muốn làm tốt hơn, nhưng tôi là chiến binh. Tôi sẽ quay trở lại”.
Khi chiến dịch chuyển đến New Hampshire, Dole đã có đà chiến thắng. Các cuộc thăm dò đầu tiên sau cuộc bỏ phiếu ở Iowa cho thấy ông ta đã thu hẹp khoảng cách với cha. Một vài ngày sau đó, Al Haig tuyên bố bỏ cuộc đua và kêu gọi bỏ phiếu cho Dole. Dole cũng nhận được sự ủng hộ từ Don Rumsfeld, cựu Chánh văn phòng Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Ford và cựu Bộ trưởng Quốc phòng. Cha không hoảng sợ. Ông biết rõ hơn tất cả, chiến thắng lớn ở Iowa không phải bao giờ cũng dẫn đến thành công ở New Hampshire.
Cũng như trong các chiến dịch trước, cha luôn quả quyết rằng không ai có thể đánh bại ông. Buổi sáng sau khi thua cuộc ở Iowa, ông đã xuất hiện tại New Hampshire trước bình minh để gặp gỡ công nhân nhà máy ở Nashua. Ông bắt tay vào một lịch trình bận rộn với vô số các cuộc gặp mặt và chào hỏi do Chủ tịch Ủy ban vận động tranh cử cho cha tại New Hampshire, Thống đốc John Sununu, tổ chức. Cách làm việc của cha khiến tôi nhớ đến các chiến dịch trước đây của ông ở Texas, nơi ông cần mẫn thiết lập mối quan hệ với từng cá nhân cử tri để giành lá phiếu ủng hộ của họ.
Vận động tranh cử chức tổng thống trong khi vẫn đang giữ chức phó tổng thống đòi hỏi một sự cân bằng tinh tế. Một mặt, mang theo cả đoàn tùy tùng của phó tổng thống đi tranh cử có thể mang lại sự thuận tiện và gia tăng uy tín. Mặt khác, lễ nghi văn phòng cũng có thể là cái bẫy khiến cha dường như tách biệt và xa cách. Cha đã xóa đi hình ảnh xa cách đó. Ông thu nhỏ quy mô của đoàn tùy tùng và tổ chức các sự kiện tại những địa điểm nhỏ tại địa phương. Ông đã dành một buổi sáng đến cửa hàng bánh Dunkin’ Donuts, McDonald’s, và làm bánh tại nhà để mời cử tri (May mắn thay, ông vẫn còn thời gian chạy bộ). Trong mạng lưới bạn bè và đồng minh chính trị, cha luôn giữ hình ảnh cống hiến tận tụy trong toàn bộ sự nghiệp. Ông trung thành với họ, và bây giờ đến lượt họ trả ơn. Một trong những điểm nổi bật của chiến dịch vận động tranh cử là chuyến đi dã ngoại với bạn bè và câu cá với Ted Williams, một người bạn câu cá của cha (người mà sau này được cha trao Huân chương Tự do do tổng thống trao tặng). Trong một quốc gia tập hợp nhiều nhóm bạn bè, thật khó có thể đánh bại người nào giành được sự ủng hộ của những người bạn chịu chơi nhất.
Trong cuộc đua chính trị nảy lửa này, cường độ của chiến dịch tranh cử có cách riêng của nó khiến người trong cuộc bộc lộ cảm xúc một cách bột phát. Một trong những cảm xúc đó, với tôi, là sự oán giận của Bob Dole đối với George Bush. Dole tấn công cha tôi như một thành phần điển hình thuộc tầng lớp thượng lưu “con ông cháu cha”, người đã không “đưa ra được một quyết định nào trong bảy năm”, trong khi ông ta luôn muốn chứng tỏ bản thân là một người tự lực cánh sinh, xuất thân khó khăn từ Russell bang Kansas.
“Không ai cho tôi một thứ gì”, Dole nói.
Tôi tự hỏi liệu có phải những trải nghiệm khác nhau của họ trong Thế chiến thứ hai đã gây ra mối oán giận của Dole đối với cha. Cả hai đều bị thương, nhưng cha có khả năng thoát ra để trở về đơn vị sau khi bị bắn rơi, trong khi chấn thương nghiêm trọng buộc Dole phải nằm lại bệnh viện cho tới khi chiến tranh kết thúc.
Cha do dự không muốn cư xử tiêu cực với Dole. Lee Atwater thường gọi điện tới để thúc giục nhưng không thể thuyết phục cha ký phê duyệt những kế hoạch làm quảng cáo chống lại Dole. Khi cha hỏi tôi nghĩ gì, tôi nói với ông rằng tôi đồng ý với Lee. Tôi nghĩ điều quan trọng là phải đặt Dole vào thế phòng ngự. Cuối cùng cha mủi lòng, và chiến dịch tranh cử đã cho phát sóng quảng cáo thể hiện Dole là “Thượng nghị sĩ đứng chân trong chân ngoài” vì sự thay đổi liên tục trong quan điểm của ông ta về thuế. Nó không phải một quảng cáo tấn công đặc biệt khắc nghiệt, nhưng đã thành công trong việc hạ bệ Dole và cho thấy quan điểm tương phản rõ rệt giữa hai ứng cử viên trong một vấn đề quan trọng đối với cử tri New Hampshire.
Cuộc bỏ phiếu sơ bộ càng đến gần, Dole càng có vẻ chán chường và cáu kỉnh. Ông nói với một cử tri bất đồng quan điểm, “Ông đi vào hang của ông đi”. Vào đêm sau ngày bỏ phiếu, cha đã chiến thắng với 38% số phiếu. Dole đứng thứ hai với 29%. Trong bài phát biểu mừng chiến thắng, cha so mình với Mark Twain vì các báo cáo về cái chết của ông ấy đã bị phóng đại rất nhiều. Khi Tom Brokaw hỏi cha liệu ông có thông điệp nào dành cho đối thủ của mình, ông nói, “Tôi mong những điều tốt đẹp sẽ đến với ông và chúng ta sẽ gặp lại nhau ở miền Nam”.
Khi Brokaw hỏi Dole cùng một câu hỏi, ông ấy ngắt lời, “Có, đừng nói dối về hồ sơ của tôi nữa”.
Tám ngày sau thảm họa ở Iowa, cán cân chiến thắng đã nghiêng về phía George Bush.
May mắn thay, nỗi cay đắng của năm 1988 đã tan đi theo thời gian. Bob Dole và cha tôi đều là những người đàn ông có nhân cách tốt, và họ có thể đặt những điểm khác biệt sang một bên để hợp tác chặt chẽ với nhau trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của cha. Đã từng ở hai đầu chiến tuyến, họ không chỉ tôn trọng, mà còn quý mến nhau. Sau khi cha tôi thua trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, ông ấy đã tham dự một bữa tối do các Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa tổ chức, tại đây lãnh đạo nhóm thiểu số Dole đã ôm lấy cha và nói trong nước mắt, “Không có tổng thống nào từng làm việc tận tụy hơn ngài”, Dole nói. “Vị trí của ngài trong lịch sử đã được đảm bảo... George Bush đã giúp thay đổi thế giới và điều đó là rất quan trọng đối với tất cả chúng ta.” Bob Dole giành được sự đề cử của Đảng Cộng hòa đã ra tranh cử tổng thống năm 1996, và cha ủng hộ ông ấy mạnh mẽ.
Sau New Hampshire, trọng tâm của chiến dịch chuyển đến Nam Carolina, nơi sẽ diễn ra cuộc bầu cử sơ bộ đầu tiên ở vị trí dưới đường Mason - Dixon phân chia ranh giới và là một hàn thử biểu đo lường ý kiến của các đại biểu giàu có ở miền Nam. Là một người gốc Nam Carolina, Lee Atwater biết rõ các bối cảnh chính trị và đã tổ chức bộ máy chiến dịch vận động một cách có hiệu quả. Với những cử tri mang quan điểm bảo thủ, Nam Carolina hứa hẹn là một bang mang lại cơ hội chiến thắng cho Pat Robertson. Nhưng do ông ta không biết cách tổ chức vận động tranh cử, nên cha tôi đã thắng dễ dàng với 49% số phiếu.
Mười bảy bang tổ chức bầu cử sơ bộ trong ngày Siêu thứ Ba vào ngày 8 tháng 3 năm 1988. Cách gây quỹ đầy ngoạn mục, cách tổ chức và chiến lược đúng đắn của các chiến dịch vận động tranh cử đã mang về chiến thắng tại mười sáu bang. Lần đầu tiên trong sự nghiệp chính trị của mình, George Bush thắng trong một cuộc đua toàn tiểu bang tại Texas. Trong khi số phiếu đại biểu đang được tính, George Bush đã đi được hai phần ba quãng đường tới đích được đề cử. Ngày Siêu thứ Ba hóa ra lại không phải là một bức tường lửa mà là cái kết đầy hiệu quả của chiến dịch.
Được dự đoán là sẽ được đề cử, cha đã làm việc chăm chỉ để tạo ra sự thống nhất trong đảng. Ông gặp gỡ các thành viên của Quốc hội, cho dù họ để ý tới ông hay không. Ông kêu gọi sự ủng hộ của các thống đốc trên toàn quốc và mời họ đến thăm nhà ở Walker’s Point. Và trong một hành động điển hình của George Bush, cha và mẹ đã tổ chức một bữa ăn tối tại Đài quan sát Hải quân cho các ứng cử viên đã cùng tranh cử với ông trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa. Cha nắm lấy cơ hội để hàn gắn mâu thuẫn hay những bất đồng còn tồn tại và tranh thủ sự ủng hộ của họ cho tháng mười một sắp tới. Ông cần sự giúp đỡ của họ, bởi vì ông đã bắt đầu cuộc tổng tuyển cử trong một cái hố sâu.
Nếu cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào mùa hè năm 1988, Thống đốc Michael Dukakis bang Massachusetts đã giành chiến thắng long trời lở đất. Dukakis không phải bắt đầu từ bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ vì chính ông ta đang đại diện cho đảng. Ông ta là thống đốc không có nhiều điểm thuyết phục và có quan điểm nhà nước tự do. Nhưng ông khởi động một chiến dịch cứng rắn và đánh bại các đối thủ của mình là Thượng nghị sĩ Al Gore Jr. bang Tennessee, Nghị sĩ Dick Gephardt bang Missouri, và lãnh đạo dân quyền Jesse Jackson trong một cuộc thi mô phỏng cách tấn công liên tục vào các quan điểm điều hành của chính quyền Reagan - Bush.
Vào giữa tháng 7, Dukakis và Đảng Dân chủ giành sân khấu lớn tại đại hội của họ ở Atlanta. Hai trong số các diễn giả chính được mời đến chính là những người sau này đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Người đầu tiên là Ann Richards, Bộ trưởng Tài chính của tiểu bang Texas và cũng là thống đốc trong tương lai của bang này, báo chí thường trích câu nhận xét dí dỏm của bà ví cha như “sinh ra đã ngậm bàn chân bạc trong miệng” (ám chỉ cha là người xuất thân giàu có). Người kia là Thống đốc Bill Clinton của Arkansas, ông thường có những bài diễn văn dài đến mức cứ khi nào ông nói tới câu “Kết luận...” là cử tọa vỗ tay vang dội.
Khoảnh khắc kịch tính nhất trong đại hội lần này là màn ra mắt của Thượng nghị sĩ Lloyd Bentsen của bang Texas, người tranh cử chức Phó Tổng thống trong nhóm liên danh cùng với Dukakis. Bentsen là một người làm việc trong lĩnh vực luật pháp rất đáng kính, có uy tín và nhiều kinh nghiệm làm việc tại Washington. Và ông có một phẩm chất khác mà Michael Dukakis đang tìm kiếm: Ông ấy biết làm thế nào để đánh bại George Bush. Bentsen đã đánh bại cha trong cuộc đua vào Thượng viện năm 1970, và việc Dukakis lựa chọn ông ta chỉ một tuần trước đại hội được coi như một nước cờ chính trị. Kết nối “từ Boston tới Austin” không chỉ cộng thêm một người vận động tranh cử tài ba cho chiến dịch của họ mà còn lặp lại cách kết nối của liên danh tranh cử JFK - LBJ, những người đã mang lại chiến thắng cho Đảng Dân chủ trong lần tranh cử tổng thống trước đó. Cặp liên danh tranh cử này bước ra khỏi đại hội với vị thế dẫn đầu cuộc đua.
Trong suốt tuần đại hội của Đảng Dân chủ, cha đã đi câu cá trong vùng đất hoang dã ở Wyoming với Jim Baker. Sau khi giữ chức Chánh văn phòng Nhà Trắng trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Reagan, Baker đã được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Tài chính trong nhiệm kỳ thứ hai. Ông đã từ bỏ chức vụ của mình, một trong những vị trí có nhiều quyền lực nhất trong nội các, để về làm quản lý cho chiến dịch tranh cử tổng thống của cha.
Là một người theo sát chiến dịch, tôi phải công nhận sự khác biệt mà Jim Baker đã mang lại. Trong chiến dịch tranh cử lâu dài, có một xu hướng là ranh giới quyền hạn có thể bị xoá mờ và quá trình ra quyết định có thể bị tiến hành cẩu thả. Điều đó đã không xảy ra với Jim Baker. Ông đã đưa ra cơ cấu rõ ràng cho chiến dịch. Ông lắng nghe một cách thận trọng trước khi tư vấn, nhưng không nghi ngờ gì về sự tận tụy của ông. Ông không bao giờ cho phép các phụ tá đi cùng trên máy bay được gây ảnh hưởng lớn tới các ứng cử viên hoặc phớt lờ các quyết định được đưa ra tại trụ sở chính (một hiện tượng phổ biến trong các chiến dịch có kỷ luật không tốt). Sự gần gũi của ông với cha mang lại cho ông uy tín cả trong và ngoài nhóm những người vận động tranh cử, và khiến cha yên tâm vì biết rằng chiến dịch vận động này đang nằm trong tay người bạn đáng tin cậy của ông.
Sau một mùa hè tranh đấu mệt mỏi cho George Bush, giới chính trị thế giới đổ về New Orleans dự Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa vào giữa tháng 8. Trong hơn một năm, cha đã đi theo ranh giới mong manh để cân bằng giữa vai trò của phó tổng thống và ứng cử viên tranh chức tổng thống. Ông đã chống lại áp lực để không phá vỡ mối quan hệ với tổng thống cũng như không chỉ trích tổng thống Reagan - một chiến lược cần nhiều kỷ luật và sự tự kiềm chế, nhất là khi ông đã bị bỏ lại phía sau trong các cuộc thăm dò. Ông đã thể hiện lòng trung thành. Ông đủ khôn ngoan để biết rằng làm suy yếu tổng thống sẽ làm giảm cơ hội của mình trong cuộc tranh cử. Cuối cùng, cha đã chọn đúng thời điểm. Các vũ đài lớn của đại hội sẽ là cơ hội để thoát ra khỏi cái bóng của tổng thống và giúp cha thể hiện tầm nhìn lãnh đạo đất nước.
Đại hội ở New Orleans như một cuộc đoàn tụ gia đình. Chúng tôi đều muốn tham dự. Khi tên của cha vừa được chính thức đề cử, chúng tôi đều đứng lên làm lễ chào cờ, vợ của Jeb, Columba, đầu tiên chào bằng tiếng Tây Ban Nha, và sau đó bằng tiếng Anh, tiếp theo là George P. Bush, con trai của Jeb và Columba. Anh chị em chúng tôi cũng lần lượt tuyên bố sự ủng hộ cha từ các bang sở tại của chúng tôi: Neil từ Colorado, Jeb từ Florida, Marvin từ Virginia, và Doro từ Maine. Tới lượt tôi tuyên bố từ bang Texas, và sau đó tên cha sẽ lên dẫn đầu trong cuộc đua ở bang này. Tôi đứng dưới lá cờ “Ngôi sao cô đơn” biểu tượng của bang Texas và tự hào cam kết với đoàn đại biểu của bang “ủng hộ tuyệt đối người đàn ông chúng tôi tôn trọng, người đàn ông chúng tôi yêu thương... cho người con trai của quê mẹ Texas và là người cha tốt nhất ở Mỹ”.
Cha mở đầu bài phát biểu đại diện Đảng Cộng hòa nhận trọng trách ra tranh cử bằng cách giải thích về giai đoạn mới vừa bắt đầu. “Nhiều người đã hỏi, ‘Khi nào thì chiến dịch này thực sự bắt đầu?’. Tôi đến đại hội này để thông báo cho quý vị và cho cả nước Mỹ biết: Đêm nay chiến dịch chính thức bắt đầu.” Ông tiếp tục, “Trong bảy năm rưỡi vừa qua, tôi đã giúp tổng thống thực hiện nhiều công việc khó khăn nhất trên trái đất này... Nhưng bây giờ quý vị phải nhìn thấy tôi với những gì thuộc về tôi: một ứng cử viên Đảng Cộng hòa tranh cử chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ”.
Khán giả cổ vũ, và cha khiến cho họ reo hò cả tiếng đồng hồ sau đó. Vài ngày trước đấy, cha nhờ tôi đọc bản thảo của bài diễn văn. Cách lập luận chặt chẽ và văn phong sắc sảo gây cho tôi ấn tượng mạnh, nhưng tôi không lường trước được tác động to lớn của bài diễn văn đọc trong đêm Siêu thứ Ba đó.
“Tôi là một người đàn ông định nghĩa cuộc sống bằng các nhiệm vụ”, ông nói, “nhiệm vụ đã được xác định và nhiệm vụ đã hoàn thành. Khi tôi còn là một phi công máy bay ném bom phóng ngư, quân đội xác định mục tiêu cho chúng tôi. Trước khi cất cánh, chúng tôi hiểu rằng bằng mọi cách phải đến được mục tiêu. Đã có những nhiệm vụ khác dành cho tôi ở Quốc hội, Trung Quốc, CIA. Nhưng tôi đang ở đây tối nay để làm ứng cử viên của quý vị, bởi vì công việc quan trọng nhất của cuộc đời tôi là hoàn thành nhiệm vụ đã bắt đầu từ năm 1980.
Ông mạnh mẽ bác bỏ những cáo buộc của Dukakis miêu tả ông là một người bi quan đã nhìn thấy nước Mỹ “suy thoái lâu dài” và một “kỹ thuật viên vận hành một cỗ máy nhưng không hiểu gì về máy móc”. Tiếp theo, ông nói về tầm nhìn của mình để phát triển đất nước: Một chính sách ngoại giao dựa trên nguyên tắc “tri thức là sức mạnh và sự hiểu biết để dẫn đến hòa bình”, không phải là “điểm yếu và mâu thuẫn dẫn đến chiến tranh”. Hỗ trợ mới cho tổ chức từ thiện và tình nguyện viên có thể tạo ra một “dân tộc tử tế và hiền lành” thắp sáng bằng “hàng nghìn ngọn đèn trên bầu trời bình yên”. Và một chính sách kinh tế được thiết kế để tạo ra công ăn việc làm mà không tăng thuế, và đỉnh cao là cam kết của ông, “Tôi hứa sẽ không có thuế mới”.
Cuối cùng, ông đã mô tả tính cách của bản thân mình. Cha luôn luôn kín đáo và ít khi nói về bản thân mình, nhưng trong một đoạn tự bạch ngắn, ông đã chọn tông giọng chính xác. “Có thể tôi không phải người hoạt ngôn, nhưng tôi đã sớm học được rằng hoạt ngôn thì không hút dầu lên khỏi mặt đất được. Tôi đôi khi có thể vụng về, nhưng điều đó không làm suy giảm tình yêu của tôi đối với tổ quốc. Tôi là một người đàn ông trầm lặng nên tôi có thể nghe được tâm can của những người trầm lặng, điều mà những người khác không làm được. Những người lao động nuôi gia đình, trả thuế, trả tiền thế chấp. Tôi lắng nghe và thấu hiểu họ, và mối quan tâm của họ cũng chính là của tôi”.
Cuối cùng, ông kết luận: “Tôi sẽ giữ cho Mỹ tiếp tục tiến lên, luôn hướng tới tương lai cho một nước Mỹ tốt hơn, cho một giấc mơ lâu dài vô tận và hàng ngàn điểm sáng. Đó là sứ mệnh của tôi. Và tôi sẽ hoàn thành nó”.
Đám đông khán giả như vỡ òa đầy phấn khích. Laura, Barbara, Jenna, và tôi đổ lên sân khấu cùng những thành viên khác của gia đình chúng tôi để cùng với mẹ và cha thả bóng bay lên trời (lần này không sợ bóng xịt rơi xuống như bao cao su nữa). George Bush tươi cười rạng rỡ. Tôi không thể nhớ một bài phát biểu nào khác lại hoàn hảo và hợp với thời điểm đến như vậy. Cha đã chuyển từ vị trí phó tổng thống của Ronald Reagan tới một ứng cử viên tổng thống đầy quyền năng. Giống như nhiều người khác quan tâm sâu sắc đến George Bush, tôi đã hồ hởi tới mất ngủ cả đêm đó.
Nhiều năm sau, khi tôi chuẩn bị bài diễn văn nhận trách nhiệm ra ứng cử vào năm 2000 cùng với người viết diễn văn cho tôi, Mike Gerson, tôi đã hồi tưởng lại bài diễn thuyết của cha năm 1988. Một trong những bài học rút ra là một ứng cử viên phải không chỉ có tài hùng biện với bài diễn văn đi vào lòng người mà còn cần có khả năng trình bày một viễn cảnh khiến cho người dân Mỹ muốn làm theo. Đó là những gì George Bush đã làm được vào năm 1988. Sau đêm cuối cùng của đại hội, tôi đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng người Mỹ đã có thể hình dung ra Tổng thống George H.W. Bush.
Màn trình diễn của cha tại đại hội được thực hiện một cách hoàn hảo mà không mắc sơ suất nào, trừ một ngoại lệ: Tuyên bố người đồng tranh cử cùng ông.
Cha đã bắt đầu tìm kiếm người cho chức vị phó tổng thống ngay sau khi ông chắc chắn được đề cử. Không giống như nhiều ứng viên tổng thống khác, ông không tìm kiếm một người có thể lấp đi những lỗ hổng trong bản sơ yếu lý lịch của mình, giống như cách mà ông vào phục vụ cho Ronald Reagan tám năm trước và Dick Cheney, với kinh nghiệm an ninh quốc gia của mình, đã phục vụ cho chính quyền của tôi mười hai năm sau đó. Ngoài ra, để chọn một người thực sự được chuẩn bị để đảm nhận liên danh tranh cử tổng thống, cha muốn xây một cây cầu nối khoảng cách thế hệ. Mặc dù đã sáu mươi tư tuổi, ông vẫn tràn đầy năng lượng và vẫn thuộc thế hệ lớn lên trong Thế chiến thứ hai, đã liên danh cùng tổng thống kể từ cuộc bầu cử của John F. Kennedy gần ba thập kỷ trước đó. Cha cảm thấy rằng thế hệ trẻ sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số hiện nay đã sẵn sàng trở thành thế hệ kế tiếp trên sân khấu chính trường quốc gia. Ông thích ý tưởng chọn một người đồng hành có khả năng thu hút nhóm cử tri trẻ tuổi và giúp mở đường cho thế hệ lãnh đạo mới của Đảng Cộng hòa. Có một tiền lệ trong lịch sử ảnh hưởng đến cha: Năm 1952, Dwight Eisenhower sáu mươi mốt tuổi - một tổng thống mà cha vô cùng ngưỡng mộ - chọn một Thượng nghị sĩ ba mươi chín tuổi, Richard Nixon, vào liên danh cùng tranh cử.
Cha chọn Thượng nghị sĩ Dan Quayle bốn mươi mốt tuổi, bang Indiana, làm người cùng tranh cử với mình. Ông đã biết Quayle trong những năm ở Washington, nơi Quayle đã làm việc suốt từ khi chiến thắng trong cuộc tranh cử vào Hạ viện lúc hai mươi chín tuổi. Bốn năm sau, ông đã đánh bại Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ Birch Bayh, người đã tại nhiệm suốt ba nhiệm kỳ, sau đó ông đã chiến thắng trong lần tái tranh cử cho nhiệm kỳ thứ hai vào Thượng viện một cách dễ dàng. Ông đã gây ấn tượng với các đồng nghiệp bằng cách đảm bảo cho mình chiếc ghế trong Ủy ban Ngân sách và Ủy ban Quân vụ, nơi ông rèn luyện chuyên môn kiểm soát vũ khí và phản đối mạnh mẽ các nỗ lực cắt giảm chi tiêu quốc phòng do Đảng Dân chủ đề xuất. Cha tin rằng kinh nghiệm đó đủ để chuẩn bị cho ông ấy thực hiện vai trò mới. Và cha biết ông ấy sẽ là một nhà vận động tranh cử tràn đầy năng lượng để giành lấy tấm vé vào Nhà Trắng.
Cha giữ bí mật về sự lựa chọn này - báo chí, các trợ lý, thậm chí cả mẹ và tôi cũng không biết. Ban vận động tranh cử đã lên kế hoạch để việc công bố sẽ tạo hiệu ứng đầy kịch tính và đã ấn định ngày công bố là thứ Tư trong tuần diễn ra đại hội, một ngày trước khi cha có diễn văn phát biểu chính thức ra tranh cử. Tuy nhiên, đến sáng thứ Ba, những lời đồn đoán về việc lựa chọn phó tổng thống đã tạo thành cơn sốt. Cả đại hội chỉ còn nói về những câu chuyện dự đoán cha sẽ chọn ai vào liên danh tranh cử. Các phóng viên liên tục săn đuổi Bob Dole và Jack Kemp, hai cái tên trên danh sách ngắn. Cha cảm thấy thật không công bằng khi ông đặt Dole và Kemp vào một tình huống không an toàn. Vì vậy, ông đã quyết định thay đổi kế hoạch và công bố lựa chọn Quayle vào chiều thứ Ba, một ngày trước thời hạn đề ra.
Cha gọi tôi vào cùng ông khi ông mời Dan tới để đề nghị cùng ra tranh cử. Chúng tôi cùng lên tàu đi dọc sông Natchez, chiếc tàu này chúng tôi thuê để mời các gia đình, các trợ lý chiến dịch, và những người ủng hộ du ngoạn từ Algiers Point qua sông Mississippi tới một cuộc diễu hành ở bến cảng gần tòa nhà Spanish Plaza. Cha và Quayle nói rất ngắn gọn, Quayle chấp nhận lời đề nghị, và cha gọi điện thoại cho Jim Baker. Không có nhiều thời gian để nói chuyện phiếm. Baker quả quyết nói Quayle phải quay lại bến cảng để tham dự cuộc diễu hành, tại đây cha công bố tên và gọi ông ấy lên sân khấu. Vị thượng nghị sĩ sau đó vào một chiếc xe limousine có mật vụ hộ tống và được chở tới gặp chuyên gia sẽ biên soạn diễn văn cho ông ấy, để ông ấy có thể bắt đầu soạn thảo một văn bản chấp thuận ra tranh cử và sẽ diễn thuyết bài đó trước người dân cả nước.
Chiếc tàu vượt sông Mississippi, và cha đã sẵn sàng thực hiện việc công bố tại cuộc diễu hành. Có một vấn đề: Không ai tìm thấy Quayle. Anh ta và vợ, Marilyn, vẫn đang tìm đường tới bến cảng. Cuối cùng vị thượng nghị sĩ cũng xuất hiện, và cha đã gây sốc cho công chúng bằng cách giới thiệu Quayle là người cùng tranh cử. Tôi hình dung những diễn biến xảy ra trong tâm trí của Dan Quayle khi anh ta lên được sân khấu này. Anh ta trẻ hơn tôi một tuổi, và vài giờ trước đó, anh ta còn không hề biết rằng mình sắp bước vào trung tâm của sân khấu chính trị quốc gia.
Sự ra mắt đột ngột này trở thành một tình huống khó khăn. Cánh phóng viên hỏi rất nhiều về quá trình làm việc của Quayle trong Lực lượng Bảo vệ Quốc gia thời chiến tranh ở Việt Nam. Trước đó, những người tham gia chiến dịch vận động tranh cử đã tìm hiểu thông tin về người được đề cử, nhưng họ không thấy có điều gì đáng lo ngại. Thêm vào đó, cha tôi giữ bí mật tới phút chót về người sẽ được ông mời vào liên danh, vì vậy cả Quayle lẫn ban vận động tranh cử đều không có thời gian chuẩn bị chi tiết các câu trả lời nhằm đối phó với những câu hỏi khó.
Trong không khí ngột ngạt của đại hội, cánh báo chí điên cuồng hỏi về kinh nghiệm làm việc của Quayle và điều đó dẫn tới một cuộc khủng hoảng. Các bài báo gây bất lợi một cách dữ dội đến mức một số người ủng hộ kêu gọi cha từ bỏ Quayle và chọn người cùng tranh cử mới. George Bush không quan tâm tới các ý kiến đó. Ông biết đấy sẽ là thảm họa khi phải thừa nhận rằng quyết định lớn đầu tiên của ông trong cương vị là ứng cử viên vừa được Đảng cử là một sai lầm. Ông đã đúng. Cuộc khủng hoảng trôi qua sau khi Dan Quayle thể hiện quan điểm mạnh mẽ trong bài phát biểu của mình và bài phát biểu chấp nhận của cha vào đêm cuối cùng của đại hội. Hội nghị đã đưa ra liên danh Bush - Quayle, một liên danh bị phản ứng dữ dội nhất trong lịch sử chính trị Mỹ.
Họ xuất hiện trong giới chính trị một cách đầy khó khăn. Và tôi tin tưởng đây là liên danh có chiều sâu giá trị. Khi phải công bố lựa chọn phó tổng thống của mình, tôi cũng làm như cha trong đại hội.
Tại đại hội, George Bush đã phải ở thế tự vệ. Đặc biệt, ông phải tự vệ trước Michael Dukakis. Thống đốc bang Massachusetts đã để ngỏ cánh cửa khi tuyên bố trong bài tham luận tại đại hội, “Cuộc bầu cử này không phải là về ý thức hệ, mà về năng lực làm việc”. Thật nực cười khi Dukakis tự nhận có nhiều năng lực hơn George Bush, người đã từng kinh qua nhiều vị trí quan trọng hơn bất cứ ứng cử viên tổng thống nào trong thời gian gần đây. Trên hết, suốt hai thập kỷ trong chính trường quốc gia đã giúp cha nhận ra rằng cử tri quyết định dựa trên giá trị nhiều hơn bất kỳ yếu tố nào khác. Và ông biết rằng các giá trị của Michael Dukakis sẽ không phù hợp với nhiều người Mỹ.
Trong suốt mùa thu, cha nhận định Dukakis là một “người Massachusetts mang tư tưởng tự do” và trích lời của đối thủ cho rằng ông ta là “một hội viên mang thẻ của ACLU - Hiệp hội công dân tự do Mỹ”. Ông nhắc nhở cử tri nhớ rằng Dukakis đã phản đối không cho cầu nguyện trong các trường công lập và phủ quyết một dự luật yêu cầu các trường học bang Massachusetts tiến hành nghi lễ chào cờ buổi sáng. “Chúng ta sống trong quốc gia theo đạo Thiên Chúa”, cha nói trong bài phát biểu chính của mình, “và chúng ta không nên cấm đoán nghi lễ chào cờ trong trường học”. Chúng tôi biết các hướng tấn công này có hiệu quả vì Dukakis đã bắt đầu thực hiện các nghi lễ chào cờ khi ông ta vận động tranh cử.
Các vấn đề tội phạm cũng là sự tương phản giữa những ứng cử viên. Thống đốc Dukakis ủng hộ việc kiểm soát súng, một lập trường khiến nhiều người Mỹ lo ngại vì nó đi ngược với Tu chính án thứ hai bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân được sở hữu vũ khí cho các mục đích săn bắn, thể thao và tự vệ. Ông ta phản đối án tử hình, một việc làm đi ngược lại với đa số mong muốn của người dân. Và quyết định tai tiếng nhất trong sự nghiệp trên cương vị thống đốc bang là Dukakis đã cho thông qua một chương trình cho phép tù nhân bang Massachusetts “nghỉ phép cuối tuần”, trong đó có cả tội phạm bạo lực.
George Bush không phải là người đầu tiên chỉ trích chương trình cho tù nhân nghỉ phép. Thượng nghị sĩ Al Gore đã tấn công Dukakis về vấn đề này trong cuộc bầu chọn của Đảng Dân chủ. Gore đưa ra con số đáng lưu ý, mười một người trong số những tù nhân đã có hành vi phạm tội, và hai tù nhân đã giết người trong những ngày nghỉ phép.
Một tù nhân khét tiếng của bang Massachusetts là Willie Horton đã sử dụng ngày nghỉ phép để trốn sang bang Maryland và hãm hiếp một phụ nữ. Cuối tháng 9, một tổ chức độc lập có tên gọi là “người Mỹ bầu cho Bush” nêu bật câu chuyện này trong một quảng cáo có sử dụng hình ảnh của Horton. Thế nhưng, có những người chỉ trích rằng cha cổ xúy phân biệt chủng tộc, vì Horton là người Mỹ gốc Phi. Ban vận động tranh cử của cha không liên quan gì tới quảng cáo đó. Thực tế này làm George Bush nổi giận. Ông không bao giờ dùng tới lá bài phân biệt chủng tộc. Ông đã cho thực hiện một quảng cáo chỉ trích chương trình nghỉ phép của tù nhân, đó là một quảng cáo hợp pháp liên quan đến vấn đề chính sách, nhưng ông chưa bao giờ dùng ảnh của Horton hoặc ai khác liên quan đến chương trình nghỉ phép này. Nhìn lại, những tranh cãi về Horton là một dấu hiệu của một hiện tượng chính trị mới: Các nhóm độc lập đang nổi lên và cố gắng gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử.
Chiến dịch tranh cử có giá trị - kết hợp với kinh nghiệm lãnh đạo mạnh mẽ và bề dày thành tích của cha gây được tiếng vang với cử tri, và giúp ông bứt phá so với Dukakis. Michael Dukakis cũng giúp cha tôi vượt lên rất hiệu quả. Ông ta đã cố chứng minh bản thân là người bảo vệ an ninh quốc gia bằng cách chụp ảnh cưỡi trên một chiếc xe tăng. Mũ bảo hiểm quá to khiến ông ta trông ngốc nghếch, chứ không có dáng vẻ của một tổng thống.
Như hầu hết những năm diễn ra bầu cử, những sự kiện mấu chốt của chiến dịch năm 1988 là các cuộc tranh luận của các ứng cử viên tổng thống. Cuộc tranh luận đầu tiên được tổ chức tại Bắc Carolina vào cuối tháng 9. Đối với tôi, khoảnh khắc đáng nhớ nhất diễn ra trong quá trình chuẩn bị cho cuộc tranh luận này. Cha tôi mời Barbara và Jenna về chơi tại Đài quan sát Hải quân. Giữa đêm, cô con gái Barbara sáu tuổi của tôi phát hiện ra con chó nhồi bông Spikey yêu quý bị mất. Cháu nói với bà nội rằng nó không thể ngủ nếu thiếu Spikey. Một cuộc tìm kiếm từng ngóc ngách xung quanh nhà và sân đã được tổ chức ngay đêm đó, dẫn đầu bởi Gampy - ông nội. Tôi không biết Michael Dukakis đã làm gì trong đêm trước cuộc tranh luận, nhưng chắc chắn ông ta không cầm đèn pin đi soi khắp tòa nhà để tìm kiếm một con thú nhồi bông. May mắn thay, Spikey đã được tìm thấy trong tình trạng bình yên vô sự, và hầu hết các quan sát viên ghi nhận cuộc tranh luận lần thứ nhất là một trận hòa.
Chúng tôi dành những dự đoán tốt đẹp cho các cuộc tranh luận tổng thống thứ hai và thứ ba, được tổ chức tại Los Angeles. Chỉ một vài tuần trước cuộc bầu cử, các cuộc tranh luận đánh dấu cơ hội cuối cùng cho cả hai ứng cử viên để ghi điểm trước khán giả cả nước. Tôi đã không tham dự cuộc tranh luận đó hay bất kỳ cuộc tranh luận nào khác của cha. Tôi đã quá lo lắng. Để làm dịu căng thẳng, em tôi, Marvin, và tôi quyết định đi xem một bộ phim của Woody Allen. Tôi không thể nhớ tên của bộ phim, nhưng tôi nhớ Marvin sử dụng bốt điện thoại trả tiền tại sảnh để gọi cho người bạn tốt của chú ấy, được biết đến với cái tên viết tắt PQ, để hỏi về diễn biến của cuộc tranh luận đang phát sóng trực tiếp trên truyền hình. Marvin quay trở lại báo tin cha đã có một khởi đầu tốt. Hai mươi phút nữa trôi qua, Marvin quay trở lại hành lang để cập nhật tin tức. Một lần nữa, lại là những tin tức tích cực. Sau khi nghe báo cáo thứ ba từ PQ, chúng tôi rời rạp chiếu phim và quay về nhà ngay sau khi cuộc tranh luận kết thúc. Một vài phút sau, chuông điện thoại reo.
“Con trai, con thấy thế nào?”, cha hỏi.
Không có một giây phút do dự, tôi nói, “Cha vừa ghi được một bàn quá tuyệt”.
Tôi đã nhận xét chính xác hơn cả những gì mình biết. Lần tranh luận nào cũng có một thời điểm đáng ghi nhớ nhất. Thời khắc đáng nhớ lần này đến từ câu hỏi đầu tiên của đêm tranh luận. Người dẫn chương trình Bernard Shaw của truyền hình CNN, mở đầu bằng câu hỏi dành cho Dukakis: “Thưa thống đốc, nếu Kitty Dukakis bị hãm hiếp và sát hại, liệu ông có ủng hộ án tử hình cho kẻ giết người?”.
Câu hỏi gợi ra những hình ảnh kinh hoàng và gây sốc cho khán giả, nhưng thống đốc trả lời như thể ông ta vừa được hỏi về thời tiết. “Không, tôi không, Bernard. Và tôi nghĩ rằng anh biết đấy, tôi đã phản đối án tử hình trong suốt cả cuộc đời mình”, ông ta nói. Ông ta tiếp tục giải thích về quan điểm chính sách của mình mà không một lần nhắc đến vợ ông ta, chính là đối tượng bị lấy ra làm tâm điểm cho giả thiết bị hiếp dâm và sát hại.
Câu trả lời của Dukakis làm tổn thương chính ông ta vì nó gia tăng nhận thức trong các nhóm cử tri rằng thống đốc là một nhà chính trị vô cảm. Phản ứng của cha là theo bản năng. Ông nói rằng ông ủng hộ án tử hình cho những tội ác “rất ghê tởm, tàn bạo, thái quá”.
Bernie Shaw đã không để cha thoát một cách dễ dàng. Trong câu hỏi đầu tiên, ông ta hỏi phản ứng của cha nếu được bầu nhưng chết trước lễ nhậm chức, để lại Dan Quayle làm chủ Nhà Trắng. Câu hỏi đã được thúc đẩy bởi câu trả lời đáng nhớ nhất trong cuộc tranh luận giữa các ứng viên phó tổng thống một tuần trước đó. Khi Quayle nói rằng ông có kinh nghiệm làm việc trong Quốc hội nhiều năm như John F. Kennedy, Lloyd Bentsen ngắt lời, “Thượng nghị sĩ, tôi phục vụ Jack Kennedy. Tôi biết Jack Kennedy. Jack Kennedy là một người bạn của tôi. Thượng nghị sĩ, ông không phải Jack Kennedy”. Câu nói của Bentsen đã đúc kết quan điểm của nhiều nhà phê bình cho rằng Quayle chưa được chuẩn bị để làm việc như một tổng thống.
Cha trả lời rằng ông tin tưởng vào kinh nghiệm và khả năng của người bạn đồng hành. Ông cũng nói rằng ông “không bao giờ thấy một chiến dịch tranh cử nào có cảnh ứng cử viên tổng thống chống lại ứng cử viên phó tổng thống”. Cha hiểu một sự thật hiển nhiên trong chính trị Mỹ: Người dân bỏ phiếu cho tổng thống, không cho phó tổng thống.
Cũng như George Bush không giành chiến thắng trong bất kỳ cuộc bầu cử nào của Ronald Reagan và Geraldine Ferraro không thể giành chiến thắng trong cuộc bầu cử của Walter Mondale, Lloyd Bentsen sẽ không giành chiến thắng trong cuộc bầu cử của Michael Dukakis. Khi các cuộc thăm dò mới được thực hiện một vài ngày sau cuộc tranh luận cuối cùng, cặp liên danh tranh cử Bush - Quayle đã có lợi thế hơn đối thủ mười bảy điểm.
Mặc dù cha đang bỏ xa các đối thủ, ông vẫn không tự mãn. Suy cho cùng, chỉ hai tháng trước đó, ông còn đang thua đối thủ với điểm cách biệt hai con số. Ông đi khắp đất nước trong những tuần cuối cùng của cuộc tranh cử. Tôi đi cùng ông trong một số chuyến, những chuyến đi đó gợi lại cho tôi nhiều kỷ niệm về những lần chúng tôi đi xe buýt khắp bang Texas vào năm 1964, khi cha lần đầu ra tranh cử và tôi khi ấy còn là một thiếu niên mười tám tuổi. Có rất nhiều thay đổi trong hai mươi bốn năm kể từ đó, nhưng có một điều vẫn còn được giữ lại: Cha luôn dành thời gian cho gia đình.
Một trong những kỷ niệm yêu thích của tôi trong những chiến dịch năm 1988 là khi cha mời Barbara, Jenna, và Laura tham gia với ông trong một chuyến đi tàu hỏa qua vùng Trung Tây dịp lễ hội hóa trang Halloween. Lời mời thật chu đáo; ông biết gia đình sẽ có những phút giây vui vẻ bên nhau, và ông rất thích được chơi cùng cháu nội trong dịp lễ này. Trên chuyến bay trở về Washington, Barbara và Jenna mặc trang phục hóa trang. Tôi vẫn mỉm cười khi nhớ lại hình ảnh hai cô con gái của chúng tôi trong bộ trang phục ma cà rồng cầm theo gói kẹo Juicy Fruit, đi xuống máy bay Không lực số 2 để chơi trò trick-or-treat với cả đội quân báo chí quốc gia.
Chiến dịch năm 1988 của cha là chiến dịch đầu tiên tôi được tham gia từ đầu đến cuối. Tôi đã học được rất nhiều điều từ chiến dịch này về quy trình chính trị và tính cách của cha. Mặc cho những luồng phỏng đoán đang nổi lên lần thứ hai một cách rất tự nhiên khi chiến dịch của một ứng cử viên khác đang gặp khó khăn, George Bush vẫn giữ bình tĩnh và ổn định. Ông tập trung vào chiến lược dài hạn, không quan tâm tới con số của các cuộc dự đoán hằng ngày. Mặc dù nhiều người nghi ngờ cơ hội sẽ đến với cha, ông vẫn lạc quan với niềm tin không bao giờ dao động rằng ông sẽ giành chiến thắng. Thậm chí ngày nay, tôi vẫn nhìn lại chiến dịch đó với sự ngưỡng mộ về năng lượng, kỷ luật và tài chọn thời điểm mà cha đã thể hiện trong suốt chiến dịch năm 1988.
Cuối cùng cũng đến ngày bầu cử, ngày 8 tháng 11 năm 1988. Cha kiệt sức nhưng vẫn lạc quan. Gia đình lớn của chúng tôi tập trung tại khách sạn Houstonian để xem tin tức. Khi bang New Jersey và Ohio thông báo đến cột số phiếu của cha, chúng tôi biết cuộc đua đã kết thúc. Cha đã giành chiến thắng tại bốn mươi trên tổng số năm mươi bang, trong đó có một số tiểu bang trước đây chưa từng có ứng cử viên Đảng Cộng hòa nào thắng cuộc: California, Connecticut, New Jersey, Maryland, Michigan và Pennsylvania. Michael Dukakis đợi kết thúc kiểm phiếu trên bờ phía Tây rồi ông ta hòa nhã gọi tới thừa nhận thất bại.
Sau phút ngắn ngủi với gia đình và các trợ lý chiến dịch, cha đọc bài diễn văn chiến thắng. Mẹ ở bên cạnh cha, và cả gia đình chúng tôi đứng đằng sau họ. Bốn mươi năm trước, cha, mẹ và tôi đã chuyển tới một ngôi nhà nhỏ ở Tây Texas, không dự đoán nhiều về tương lai. Con đường từ ngày đó đã không dễ dàng đối với George Bush. Ông đã chọn sự nghiệp chính trị phục vụ Đảng Cộng hòa trong một quốc gia dân chủ. Ông đã thua nhiều cuộc tranh cử nhưng cũng giành chiến thắng. Ông đã sống dưới bóng đen của những vụ tai tiếng như nhân tố Van Buren và Iran - Contra. Qua tất cả, ông không bao giờ đầu hàng. Ông tiếp tục làm việc, tiếp tục vươn lên, phấn đấu để làm tốt nhất. Và bây giờ, sau những nhiệm vụ công vĩ đại của thế kỷ XX, cha đã giành lấy công việc mà ông mong muốn nhất. George Herbert Walker Bush trở thành Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ.