M
ột lần, tôi đã hỏi mẹ tôi là làm cách nào mà cha mẹ lại sống với nhau hạnh phúc trong gần bảy mươi năm qua. “Để đến với nhau, cả cha và mẹ luôn sẵn sàng đi ba phần tư quãng đường để đến với nhau”, bà nói. Ý của bà là cả hai cam kết giữ gìn cuộc hôn nhân của họ nhiều hơn cả những gì họ dành cho bản thân. Cả hai đều sẵn sàng thay đổi nhu cầu riêng để làm hài lòng người kia.
Suốt cuộc đời, cả mẹ và cha đã dành cho nhau một tình yêu không vụ lợi. Trong những năm đầu của cuộc hôn nhân, mẹ tôi đã vì cha mà hy sinh rất nhiều. Suy cho cùng, bà đã luôn sẵn sàng để cùng cha đi hết ba phần tư quãng đường trên khắp đất nước.
Việc chuyển từ New Haven, Connecticut, nơi cha tôi tốt nghiệp Đại học Yale năm 1948, đến Tây Texas có tính quyết định tới cuộc đời của cha mẹ tôi. Khi cha tôi lái chiếc xe Studebaker màu đỏ của ông rời xa khỏi những cơ hội tốt đẹp đang chờ đợi trên phố Wall, George H.W. Bush đã bất chấp những thông lệ cũ, chấp nhận rủi ro, và hành động theo bản năng độc lập của mình. Cha mẹ tôi ý thức rằng có thể họ sẽ phải sống và phát triển trong môi trường rất khắc nghiệt cùng với những người xa lạ. Họ đã đặt chân sang một ngành công nghiệp cạnh tranh khét tiếng đang bùng nổ nhanh chóng nhưng nguy cơ phá sản cao. Họ đã đặt nền móng cho một cuộc hôn nhân bền vững - mối quan hệ đối tác lâu dài suốt cả cuộc đời, trải qua muôn vàn thử thách, khắc nghiệt, tạo ra những niềm hạnh phúc tuyệt vời, và trở thành tấm gương, là nguồn cảm hứng cho anh chị em chúng tôi. Họ đã cho tôi một món quà nữa. Suốt cuộc đời này, tôi vô cùng biết ơn George và Barbara Bush vì họ đã nuôi dưỡng tôi tại Tây Texas.
Vào tháng 11 năm 1945, George H.W. Bush kết thúc giai đoạn binh nghiệp để ghi danh tại Yale. Giống như nhiều thế hệ trước của gia đình, thời đại học của ông đã bị trì hoãn bởi chiến tranh. Nhiều tân sinh viên đã làm cha mẹ. Hai đấng sinh thành của tôi lên chức cha mẹ vào ngày 6 tháng 7 năm 1946, khi tôi được sinh ra tại Bệnh viện Grace - New Haven. Cha mẹ đã đặt tên tôi là George Walker Bush, theo tên của cha và cụ nội, không có chữ Herbert. Tôi nhớ rằng mình đã từng hỏi mẹ tại sao tên tôi không có chữ Junior1. “Con trai, hầu hết biểu mẫu đều không dài để ghi đủ chữ thứ 5 trong tên”, bà trả lời. Tôi chỉ ra đời sau khi bà tôi, Dorothy Walker Bush, cho mẹ tôi uống một liều thuốc bổ làm từ dầu quả thầu dầu (Đó là trải nghiệm đầu tiên của tôi với ngành kinh doanh dầu).
1 Thường viết tắt là “Jnr, Jr, Jun”: Dùng sau một tên người để chỉ một người con trai cùng tên với cha anh ta hoặc người trẻ tuổi hơn trong hai người trùng tên với nhau trong trường học...
Cha mẹ tôi chỉ sống cách ông bà tôi ở Greenwich khoảng một giờ, nhưng cuộc sống ở New Haven mang lại nhiều cảm xúc hơn so với khi sống tại nhà của Prescott và Dorothy Bush ở Grove Lane. Khi mới đến vùng đất này, cha mẹ tôi thuê một căn hộ nhỏ trên phố Chapel và sống cùng với chú chó xù màu đen của họ, tên là Turbo. Khi tôi ra đời, họ đã phải chuyển đi vì chủ nhà cho phép nuôi chó nhưng không cho phép nuôi trẻ sơ sinh. Sau đó, họ tìm được một chỗ ở mới trên phố Edwards, nơi chủ nhà cho nuôi trẻ sơ sinh nhưng lại không cho nuôi chó. May mắn thay, tôi đã được ở lại và Turbo đến sống tại Grove Lane. Trong năm cuối cùng ở New Haven, cha mẹ tôi chuyển đến một ngôi nhà lớn trên đại lộ Hillhouse, nơi có cả tá gia đình có trẻ em. Mẹ vẫn cười vì tã của tôi treo trên dây phơi chắn ngang khoảng không nhìn ra từ nhà của Chủ tịch Đại học Yale, người sống bên cạnh nhà tôi.
Cha mẹ tôi đã tận hưởng những năm họ sống ở New Haven. Những áp lực trong quá trình học đại học không là gì so với những điều cha tôi đã phải trải qua trong chiến tranh. Điều đó không có nghĩa là cha tôi có thể vượt qua dễ dàng. Như thường lệ, George Bush luôn để bản thân hoàn toàn đắm chìm vào công việc học tập. Ông đã rất chăm chỉ trong lớp học, giành được học vị xuất sắc Phi Beta Kappa và hoàn thành chương trình đại học trong hai năm rưỡi. Ông là thành viên của Hội sinh viên Delta Kappa Epsilon. Ông rất cởi mở và có nhiều bạn. Vào ngày Lễ Tạ ơn đầu tiên của họ tại Yale, cha biết rằng một số bạn cùng lớp của mình không thể về đoàn tụ với gia đình. Vì vậy, ông đã mời mười người bạn đến ăn tối. Mẹ tôi đã nhắc nhở cha rằng trong nhà không có phòng ăn. Nhưng điều đó chẳng quan trọng. Cha mẹ tôi và bạn bè của họ ngồi trên ghế bành và sàn nhà, cùng thưởng thức món gà tây Tạ ơn do mẹ tôi nấu. Bữa ăn không được sắp đặt trước này giống như điềm dự báo những gì sắp đến. Trong nhiều năm sau, ngôi nhà của cha mẹ tôi mở rộng cửa chào đón nhiều gia đình và bạn bè. Tuy mẹ tôi đôi khi than phiền về dòng khách bất tận đến chơi nhà, nhưng bà luôn là một nữ chủ nhân hòa nhã.
Cha tôi không chỉ kết bạn, mà ông còn là người biết giữ bạn. Nhiều thập niên sau, ông vẫn liên lạc thường xuyên với bạn bè thời đại học. Một người bạn của ông là Lud Ashley đến từ Toledo, bang Ohio. Giống như cha tôi, Lud cũng bước vào con đường chính trị. Khác với cha, Lud là Đảng viên Đảng Dân chủ Tự do. Tại Washington, họ đã ở hai phía đối diện trong một số các vấn đề chính trị nóng bỏng nhất thời đại của họ. Nhưng điều đó không ảnh hưởng đến tình bạn. Họ dành thời gian cho nhau và chia sẻ niềm vui giống như hồi cùng học ở Yale trong những năm 1940. Khi một người từng là bạn của George Bush, người đó sẽ mãi mãi làm bạn với ông suốt cuộc đời.
Sở thích của cha tôi khi học đại học đã được phát hiện vào một buổi chiều mùa xuân tại sân cỏ đại học Yale. Như sau này ông cho biết, ông theo học chuyên ngành chính là kinh tế học và chuyên ngành phụ là chơi bóng chày. Ông là đội trưởng của đội bóng và, giống như cha mình, ông đã chơi ở vị trí chủ chốt. Mẹ và tôi tham dự gần như tất cả các trận trên sân nhà của ông. Trong thời gian mang thai, bà ngồi ở vị trí đặc biệt được thiết kế riêng cho Cựu Giáo sư Luật Yale, William Howard Taft. Bà rất thích ghi điểm số, và một trong những thói quen yêu thích của tôi khi còn là một chàng trai nhỏ ở Texas là đọc điểm số trong cuộc thi đấu của cha cho mẹ viết. Đội bóng chày của Yale tham dự Cúp thế giới các trường đại học vào năm 1947 và 1948. Họ giành ngôi á quân, xếp sau trường California - Berkeley vào năm thứ nhất và sau Đại học Nam California USC năm tiếp theo. (Thông tin thêm dành cho những người hâm mộ môn bóng chày, đội Gấu Cal được dẫn dắt bởi Jackie Jensen, vô địch giải MVP Mỹ năm 1958, và đội Ngựa USC được quản lý bởi huyền thoại bóng chày Rod Dedeaux.)
Khoảnh khắc nổi tiếng nhất của cha tôi khi đang là cầu thủ chơi bóng tại trường đại học diễn ra trên chính khoảnh đất ném bóng. Tại đây, ông đã gặp huyền thoại bóng chày Babe Ruth vào mùa xuân của năm học cuối và nhận được bản sao cuốn tự truyện có chữ ký của Babe dành cho thư viện Đại học Yale. Một nhiếp ảnh gia đã chụp một bức ảnh mà sau này trở thành biểu tượng: một huyền thoại giã từ sự nghiệp và một huyền thoại khác đang ở ngưỡng cửa sự nghiệp.
Thật khó tưởng tượng cha đã làm thế nào để quản lý được mọi việc - một sinh viên giỏi nhất trường, một vận động viên ngôi sao, một người đàn ông có vô số bạn bè, một người chồng và một người cha tận tâm. Mẹ tôi đã nhận xét đó là do tính cách của cha, “Cha con làm việc chăm chỉ”. Đó là sự thật. George Bush không lãng phí thời gian. Ông dành từng phút mỗi ngày trong cuộc đời mình cho các hoạt động khác nhau.
Tuy khoảnh khắc quý giá nhất của cha tôi trên sân bóng chày là được chơi cùng Babe Ruth, nhưng thần tượng bóng chày của cha lại là Lou Gehrig. Cha ngưỡng mộ tài năng, lòng kiên trì, và đức khiêm tốn của Gehrig. Ông mơ ước được theo chân Gehrig như một vận động viên chơi tại các giải đấu lớn. Sau trận đấu ở Yale, đã có một vài nhận định được đưa ra. Trong khi khả năng chạy cánh của cha tôi rất tuyệt vời, ông lại không có lực đánh đủ mạnh để chơi ở các giải lớn. Huấn luyện viên, Ethan Allen, nhận xét ngắn gọn theo kiểu cổ điển về cha tôi: “Chạy trên sân tốt, nhưng không đánh được bóng”.
Cha tôi cũng đã loại trừ nhiều sự lựa chọn khác trong nghề nghiệp. Vào tháng 6 năm 1948, ông bất ngờ nhận được thư của một người bạn thời thơ ấu, Gerry Bemiss. Bemiss hẳn đã biết cha là thành viên của đoàn mục sư. Trong khi cha tôi luôn là một người mộ đạo, ông đã không bao giờ hình dung mình sẽ gây dựng sự nghiệp trong giới tăng lữ. “Khi nhìn tấm vải, tôi chưa bao giờ hình dung ra chiếc áo thầy tu - chỉ nghĩ về nó như một chiếc khăn trải bàn”, ông viết.
Một lựa chọn khác của cha tôi là làm việc cho chú của mình, George Herbert Walker Jr., hay còn gọi là ông Herbie. Herbie rất quý cha tôi. Trong những năm sau đó, tôi đã cảm nhận thấy sự quan tâm của ông với cha tôi như tình yêu ông trao cho con trai của mình. Ông bảo đảm với cha tôi rằng ông sẽ dành cho cha tôi một vị trí tốt trong một công ty tại phố Wall của mình. Cùng thời gian đó, Giám đốc Điều hành của Brown Brothers Harriman, công ty của Prescott Bush, cũng đã tiếp cận để mời cha tôi về làm việc.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi mà George H.W. Bush được săn đón nhiều, bởi có rất ít người vừa là anh hùng thời chiến, vừa đạt được học vị xuất sắc Phi Beta Kappa, và làm đội trưởng đội bóng chày. Cha đã nhận lời mời vào làm việc tại phố Wall một cách nghiêm túc. Ông tôn trọng công việc mà cha mình đã làm, và muốn sử dụng tấm bằng kinh tế học vào thực tế. Ngoài ra, một công việc trong ngành tài chính có thể sẽ đảm bảo cuộc sống đầy đủ vật chất cho mẹ và tôi.
Tuy nhiên, điều gì đó thúc đẩy cha tôi sang một hướng khác. Phố Wall tượng trưng cho một con đường quá cũ. Sau khi từng bay trên chiến cơ thả bom, hạ cánh trên hàng không mẫu hạm, và tiếp xúc với vô số những con người thuộc mọi tầng lớp xã hội, ý tưởng hằng ngày bắt tàu đi từ Connecticut để đến nhiệm sở và làm việc bàn giấy tại New York dường như không còn thú vị đối với ông. Ông muốn được xây dựng một cái gì đó của riêng mình hơn là làm việc văn phòng. Ông muốn làm một điều khác biệt với cuộc sống trước đây của mình. Và ông không ngại chấp nhận rủi ro.
Cha cũng muốn chứng minh rằng ông có thể thành công mà không có sự giúp đỡ từ gia đình. Tính độc lập đã ăn vào máu ông. Ông cố của ông, Obadiah Bush, đã đi đến phía tây với danh phận người Mỹ đi tìm vàng trong cơn sốt vàng. Ông nội của ông, G.H Walker, đã rời khỏi công ty gia đình ở St Louis để tự mình lập nghiệp ở New York. Cha của ông, Prescott Bush, tự hào rằng mình đã không nhận một xu nào từ cha mẹ.
Đó chính xác là những câu hỏi về những gì cần làm. Cha mẹ tôi đã đọc cuốn sách The Farm của Louis Bromfield, cuốn sách giới thiệu về những kinh nghiệm của người Mỹ để làm giàu trên mảnh đất trang trại riêng của mình. Cha mẹ tôi ấp ủ các ý tưởng này trong một thời gian nhưng quyết định cuối cùng họ nhận ra rằng các kinh nghiệm đó không phù hợp với họ. Tôi khó có thể tưởng tượng ra cảnh mẹ tôi vắt sữa bò.
Vào tháng 2 năm 1948, ông của cha tôi, S.P. Bush, mất. Cha tôi cùng gia đình và bạn bè đi trên một chuyến bay tới Columbus để dự tang. Trên đường đi, ông đã nói chuyện với Neil Mallon, một người bạn thân của Prescott Bush từ thời còn học ở Yale. Neil điều hành một công ty có tên Dresser Industries, đó là công ty bán thiết bị khoan và cung cấp vật tư cho các nhà khai thác dầu. Neil đề cập tới việc cha tôi nên xem xét làm việc cho Dresser. Cha tôi có thể học cách làm thế nào một doanh nghiệp vận hành từ con số không: quản lý kiểm kê, kiểm soát doanh số bán hàng và giới thiệu sản phẩm ra thị trường. Ông có thể mắt thấy tai nghe một ngành công nghiệp hấp dẫn, đó là kinh doanh dầu. Có một điều lưu ý: Ông sẽ phải tới khắp các mỏ dầu của toàn bộ lưu vực Permian - một khu vực bị cô lập, bụi bặm, cực nóng ở Tây Texas, nơi cư trú của các chủ trang trại với những đồn điền chăn nuôi rộng lớn và những công nhân trên giàn khoan, cùng rất nhiều dầu.
Đây là cơ hội hấp dẫn cha. Ông đã đọc các bài viết về sự bùng nổ dầu ở Texas, nơi các doanh nhân thành công như H.L. Hunt và Clint Murchison có được vận may. Ông rất thích quãng thời gian ngắn ngủi ở Corpus Christi trong suốt chuyến bay huấn luyện thời ông còn trong lực lượng Hải quân. Và có một điều chắc chắn: ông sẽ tự mình xoay xở. Prescott Bush và G.H. Walker có cái bóng rất lớn, nhưng nó không vươn xa đến Odessa, Texas.
Ngay sau lễ tốt nghiệp, Neil giới thiệu cho cha tôi công việc ở công ty con của Dresser mang tên Ideco, công ty thiết bị Derrick quốc tế. Ông đã chấp nhận. Không có gì ngạc nhiên khi cha tôi có vị trí tốt vì mối quan hệ của gia đình. Tôi được hưởng lợi từ mối quan hệ này trong cuộc đời mình. Tôi thật may mắn khi có bạn bè và người thân trong gia đình tạo cơ hội cho tôi. Nhưng mối liên kết này cũng có giới hạn. Mặc dù họ tạo cơ hội giúp đỡ nhưng cũng không đảm bảo sẽ thành công.
Trong trường hợp của cha tôi, Neil Mallon đã giúp cha tôi có một công việc bán hàng thiết bị tại một nhà kho Ideco tại Odessa với mức lương 375 đô la một tháng. Nhiệm vụ của một nhân viên bán hàng bao gồm lau dọn các tầng, sắp xếp hàng tồn kho, điều khiển giắc cắm. Ông sẽ gặp gỡ nhiều người thú vị và suy nghĩ liệu ông có thích kinh doanh dầu hay không. Ngoài ra, chẳng có gì bảo đảm.
Lần thứ hai trong cuộc sống thời trẻ của mình, George H.W. Bush đã có một quyết định táo bạo và thay đổi cuộc sống. Là một học sinh trung học, ông đã từ bỏ sự an toàn trong các trường đại học để phục vụ cho chiến tranh. Bây giờ ông đã để lại sau lưng cuộc sống tiện nghi ở Greenwich, Connecticut và đưa người vợ trẻ và con trai mới sinh đến Tây Texas.
George Bush đã không đưa ra quyết định một mình. Barbara Bush cũng quyết định cùng với ông. Di chuyển đến Tây Texas không phải là một quyết định dễ dàng đối với mẹ tôi. Bà đã trưởng thành trong gia đình tương đối giàu có ở hạt Westchester, New York. Cha bà, Marvin Pierce, đến từ tiểu bang Ohio, nơi ông ấy đã từng là một vận động viên ngôi sao tại trường Đại học Miami. Ông ấy là một người cao lớn, thân hình vạm vỡ, một người có nguyên tắc làm việc rất nghiêm khắc và nét quyến rũ của người vùng Trung Tây để xây dựng một sự nghiệp thành công, trở thành Chủ tịch Tổng công ty McCall, tại thời điểm đó nó là một trong những công ty xuất bản lớn nhất nước Mỹ.
Mẹ của bà, Pauline Robinson Pierce, hậu duệ của James E. Robinson, một Chánh án Tòa án tối cao bang Ohio. Bà ấy thừa hưởng vị trí của gia đình trong hệ thống xã hội và tiêu tiền hoang phí để có cuộc sống mà “mọi thứ đều phải tốt nhất”. Bà ấy giám sát con cái rất chặt chẽ; bà ấy đã mua toàn bộ quần áo cho mẹ tôi và quyết định trường trung học lẫn đại học cho mẹ. Bà ấy cưng chiều hết mực chị gái của mẹ tôi, Martha - một người mẫu thường xuất hiện trên tạp chí thời trang Vogue. Bà Pierce đặt niềm tin vào một cuộc sống được thanh lọc tinh tế.
Tôi có thể tưởng tượng nỗi sợ hãi của bà ấy khi con gái mình có ý tưởng sống ở Tây Texas, nơi chỉ có một thứ duy nhất được thanh lọc là dầu.
May mắn thay, cha tôi đã không phải thuyết phục Pauline Pierce. Ông chỉ cần thiết thuyết phục mẹ. Đó không phải một sự ép buộc. Sau này mẹ nói với tôi, “mẹ còn trẻ và đang yêu. Mẹ đã có thể đi bất cứ nơi nào mà cha con muốn đi”.
Tôi nghĩ rằng mẹ thích đi vì bản thân hơn là hy sinh vì cha. “Giáng sinh là một cơn ác mộng”, bà nói với tôi. “Cả nhà sẽ dành đêm Giáng sinh tại Greenwich với gia đình bên nội Bush. Rồi, vào buổi sáng Giáng sinh với gia đình bên ngoại ở Rye. Sau đó trở lại Greenwich cho bữa trưa Giáng sinh.” Chuyển nhà về miền Tây sẽ giúp bà giảm áp lực của việc làm con trong hai gia đình.
Mặc dù bà có thể không nhận ra rằng vào thời điểm đó, bà có tính độc lập. Nếu không, bà sẽ không trở thành đối tác phù hợp trong việc tìm kiếm cuộc phiêu lưu mới. Tôi chỉ có thể đoán rằng cuộc sống của cha sẽ trở nên khác đi nếu có người vợ thiếu tinh thần cởi mở thích nghi trước những thay đổi. Lịch sử có thể đã khác.
Một trong các câu chuyện gia đình mà tôi yêu thích xảy ra không lâu sau khi cha mẹ tôi kết hôn. Đó là chuyện mẹ châm một điếu thuốc, và ông tôi Prescott Bush hỏi đùa, “Cha đã cho phép con hút thuốc chưa?”.
Trước khi có thể kìm lại được, mẹ tôi đáp trả, “Vâng, người con kết hôn không phải là cha, phải không?”.
Thường chẳng ai nói với ông của tôi như thế. Lời đáp lại sắc nét vừa bật ra. May mắn là ông tôi đáp lại với một nụ cười lớn. Chỉ có một điều chắc chắn: Barbara Bush sẵn sàng nói lên suy nghĩ của mình. Đó là điều mà bà thực hiện khá thường xuyên trong những năm sau đó. Đầu óc lanh lợi và sự tự tin đã giúp bà được hàng triệu người Mỹ yêu mến. Việc bà nói lên suy nghĩ của mình khác nhiều so với những đệ nhất phu nhân khác. Nhưng kết quả của việc giao tiếp thẳng thắn đó của bà đã giúp nhiều người Mỹ hiểu và yêu thương chồng mình. Nhiều người nói thẳng với tôi rằng bất cứ ai kết hôn với Barbara Bush hẳn phải là một người đàn ông tốt phúc.
Mùa hè năm 1948, George H.W. Bush có hai nhiệm vụ trước mắt: một là bắt đầu công việc của ông, và hai là tìm nơi cho mẹ và tôi sống. Trong khi ông tìm nhà ở Odessa, Texas, chúng tôi ở lại với ông cố của tôi, G.H. Walker, tại nhà nghỉ mát của ông ở Kennebunkport, Maine.
Cuộc sống ở Walker’s Point thoải mái hơn ở Tây Texas. Trong những ngày đó, Odessa là một thị trấn dưới ba mươi nghìn dân, nằm cách thành phố chị em của nó, Midland, 20 dặm và hơn 350 dặm từ sân bay chính gần nhất tại Dallas. Hầu hết các con đường không lát đá. Vài tòa nhà cao hơn một tầng, đường chân trời có các giàn khoan dầu nằm rải rác. Nhiệt độ mùa hè thường lên tới ba con số2, đôi khi trước buổi trưa, và hạn hán kéo dài rất phổ biến. Địa hình phẳng không mang lại sự thoải mái dễ chịu, cũng chẳng có bất kỳ bóng râm tự nhiên nào, vì Tây Texas không có cây bản địa. Và những cơn gió thổi mạnh hơn, thường mang theo những đợt sóng của bụi bẩn.
2 Theo thang nhiệt độ Fahrenheit (F) đang được sử dụng rộng rãi ở Mỹ.
Tên của Odessa được đặt theo tên của thành phố Ukraina giáp với Biển Đen, và ngay từ đầu, nó như một thành phố xa lạ đối với cha tôi. Ông không quen biết bất kỳ ai khi mới đến. Người ông gặp đều giống như những người trong quân ngũ hơn là những người hàng xóm. Odessa là một thị trấn cổ, người dân đều làm việc ở các mỏ dầu, họ là những người thợ cơ khí sửa chữa thiết bị và những người làm công trên giàn khoan. Một trong những đồng nghiệp của cha tôi đã từng hỏi ông rằng ông đã từng đi học đại học hay chưa. Cha trả lời thành thật ông vừa tốt nghiệp Đại học Yale. Người đồng nghiệp nghĩ một lúc và nói: “Tôi chưa bao giờ nghe tới tên trường đó”. Thời trang ở Tây Texas cũng khác. Cha từng bước ra khỏi nhà khi ông chỉ mặc quần soóc ngang gối. Sau khi một số tài xế bấm còi inh ỏi nhìn ông, ông liền trở về nhà và cất hết quần soóc mãi mãi không mặc lại nữa. Thức ăn thậm chí cũng xa lạ. Cha tôi luôn nhớ lần đầu tiên ông nhìn thấy một người nào đó đã gọi món ăn đặc trưng của Tây Texas: bít tết gà chiên.
Cha tìm được một ngôi nhà trên đường Số 7 phía Đông. Điều đáng mừng là nó có phòng tắm và nhà vệ sinh bên trong, khác với hầu hết các ngôi nhà còn lại trên con đường này có nhà tắm và vệ sinh tách xa nơi ở. Tin xấu là chúng tôi phải dùng chung nhà vệ sinh với hai phụ nữ sống ở phía bên kia tòa nhà, đó là một cặp mẹ và con gái cùng kiếm sống bằng cách mua vui cho khách hàng nam giới hằng đêm. So với ngôi nhà này thì phòng số 13 bên cạnh nhà của Chủ tịch Đại học Yale dường như không đến nỗi tồi tệ.
Cuộc sống ở miền Tây Texas đòi hỏi chúng tôi phải thay đổi nhiều. Ít lâu sau khi tôi cùng mẹ đến ở với cha tại Odessa, mẹ thức giấc lúc nửa đêm khi ngửi thấy mùi khí đốt. Nghĩ rằng ngôi nhà có thể bị nổ, bà chộp lấy tôi và đẩy tôi ra ngoài đường. Người hàng xóm chứng kiến cảnh chúng tôi tháo chạy khỏi ngôi nhà đã vui vẻ giải thích rằng sự thay đổi của hướng gió đã mang mùi của mỏ dầu bay tới đây. Không có vấn đề gì. Tất cả chúng tôi có thể tiếp tục đi ngủ. Kinh nghiệm này của mẹ xác nhận một sự thật về Tây Texas: Cuộc sống xoay quanh dầu. Dầu ở dưới đất, ở trong không khí, và len lỏi vào tâm trí của tất cả những người đang coi nơi này là nhà.
Chìa khóa cho sự thành công của cha mẹ tôi khi đến một môi trường mới là thái độ của họ. Họ không nhìn nhận cuộc sống ở miền Tây Texas như một cuộc sống đầy gian khổ khiến họ phải chịu đựng; họ nắm lấy nó như một cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầu tiên giống nhiều cặp vợ chồng khác. Họ quan tâm đến mọi người và kết bạn với nhiều người. Trong quá trình đó, họ nhận ra rằng họ không cần tài xế riêng hay quản gia người Pháp để có thể hưởng thụ cuộc sống. Họ có nhau. Và họ có thể cùng nhau xử lý bất kỳ tình huống nào.
Cả ba chúng tôi đã đón Giáng sinh năm 1948 tại Odessa. Vào đêm Giáng sinh, công ty của cha tổ chức một bữa tiệc cho khách hàng. Cha tình nguyện pha chế đồ uống. Để thể hiện tinh thần ngày lễ, ông đã nâng một ly có pha hầu hết các loại rượu. Đến cuối buổi chiều, những người phục vụ quầy rượu đã giúp đưa ông vào phía sau chiếc xe tải nhỏ của công ty. Một trong những đồng nghiệp của ông đã đưa ông về nhà, và đẩy ông lăn vào bãi cỏ trước nhà. Gia đình nhà Bush đã thích nghi hoàn toàn với bụi rậm miền Tây Texas.
* * *
Mẹ không bao giờ muốn cha quên câu chuyện trong bữa tiệc Giáng sinh của Odessa, vì nó là điển hình cho cách làm việc của ông: Khi cam kết sẽ làm một cái gì đó, ông sẽ làm tất cả. Nếu George Bush được phân công quét các kho hàng, người quản lý sẽ nhìn thấy sàn sạch nhất mà ông ta chưa bao giờ nhìn thấy. Nếu phải sơn giàn khoan, ông sẽ mang đến một chiếc áo khoác vào buổi sáng thứ Bảy để đảm bảo các công việc thực hiện đúng. Cha tôi làm việc rất chăm chỉ, và ông thích nhìn thấy kết quả của những nỗ lực của mình. Những bài học của bà nội tôi đã ăn sâu vào suy nghĩ của ông: cố gắng làm hết sức mình. Không kiêu ngạo. Không bao giờ phàn nàn.
Sau một thời gian, những người quản lý nhận ra rằng thực tập sinh của họ có khả năng làm những việc lớn hơn. Vậy là vào năm 1949, khi tôi ba tuổi, cha được chuyển đến California. Ở đó, ông làm việc bảy ngày một tuần trong nhà máy bơm dầu, sau đó trở thành một nhân viên chào hàng cho các công ty con của công ty Dresser, rao bán mũi khoan và thiết bị khác. Chúng tôi sống ở bốn thành phố khác nhau trong năm đó: Whittier, Ventura, Bakersfield, and Compton. Ở Whittier và Ventura, chúng tôi đã thuê phòng tại các khách sạn địa phương cho đợt nghỉ dài. Ở Bakersfield, chúng tôi sống một tháng trong một ngôi nhà màu trắng rộng 88 mét vuông. Ở Compton, chúng tôi sống trong một căn hộ thuộc khu liên hợp ở Santa Fe Gardens. (Thật đáng buồn, khu liên hợp này đã bị lên án nhiều năm nay vì ma túy và bạo lực.)
Lối sống nay đây mai đó của chúng tôi tại California nói lên sự kiên cường của mẹ, người phải liên tục đóng gói và dỡ đồ đạc ra, cũng như chăm sóc tôi. Trên hết, bà đã mang thai em gái tôi, Robin, em ra đời vào dịp Giáng sinh năm 1949. Chúng tôi sống ở Compton trong thời gian này. Mẹ tôi muốn chắc chắn rằng ai đó có thể trông nom tôi khi bà ở bệnh viện, vì vậy bà hỏi hàng xóm của chúng tôi, người mà bà coi là bạn bè. Hàng xóm đã đồng ý. Không bao lâu trước khi mẹ chuyển dạ, bà biết được là người hàng xóm ấy đã mang con chạy trốn vì bị người chồng nát rượu bạo hành quá nhiều lần. Có quá nhiều vấn đề với người trông giữ tôi. Bằng cách nào đó mẹ đã tìm được một người thay thế (không ai nhớ người đó là ai), và em gái Robin của tôi được sinh ra vào ngày 20 tháng 12 năm 1949.
Robin đã được đặt theo tên của bà tôi, Pauline Robinson Pierce, người đã mất trong tai nạn xe cộ ba tháng trước. Ông tôi không chịu để cho mẹ tôi đến tham dự tang lễ vì sợ rằng chuyến đi sẽ gây nguy hiểm cho em bé. Thật khó khăn cho mẹ khi không được ở bên cạnh cha mình - người mà bà quý mến - trong thời gian ông ấy đau buồn nhất.
Những năm tháng ở California cũng không dễ dàng đối với cha tôi. Phần lớn thời gian ông dành để di chuyển trên đường. Ông ước tính rằng mình phải lái xe đi quãng đường một ngàn dặm mỗi tuần. Không phải là người giảo hoạt, nhưng ông đã phát triển một phương pháp kinh doanh hiệu quả. Ông vun đắp các mối quan hệ cá nhân, như cách ông đã làm trong trường học và quân đội. Theo thời gian, ông đã mang đến cho khách hàng những thứ còn quý hơn cả mũi khoan: Ông đã giành được sự tin tưởng của họ.
Mùa xuân năm 1950, cha tôi nhận được tin rằng Dresser đã chuyển ông trở lại Tây Texas. Ông có thể chọn sống ở một trong hai nơi: Odessa hoặc Midland. Là một người cha hai mươi lăm tuổi của hai đứa con, ông muốn ổn định cuộc sống. Cha và mẹ đã chọn sống ở Midland, khi đó là trụ sở của 215 công ty dầu với khoảng 21.000 người dân. Chúng tôi sẽ coi Midland là nhà trong chín năm tiếp theo. Đây là thành phố đầu tiên mà tôi nhớ mình đã sống, và nó sẽ mãi mãi là quê hương của tôi.
* * *
Midland, Texas, được lấy tên từ vị trí của khoảng giữa Fort Worth với El Paso Texas và trên tuyến đường sắt Thái Bình Dương. Giống như Odessa, Midland đẩy bạn đến cảm giác của cuộc sống với những cực điểm. Tôi nhớ cha tôi đi vào sân sau của ngôi nhà chúng tôi đang sống ở Midland và phải chiến đấu với một con nhện độc lớn trên mái hiên bằng một cây chổi. Những sinh vật nhiều lông thường chạy rất nhanh. Cha đã phải vận dụng tất cả kỹ năng của một tiền vệ bóng chày để tránh những tổn hại có thể xảy đến với tổ ấm bình yên của mình.
Trong khi Midland và Odessa có địa hình tương tự nhau, thì dân cư ở hai thành phố này lại rất khác nhau. Hầu hết mọi người ở Odessa làm cho công nghiệp dầu khí; còn người ở Midland làm văn phòng. Giống như Odessa, Midland là một thành phố cảng, và thật khó để tìm được nhà ở. Chúng tôi đã sống một thời gian ngắn tại một khách sạn, sau đó chuyển vào một ngôi nhà 78 mét vuông mới ở vùng ngoại ô thị trấn. Các khu phố được gọi là Dãy phố Trứng Lễ Phục sinh, bởi các kiến trúc sư đã lựa chọn màu sơn rực rỡ để giúp cư dân phân biệt nhà. Trứng Phục sinh của chúng tôi tọa lạc tại số 405 đường Đông Phong (East Maple), có màu xanh dương.
Midland vào những năm 1950 có nét cá tính đa sắc. Có những người túng quẫn trong một ngày và giàu lên ngay sau đó. Có những gia đình làm trang trại nhiều đời trên mảnh đất này trước khi diễn ra các cuộc đình công của công nhân mỏ dầu. Có những người Texas từ các vùng khác của bang, đặc biệt là sinh viên tốt nghiệp của trường Đại học Texas và Đại học Texas A & M. Cha tôi là một phần trong số rất ít sinh viên tốt nghiệp từ nhóm các trường đại học tinh hoa nhất đã từ chối cơ hội phía bờ Đông để cọ xát trong nghề thầu khoán ở vùng có trữ lượng dầu lớn. Có những chuyên gia mang đến các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp dầu: bác sĩ, chủ ngân hàng, luật sư, giáo viên, và các nhà xây dựng, trong đó có một người đàn ông tên là Harold Welch có cô con gái duy nhất, Laura Lane, người mà tôi sẽ kết hôn vào nhiều năm sau đó tại nhà thờ First United của những người theo Hội Giám lý vùng Midland.
Midland là một vùng đất đầy cạnh tranh. Những người làm trong ngành dầu phải đánh bại hàng xóm của họ để giành hợp đồng thuê đất và quyền sử dụng đất. Sự không chắc chắn của ngành kinh doanh đã có ảnh hưởng công bằng. Bất cứ ai cũng có thể thắng lớn; ai cũng thể khoan một lỗ thăm dò. Ngành kinh doanh đòi hỏi sự chăm chỉ và đầu tư cho khoa học, nên mỗi người bán dầu luôn mong chờ vận may. Tuy nhiên, Midland cũng thúc đẩy ý thức cộng đồng. Mọi người liên kết với nhau trong môi trường khắc nghiệt và bị cô lập.
Cuộc sống ở miền Tây Texas rất đơn giản, giống như tên của các thị trấn dọc theo con đường đầy bụi của nó: Big Lake (chỉ một hồ nước), Big Spring (chỉ một ít nước), và No Trees (thậm chí không một giọt nước). Tôi và những người bạn thân thường ở ngoài trời cả ngày, chơi bóng chày hay bóng đá. Vào những ngày thứ Sáu mùa thu, từng dòng người nối nhau vào sân vận động Memorial Midland để xem đội Midland High Bulldogs. Một trong những cầu thủ tôi yêu thích là Midland Wahoo McDaniel, người sau này là ngôi sao của đội Sooners Oklahoma, New York Jets, và các trận đấu vật chuyên nghiệp. Vào các buổi sáng Chủ nhật, hầu hết mọi người đến nhà thờ. Bây giờ nhìn lại, tôi có thể thấy lý do tại sao cha mẹ tôi thích Midland nhiều như vậy. Sự hòa trộn của tinh thần cạnh tranh và cộng đồng chính là những gì cha đã được dạy bảo từ nhỏ. Ông đã mang những giá trị đã học được từ quê nhà và gieo chúng xuống giữa sa mạc Texas.
Một vài tháng sau khi chúng tôi tới Midland, cha tôi bất ngờ nhận được lá thư từ Tom McCance, một nhà điều hành tại Brown Brothers Harriman. Công ty này tiếp tục mời cha tôi làm việc. Kiến thức của cha về ngành dầu khí ở Texas sẽ trở nên có giá ở phố Wall. Lời đề nghị này có thể tạo một lối thoát hoàn hảo. Cha mẹ tôi có thể nói rằng họ thích cuộc sống ở Tây Texas, họ đã học được nhiều điều mới lạ và nay sẵn sàng để quay trở lại cội nguồn của mình. Nhưng họ đã không làm như vậy. Cha tôi cảm ơn sự hào phóng của ông McCance, nhưng cha từ chối lời đề nghị làm việc. Ông đã đặt cược sự nghiệp của mình ở Tây Texas.
Những kỷ niệm ấm áp nhất của tôi trong những năm ở Midland là khoảng thời gian tôi ở bên cha. Ông luôn bận rộn với công việc gây dựng công ty và những chuyến công tác. Ông tích cực hoạt động trong cộng đồng, giảng dạy ở lớp học Chủ nhật tại nhà thờ First Presbyterian và là trưởng nhóm tài xế quyên góp gây quỹ cho United Way và Hội nam thanh niên Công giáo (YMCA). Tuy nhiên, tôi không bao giờ cảm thấy ông đang đi vắng. Ông luôn cố gắng hết sức giành nhiều thời gian nhất trong khả năng có thể cho các con. Như em trai của tôi, Jeb, đã nói, George H.W. Bush đã sáng tạo ra cụm từ mới, thời gian ông dành cho gia đình là “thời gian chất lượng”. Đi làm về, ông tháo găng tay ra và chơi bóng chày với tôi ngay trong sân nhà của chúng tôi tại 1412 Đại lộ Tây Ohio, nơi chúng tôi chuyển tới từ năm 1951. Ngôi nhà đó hiện là Ngôi nhà Thời thơ ấu của George W. Bush. (Tôi đã luôn thắc mắc tại sao bảo tàng không gọi đó là Ngôi nhà của George H.W. Bush đồng thời là nơi George W. Bush sống thời thơ ấu).
Vào những ngày cuối tuần, cha và bạn bè của ông đưa tôi đi săn chim bồ câu - thú vui vào ngày nghỉ của những người ở miền Tây Texas. Tôi mang theo khẩu 410 được cha tặng dịp Giáng sinh sau khi tôi thuyết phục cha rằng tôi đã nắm vững những bài học sử dụng súng an toàn. Chúng tôi thường tập trung quanh một hồ nước ở giữa vùng đất khô, làm bánh kẹp trong lò nướng xách tay và chờ đến khi mặt trời lặn với hy vọng chim bồ câu sẽ bay đến đây khi chúng khát nước. Cha cũng đưa tôi đến các giếng dầu, nơi tôi có thể đến gần để xem giàn khoan và những chiếc máy bơm đang vận hành. Những chuyến đi đã kích thích tôi quan tâm tới việc kinh doanh dầu, lĩnh vực mà sau này tôi đã theo đuổi nó bằng cách trở thành một nhà kinh doanh dầu độc lập giữa thập kỷ 70.
Nhà của chúng tôi trở thành trung tâm của các hoạt động. Một hôm cha đưa về một kỹ sư từ Nam Tư ông đã gặp khi kinh doanh dầu. Ông ấy ở lại nhà chúng tôi một tuần, cha tôi dẫn ông ấy đi xem các giếng dầu ở Tây Texas. Có một mùa hè ở Midland, em trai của cha tôi, Bucky, ít hơn cha tôi mười bốn tuổi, và bạn cùng học với chú ấy, Fay Vincent – người sau này trở thành Ủy viên hội đồng Liên đoàn Bóng chày chuyên nghiệp, tới sống với chúng tôi để làm công nhân giàn khoan dầu.
Cha mẹ tôi liên tục mời hàng xóm đến tiệc thịt nướng ngoài trời ở sân sau hoặc thưởng thức các loại rượu pha nước trái cây. Tôi nhớ vào một dịp Giáng sinh, tôi nhận được quà là một chiếc tù và, tôi đã thổi nó nhiều quá, vì thế cha tôi đã lấy lại và đập vỡ nó. Vài ngày sau, một trong những người hàng xóm của tôi mua được chiếc tù và giống như thế, đã gọi điện tới nhà tôi cho tới khi cha tôi nhấc máy trả lời, sau đó thổi còi vào điện thoại. Một lần khác, cha tôi bày trò trêu đùa người bạn tốt và là đồng môn của cha ở Đại học Yale, Earle Craig, người rất thích ăn hành tăm khi uống rượu martini. Một đêm, cha tôi bỏ mấy củ hành bằng cao su vào ly martini của chú ấy. Khi Bá tước (nhiều người bạn gọi vui Earle Craig là Earl Craig, tức Bá tước Craig) ăn hết củ hành bằng cao su một cách đầy kịch tính, tất cả những người bạn đứng xung quanh phá lên cười sằng sặc. Chú Earle lúc đó mới biết mình bị trêu. Cuộc sống ở Midland đã đong đầy tình bằng hữu và vô tư như vậy.
Tôi không nhớ nhiều về các cuộc trò chuyện của chúng tôi trong những năm đó, nhưng có thể dám chắc hầu hết thời gian, tôi nói chuyện với cha về trường học hoặc các môn thể thao. Cha tôi không phải là người thích giảng giải về chính trị và triết học. Ông dạy chúng tôi bằng cách làm gương cho chúng tôi noi theo. Nếu tôi thắc mắc, cha luôn có câu trả lời. Ông luôn đưa ra lời khuyên hữu ích.
Khi mới sáu tuổi, tôi cùng một số người bạn tới một cửa hàng bách hóa ở Midland. Tôi nhìn thấy những chú lính đồ chơi bằng nhựa trong một cái lọ đặt trên kệ hàng. Tôi quyết định lấy chúng cho vào túi và ra khỏi cửa hàng mà không trả tiền. Vào cuối ngày hôm đó, cha thấy tôi chơi những chú lính đồ chơi ăn cắp ở sân trước.
“Chào con trai”, ông nói. ”Con đang làm gì ở đây?”
“Con chơi lính”, tôi nói.
“Con lấy những chú lính này ở đâu?”, ông hỏi.
Tôi do dự. Ông hỏi một lần nữa.
Sau khi do dự một chút, tôi thú nhận. ”Con đã lấy chúng từ cửa hàng bách hóa”, tôi nói.
“Đi với cha”, ông nói. Chúng tôi ra xe và lái xe tới cửa hàng. Cha bảo tôi tự đi vào cửa hàng một mình, đem trả lại những chú lính và xin lỗi người quản lý vì đã đánh cắp chúng. Tôi đã làm theo những gì ông yêu cầu và cảm thấy hối hận về việc mình đã làm. Khi tôi trở lại xe, cha không nói thêm một lời nào. Ông biết mình đã làm xong những việc cần làm.
Hầu hết công việc chăm sóc các em tôi và tôi đều do mẹ đảm nhận. Mẹ lái xe đưa tôi đến sân tập bóng chày và ghi lại điểm số trong trận đấu của tôi, giống như khi bà ghi điểm số cho các trận bóng của cha. Mẹ trở thành mẹ nuôi của cả nhóm hướng đạo sinh, đi theo chúng tôi lên rừng quốc gia Carlsbad Caverns và sa mạc Sandhills Monahans. Mẹ luôn chào đón bạn bè của tôi đến ăn trưa hoặc ăn tối trong khoảng thời gian kết thúc giờ tập bóng chày chờ sang giờ tập bóng đá. Bà thiết lập kỷ luật khi cần thiết. Không như cha tôi, bà không tin tưởng tính hiệu quả của việc tế nhị và kín đáo với trẻ nhỏ. Một trong những kỷ luật bà thường áp đặt khi tôi còn nhỏ là rửa miệng bằng xà phòng khi tôi nói hoặc làm một điều gì đó “bẩn thỉu”, ví dụ như khi mẹ bắt gặp tôi đi tiểu vào hàng rào. Hầu hết thời gian, bà để tôi tự do vui chơi và là một cậu bé có tinh thần tự do.
Cách cha mẹ nuôi dạy con cái phản ánh thái độ của cả thế hệ. Cha tôi dành nhiều thời gian cho chúng tôi hơn cha của ông dành cho ông, nhưng ông thời đó không dành hết tâm trí cho con cái như những người làm cha thời nay. Và họ cũng chẳng bộc lộ nhiều cảm xúc gần gũi với con như thời nay. Khi tôi còn nhỏ, cha không ôm hôn chúng tôi, và cha cũng không nói “Cha yêu con”. Nhưng ông chẳng cần nói ra. Chúng tôi luôn biết rằng cha yêu chúng tôi vô điều kiện.
Chúng tôi biết rằng cha mẹ tôi rất yêu nhau. Trong sáu mươi chín năm, tôi đã quan sát cuộc hôn nhân của cha mẹ tôi, tôi không bao giờ nghe thấy họ nói nhau nặng lời. Chắc chắn, có một chút xích mích và bất đồng quan điểm. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm nhận thấy sự tức giận hay thất vọng nào. Sự hòa hợp, yêu thương của họ là nguồn gốc của sự vững vàng khi tôi còn nhỏ, và là nguồn cảm hứng cho tôi khi tôi quyết định cưới Laura.
Vào khoảng thời gian đó, các em của tôi và tôi không nhận ra chúng tôi vô cùng may mắn. Những người khác thì nhận ra điều đó. Tại buổi lễ kỷ niệm năm mươi năm tốt nghiệp trường phổ thông của Laura, người bạn thời thơ ấu của tôi, Mike Proctor, kéo tôi sang một bên để trò chuyện. Mike sống ở cùng một con phố với chúng tôi đến khi chúng tôi trưởng thành. Chúng tôi bằng tuổi nhau và học cùng lớp. Mike dành nhiều thời gian ở nhà chúng tôi. Chúng tôi đạp xe cùng nhau, chơi đá bóng với nhau và cùng là thành viên đội thiếu niên hướng đạo sinh. Không như tôi, gia đình của Mike có nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Tại buổi họp mặt, Mike nói, “Có một việc mà tôi muốn nói với cậu từ lâu rồi. Tôi cần cậu giúp tôi một việc”.
“Tất nhiên rồi, Mike”, tôi nói. ”Chuyện gì vậy?”
“Hãy chuyển tới mẹ cậu lời cảm ơn của tôi.”
Cậu ấy tiếp tục, “Lúc đó, có lẽ cậu không nhận ra gia đình tôi không hạnh phúc. Chính lòng tốt của mẹ cậu đã cho tôi thấy một gia đình thật sự là như thế nào”.
Ngày hôm sau, tôi gọi điện cho mẹ và nói với bà những gì Mike đã nói. Tôi có thể nói rằng lời cảm ơn của Mike đã chạm tới trái tim bà.
“Nói với Mike là mẹ gửi tình yêu của mẹ cho cậu ấy”, bà nói.
Khi em gái tôi, Robin, được ba tuổi, mẹ nhận thấy em không khỏe. Khi mẹ hỏi em muốn làm gì, Robin nói chỉ muốn ngồi trên giường hoặc nằm trên bãi cỏ. Điều đó không bình thường với một đứa bé ba tuổi, vì vậy mẹ đã đưa Robin tới bác sĩ gia đình của chúng tôi ở Midland, Dorothy Wyvell.
Bác sĩ Wyvell đã tiến hành một số xét nghiệm. Mẹ lo lắng rằng kết quả không tốt khi bác sĩ gọi điện mời mẹ tôi quay trở lại phòng khám, và đi cùng với cha. Bậc phụ huynh nào cũng có thể tưởng tượng được nỗi đau khi bác sĩ thông báo về bệnh của con. Bác sĩ Wyvell nói với cha mẹ tôi rằng kết quả xét nghiệm máu của Robin cho thấy em tôi đã bị bệnh bạch cầu. Không chỉ gây bệnh cho em tôi mà số lượng tế bào máu trắng của em ấy đã cao vượt mức cho phép, chỉ số cao nhất mà bác sĩ Wyvell từng thấy.
Cha mẹ tôi biết là em bị bệnh, nhưng họ không thể tưởng tượng được tình trạng bệnh tật đến mức này. Cuối cùng cha tôi hỏi, “Bước tiếp theo là gì? Chúng tôi nên chăm sóc cháu như thế nào?”.
Khi bác sĩ Wyvell trả lời, đôi mắt của cô ấy đong đầy nước. Cô ấy không chỉ là bác sĩ của gia đình tôi; trong mối quan hệ khăng khít ở Midland, cô ấy còn là một người bạn. “Anh không thể làm được gì”, cô ấy nói. “Con bé có lẽ chỉ còn sống vài tuần nữa. Anh nên đưa con bé về nhà và làm mọi việc có thể làm để cho con bé thoải mái.”
Cha tôi không thể chấp nhận được rằng chẳng có hy vọng gì để cứu cô con gái nhỏ của mình. Ông về nhà và gọi điện cho anh trai của mẹ mình, bác sĩ John Walker, tại Memorial Sloan Kettering, bệnh viện ung thư tốt nhất ở New York. Bác của cha cho biết một số tiến bộ mới nhất trong y học có thể giúp Robin. Ông cũng khẳng định những gì bác sĩ Wyvell đã nói: bệnh bạch cầu ở trẻ em không có cách chữa trị.
Cha mẹ tôi đã đưa Robin đến New York. Họ biết đây là một canh bạc, nhưng họ không thể vứt bỏ con gái mình. Như bác sĩ Walker nói với cha tôi, “Cháu sẽ không bao giờ có thể đối mặt với chính mình nếu cháu không cố gắng để chữa trị cho con bé”.
Cha mẹ tôi chưa bao giờ thực sự nói với tôi những gì đang xảy ra. Họ chỉ nói rằng Robin bị ốm và rằng em ấy cùng mẹ cần đến New York gặp ông John để chữa bệnh. Cha tôi như con thoi qua lại giữa New York và Midland. Đôi khi bệnh thuyên giảm, em tôi được về nhà vài tuần. Sau đó con bé bị đau trở lại, và họ lại bay đi New York. Khi cha mẹ tôi đi, họ để tôi và em trai tôi, Jeb, mới sinh vài tháng trước đó, ở lại với bạn bè và hàng xóm ở Midland. Họ đã thay thế cha mẹ chúng tôi mà không chút tính toán.
Cha mẹ đối diện với căn bệnh của Robin theo những cách khác nhau. Cha tôi hoạt động như một cơn lốc. Khi ở New York, ông gặp gỡ với bác sĩ, xem kết quả kiểm tra và hỏi về phương pháp điều trị mới. Ở Texas, ông ra từ sáng sớm, dừng lại ở nhà thờ cầu nguyện cho Robin, và sau đó quăng mình vào công việc. Nhìn lại những việc làm đó, tôi có thể thấy rằng hoạt động điên cuồng là cách ông đối phó với sự bất lực của bản thân. George Bush, phi công Hải quân, người bơi đến chiếc bè cứu sinh và chèo lái ra khỏi cõi chết, có thể cảm thấy không thể chịu đựng nổi khi chẳng thể làm bất cứ điều gì cho cô con gái nhỏ yêu thương.
Trái ngược với chuyến đi liên tục của cha tôi, mẹ tôi dành hầu hết thời gian bên giường bệnh của Robin, chơi với con bé, đọc sách cho con bé nghe, và cố gắng để giữ vững tinh thần. Bà ở với gia đình Walker tại New York, và các thành viên gia đình thường ghé qua bệnh viện để hỗ trợ. Ông cố của tôi, G.H. Walker - bảy mươi tám tuổi, đang sống những năm cuối đời - đã dành thời gian dạy Robin chơi bài. Em Robin gọi là trò chơi bài Poppy, biệt danh gia đình dành cho cha tôi.
Phương pháp điều trị của Robin rất đau đớn. Việc sử dụng hóa trị liệu và truyền máu làm cạn kiệt sức khỏe của con bé. Mẹ tôi đặt ra một quy định: không được khóc trước mặt Robin. Cha tôi có khoảng thời gian vô cùng khổ sở khi tuân thủ nguyên tắc này. Mẹ ngồi nhẫn nhịn bên cạnh và an ủi con gái mình khi con bé phải chịu đựng những cơn đau của quá trình điều trị. Như người viết tiểu sử Richard Ben Cramer đã mô tả hình ảnh mẹ tôi trong những ngày đó, “Đó là sức mạnh phi thường - một hành động anh dũng của ý chí và tình yêu”.
Một ngày, khi Robin đang nghỉ ngơi, mẹ đi thăm ông bà nội ở Greenwich, Connecticut. Ông tôi, Prescott Bush, vừa được bầu vào Thượng viện Mỹ, đã đưa bà đi một quãng đường dài qua nghĩa trang Putnam ở Greenwich. Ông đã chỉ cho mẹ tôi thấy nơi chôn cất mà ông bà đã chọn là nơi an nghỉ cuối cùng của họ. Ở đó còn chỗ để đặt thêm một tấm bia mộ. Đó là cách ông muốn nói với mẹ tôi rằng ông bà sẽ chăm sóc cho Robin khi chuyện gì phải đến sẽ đến, và rằng ông muốn cháu gái của mình được an nghỉ bên cạnh ông bà. (Nhiều thập kỷ sau đó, cha mẹ tôi đã di dời phần mộ của Robin đến mảnh đất nghĩa trang gia đình trong khuôn viên sau này sẽ xây thư viện Tổng thống Bush cha tại College Station, Texas.
Cuối cùng chuyện đó cũng xảy đến vào ngày 11 tháng 10 năm 1953, Robin đã ra đi bình an sau bảy tháng điều trị. Trong những khoảnh khắc cuối cùng của con bé với cha tôi, Robin ngước nhìn ông với đôi mắt màu xanh tuyệt đẹp của mình và nói, “Con yêu cha hơn những gì con có thể nói”. Cha có thể đã nhắc đi nhắc lại lời nói đó trong suốt phần đời còn lại của mình.
* * *
Tôi còn nhớ như in ngày cha mẹ nói với tôi Robin đã qua đời. Một trong những giáo viên của tôi tại trường Tiểu học Sam Houston đã yêu cầu tôi và một người bạn cùng lớp mang máy ghi âm sang dãy nhà bên kia trường. Khi chúng tôi ra ngoài, tôi thấy cha mẹ tôi bước ra từ chiếc Oldmobile màu xanh hạt đậu của họ. Tôi không biết lý do tại sao họ lại tới đón tôi vào giữa buổi học. Khi tôi chạy nhanh về phía chiếc xe, tôi nghĩ rằng mình sẽ nhìn thấy những ngọn tóc vàng của Robin ở ghế sau. Tôi rất vui mừng vì nghĩ rằng em tôi được trở về nhà. Nhưng khi tôi tới gần chiếc xe, con bé lại không ở đó. Mẹ ôm chặt tôi và nói rằng em đã rời xa chúng tôi mãi mãi. Trên đường về nhà, lần đầu tiên tôi thấy cha tôi khóc.
Sau cái chết của Robin, cha mẹ tôi bất ngờ thay đổi. Cha trở thành một người mạnh mẽ, giải quyết mọi việc tang lễ và hậu cần. Một trong những quyết định đầu tiên của cha mẹ là tặng thi thể của Robin cho nhóm bác sĩ Memorial Sloan Kettering. Các bác sĩ nói với cha mẹ tôi rằng họ có thể học hỏi từ việc nghiên cứu căn bệnh của con bé, và cha mẹ tôi hy vọng rằng cái chết của Robin có thể mang lại nhiều lợi ích cho những trẻ em đau khổ khác. Nghiên cứu ung thư ở trẻ em đã trở thành một mục tiêu trong cuộc sống của họ. Ngày nay, bệnh viện ung thư của trẻ em tại Trung tâm Ung thư MD Anderson ở Houston mang tên Robin của chúng tôi.
Sau bảy tháng cố gắng mạnh mẽ, mẹ tôi đã gục ngã. Bà phải chịu đựng những cơn trầm cảm trở thành căn bệnh bà thường gặp phải sau này. Ở tuổi hai mươi tám, mái tóc nâu đen của bà bắt đầu chuyển bạc.
Tuy còn quá nhỏ để hiểu một cách chính xác về sự ra đi của Robin, tôi cảm thấy rằng mẹ đã rất đau đớn. Sau đó bà nói với tôi rằng tôi đừng đi chơi với các bạn nữa để ở nhà với mẹ và cố gắng làm mẹ vui lên bằng những trò đùa. Cha tôi tìm cách để vực dậy tinh thần cho mẹ. Ông lên kế hoạch đưa gia đình đi thăm bạn bè và dần giúp mẹ tôi tiếp tục cuộc sống. Thay vì dằn vặt về sự ra đi của Robin, họ nhớ về khoảng thời gian đã được sống cùng con gái.
Sự ra đi của Robin không ảnh hưởng tới mối quan hệ của cha mẹ tôi, không giống như mối quan hệ của nhiều cặp vợ chồng bị phá vỡ khi một đứa con ra đi. Trong trường hợp của cha mẹ tôi, họ chia sẻ nỗi đau với nhau và cuộc hôn nhân của họ trở nên ổn định hơn. Khi họ cần nhau nhất, cả hai đều sẵn sàng để cùng nhau đi ba phần tư con đường.
Cha tôi không bao giờ nói nhiều về sự ra đi của Robin. Vào khoảng thời gian đó, mọi người không thảo luận về các chủ đề như thế. Một vài năm sau khi Robin qua đời, cha đã viết cho mẹ của ông một lá thư cảm động về cảm giác cô đơn của cha. ”Chúng con cần thấy một lọn tóc vàng khi cắt những mái tóc ngắn của tụi con trai. Chúng con cần một ngôi nhà búp bê trong đống đồ chơi đầy bóng, mũ và gậy”, ông viết. ”Chúng con cần một cô con gái.” Lời cầu nguyện của ông đã được trở thành hiện thực khi em gái tôi, Dorothy, chào đời vào năm 1959. Khi lần đầu tiên nhìn thấy bé trong bệnh viện, ông đã áp mặt lên cửa kính phòng hộ sinh và khóc.
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1980, một nhà báo hỏi cha tôi liệu ông đã từng phải đối mặt bất kỳ “khó khăn cá nhân” nào hay chưa. Ẩn ý của câu hỏi là liệu một người có một cuộc sống đầy đủ như George Bush có trải qua những khó khăn như của người dân thường không.
Cha tôi có thể nói rằng ông đã bị bắn hạ bởi hỏa lực của địch trong Thế chiến thứ hai, hay rằng ông đã gần như chết vì nhiễm tụ cầu khuẩn ở trường trung học. Nhưng ông đã không kể những chuyện đó, mà nhìn chằm chằm vào phóng viên và hỏi: “Có bao giờ anh ngồi đó và nhìn con mình chết?”.
Nhà báo trả lời rằng, “Không”.
“Tôi đã trải qua điều đó trong sáu tháng”, cha nói.
Kết thúc cuộc phỏng vấn. Bất cứ ai đã từng mất đi một đứa con đều hiểu chính xác những gì ông muốn nói.
Cha tôi không bao giờ ngừng suy nghĩ về con gái mình. Tôi nhớ trong một thời gian dài, ông đã giữ khung ảnh khổ 3x5cm của con gái trên bàn làm việc của mình. Vào cuối cuộc đời mình, khi lập kế hoạch cho tang lễ của chính mình, cha hỏi mục sư của mình rằng liệu ông có thể gặp được Robin và mẹ của ông ở trên thiên đàng. Đó là hai người ông muốn gặp. Ông hỏi liệu Robin sẽ vẫn trông như một đứa trẻ, hay con bé vẫn “lớn lên” trong suốt sáu mươi năm kể từ khi ra đi. Điều đó còn là ẩn số tuyệt vời. Nhưng tôi nghĩ cha biết trong trái tim mình, ông sẽ được gặp lại cô con gái.